Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010
    
    
        Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX  ngày ngày  10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh  tế - xã  hội 5 năm 2006 – 2010
                                 (Tại Đại hội   đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng)
  Báo  cáo này kiểm  điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng  về Phương  hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm  2001 - 2005  và đề ra Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5   năm 2006  -  2010 nhằm thực hiện thắng lợi Chiến lược 10 năm 2001 - 2010, xây  dựng  nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công  nghiệp  theo hướng hiện đại.
 Phần thứ   nhất
 KIỂM  ĐIỂM  VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ IX CỦA ĐẢNG VỀ PHƯƠNG  HƯỚNG,  NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH  PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2001 - 2005
  Kế  hoạch phát triển  kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 được triển khai  thực hiện trong tình  hình chính trị, xã hội nước ta cơ bản ổn định, sức  mạnh đại đoàn kết  toàn dân tộc và thực lực nền kinh tế tiếp tục được  tăng cường, quan hệ  quốc tế không ngừng mở rộng, những tác động tiêu  cực của khủng hoảng  kinh tế - tài chính khu vực năm 1997 đã được khắc  phục.
 Tuy nhiên, những    diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế,  sự phục  hồi chậm của nền kinh tế thế giới và những biến động giá cả  trên thị  trường quốc tế, nạn dịch bệnh mới xuất hiện, những diễn biến  phức tạp  về thời tiết và khí hậu, sự chống phá của các thế lực thù địch đã gây  nhiều khó   khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã  hội.
  Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện các   nhiệm vụ do Đại hội IX đề ra. Công cuộc phát triển kinh tế - xã  hội đã đạt được những thành tựu rất quan   trọng nhưng vẫn còn dưới mức khả năng  phát triển của đất nước;   hoạt động kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém, bất cập.
 I - THÀNH TỰU
  1- Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước
 Tổng sản phẩm   trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%/năm[1]  (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838   nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương   khoảng 640 USD[2]).
 Nông nghiệp tiếp   tục phát triển khá; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng   5,4%/năm (kế hoạch 4,8%), giá trị tăng thêm tăng khoảng 3,8%/năm. Năng   suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và   nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể; an ninh lương thực quốc gia được bảo   đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được vị trí cao trên thị trường   thế giới[3].   Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã có bước tiến; độ che phủ rừng từ 33,7%   năm 2000 tăng lên 37,4% năm 2005.
 Kết  cấu hạ tầng tiếp  tục được đầu tư nhiều hơn. Bộ mặt nông thôn, đời sống  nông dân, kể cả ở  miền núi, vùng dân tộc thiểu số, có bước được cải  thiện. Chương trình  xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vượt lũ ở đồng  bằng sông Cửu Long  đạt được kết quả bước đầu.
 Công nghiệp và   xây dựng  liên   tục tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm tăng 10,2%/năm. Công nghiệp có   bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và   sức cạnh tranh.Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm (kế  hoạch  13,1%), cao hơn 1,9%/năm so với 5 năm trước. Cả nước đã có trên  100 khu  công nghiệp, khu chế xuất, nhiều khu hoạt động có hiệu quả; tỉ  lệ công  nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hoá sản phẩm tăng.  Công  nghiệp ở nông thôn và miền núi tăng trưởng cao hơn tốc độ trung  bình  của cả nước. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên  thị  trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng 10,7%/năm,  năng  lực xây dựng tăng khá nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng  hiện  đại; việc xây dựng đô thị, xây dựng nhà ở đạt nhiều kết quả, hàng  năm  đưa thêm vào sử dụng khoảng 20 triệu m2.
 Dịch vụ  có   bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có tiến bộ về   hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.Giá trị  sản xuất  của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm (kế hoạch 7,5%); giá trị  tăng thêm  tăng gần 7%/năm (kế hoạch 6,8%). Riêng năm 2005, giá trị tăng  thêm  tăng 8,5%, cao hơn mức tăng GDP.
 Tổng  mức lưu chuyển  hàng hoá bán lẻ tăng khoảng 15%/năm (kế hoạch 11 - 12%).  Ngành du lịch  phát triển khá, cả về lượng khách, loại hình và sản phẩm  du lịch. Dịch  vụ vận tải tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu.  Bưu chính -  viễn thông phát triển nhanh theo hướng hiện đại, đến cuối  năm 2005 đạt  19 máy điện thoại và 3,2 thuê bao Internet trên 100 dân;  100% xã có  điện thoại, hầu hết các xã có điểm bưu điện - văn hoá hoặc  điểm bưu  điện. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán,  tư vấn,  tin học, kỹ thuật, y tế, giáo dục, đào tạo, văn hoá... đều có  bước phát  triển. 
 2- Cơ cấu kinh   tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
 Về cơ cấu   ngành,   tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên   41% năm 2005 (kế hoạch 38 - 39%); tỉ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản   đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9% (kế hoạch 20 - 21%); tỉ trọng dịch vụ   ở mức 38,1% (kế hoạch 41 - 42%).
 Trong  từng ngành kinh  tế đã có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất,  cơ cấu công  nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn sản xuất với thị  trường.
 Cơ cấu kinh tế   vùng  đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng   vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế và vùng   sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh,   đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. 
 Cơ cấu lao động  đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu   kinh tế. Tỉ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng   số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động   trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong các   ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỉ   trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005. 
 Cơ cấu thành   phần kinh tế  tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần   kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước   đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều ngành   kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền   kinh tế. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả   trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát   triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời   sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá   đa dạng (đóng góp khoảng 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có   tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan   trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế.
 3- Vốn đầu tư   toàn xã hội tăng khá nhanh
 Vốn  đầu tư toàn xã  hội tăng khá nhanh, vượt mức dự kiến trên 30% so với kế  hoạch, (gấp 2  lần so với 5 năm trước). Vốn đầu tư của dân tăng nhanh;  tỉ lệ vốn đầu  tư phát triển so với GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên gần  39% năm 2005.  Vốn đầu tư trong nước chiếm 72% tổng vốn đầu tư toàn xã  hội.
 Đầu  tư đã tập trung  hơn cho những mục tiêu quan trọng. Lĩnh vực kinh tế  chiếm 70% tổng vốn  đầu tư toàn xã hội (nông, lâm nghiệp và thủy sản  trên 13%, công nghiệp  và xây dựng trên 44%, giao thông, bưu điện trên  12%); lĩnh vực xã hội  chiếm gần 27% (nhà ở, cấp thoát nước, công trình  công cộng khác gần  14%, giáo dục, đào tạo gần 4%, y tế - xã hội trên  2%, văn hoá, thể thao  gần 2%, khoa học và công nghệ trên 1%). Quy mô  vốn đầu tư ở các vùng  đều tăng; vùng nghèo, xã nghèo được Nhà nước quan  tâm đầu tư nhiều hơn.
 Vốn  đầu tư từ ngân  sách nhà nước đã tập trung cho việc xây dựng kết cấu hạ  tầng kinh tế,  xã hội, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói, giảm nghèo,  hỗ trợ các vùng  khó khăn (đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm  22,2%; giao  thông vận tải, bưu điện 27%; giáo dục, đào tạo 8,9%; y tế -  xã hội  6,9%; văn hóa, thể thao 4,3%; khoa học và công nghệ 3,1%). Vốn  đầu tư  của doanh nghiệp tăng nhanh, không chỉ phát triển sản xuất công  nghiệp,  nông nghiệp và dịch vụ mà còn tham gia đầu tư xây dựng kết cấu  hạ  tầng, xây dựng đô thị. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn  đầu  tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục được duy trì và tăng thêm,  tạo  nhiều công trình kết cấu hạ tầng và sản phẩm xuất khẩu.
 Đầu  tư đã làm tăng  đáng kể năng lực sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều sản  phẩm có sức cạnh  tranh, hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình  kết cấu hạ tầng  kinh tế, xã hội, trong đó có nhiều công trình lớn, tăng  cường tiềm lực  và cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế.
 4- Thể chế kinh   tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô   cơ bản ổn định
 Hệ  thống pháp luật,  chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường  định hướng xã hội  chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ; hoạt động  của các loại hình  doanh nghiệp và bộ máy quản lý nhà nước được đổi mới  một bước quan  trọng. Một số loại thị trường mới hình thành; các loại  thị trường hàng  hoá, dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, tài  chính, bất động sản  có bước phát triển phù hợp với cơ chế mới.
 Năm  năm qua, đã giữ  được các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tạo môi  trường và điều  kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
 Quỹ  tiết kiệm tăng  cao, bình quân khoảng 9%/năm, đồng thời, quỹ tiêu dùng  tăng 7%/năm  (tiêu dùng bình quân đầu người tăng gần 5,7%/năm); nhờ đó  đã có điều  kiện vừa đẩy mạnh đầu tư phát triển, vừa cải thiện đời sống  nhân dân.
 Tiềm  lực tài chính  nhà nước ngày càng được tăng cường; thu ngân sách tăng  trên 18%/năm, tỉ  lệ GDP huy động vào ngân sách bình quân hàng năm đạt  23,8%, vượt kế  hoạch. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng trên 18%/năm;  chi đầu tư phát  triển chiếm bình quân khoảng 30% tổng chi ngân sách;  bội chi ngân sách  hàng năm gần 4,9% GDP.
 Chính  sách tiền tệ  được điều hành linh hoạt hơn, giá trị đồng tiền cơ bản ổn  định; cán cân  thanh toán quốc tế giữ được cân bằng, dự trữ ngoại tệ  tăng dần, giảm  được tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng; nợ Chính  phủ và nợ quốc  gia vẫn trong giới hạn an toàn. 
 Ngân  hàng nhà nước,  hệ thống Ngân hàng thương mại, Quỹ hỗ trợ phát triển và  các quỹ đầu tư,  ngân hàng chính sách, thị trường chứng khoán, hệ thống  tín dụng nhân  dân được chấn chỉnh, có bước phát triển, hiệu quả hoạt  động tốt hơn.
 Quan  hệ cung – cầu cơ  bản là phù hợp, bảo đảm hàng hoá thiết yếu cho sản  xuất và đời sống.  Hàng tiêu dùng bình quân hàng năm tăng 5,1%, riêng  năm 2004 tăng 9,5%  và 2005 tăng 8,4%. 
 5- Hội nhập   kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng
 Quan  hệ kinh tế giữa  nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở  rộng; việc thực  hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN  (AFTA), Hiệp định  thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, quá trình đàm phán gia  nhập Tổ chức  thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định hợp  tác đa phương,  song phương khác đã góp phần tạo ra một bước phát triển  mới rất quan  trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu. 
 Xuất khẩu, nhập   khẩu  tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 5 năm đạt trên 110,6 tỉ   USD, tăng 17,5%/năm, vượt mục tiêu đề ra (kế hoạch 16%/năm); năm 2005,   xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD[4],   gấp đôi năm 2000. Xuất khẩu dịch vụ 5 năm đạt trên 21 tỉ USD, tăng 15,7%/năm,   bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu[5].   Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang một số nước và khu vực, nhất là Hoa Kỳ.
 Tổng  kim ngạch nhập  khẩu hàng hoá 5 năm khoảng 130 tỉ USD, tăng khoảng  19%/năm. Tổng kim  ngạch nhập khẩu dịch vụ 5 năm ước trên 21 tỉ USD,  tăng 10,3%/năm. Nhập  siêu hàng hoá 5 năm là 19,4 tỉ USD, bằng 17,4%  tổng kim ngạch xuất khẩu  hàng hoá, tuy ở mức cao nhưng vẫn trong tầm  kiểm soát và có xu hướng  giảm dần trong 3 năm cuối của kế hoạch 5 năm,  riêng năm 2005 là 14%[6].
 Cơ  cấu hàng xuất  khẩu, nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Trong  tổng kim ngạch  xuất khẩu, tỉ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản  giảm từ 37,2%  năm 2000 xuống còn 35,8% năm 2005; hàng nông, lâm, thuỷ  sản giảm từ 29%  xuống 24,5%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công  nghiệp tăng từ  33,9% lên 39,8%. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, năm 2005,  nhóm máy móc,  thiết bị và phụ tùng chiếm 32,5%; nhóm nguyên, nhiên, vật  liệu chiếm  61,3%; nhóm hàng tiêu dùng chiếm 6,2%.
 Vốn đầu tư từ   nước ngoài tăng khá, cả vốn ODA và vốn FDI. 
 Việc  ký kết các hiệp  định về vốn ODA trong 5 năm qua được duy trì đều đặn  với tổng giá trị  đạt khoảng 15 tỉ USD; vốn giải ngân đạt 7,7 tỷ USD,  tập trung chủ yếu  vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đào tạo  nguồn nhân lực;  xoá đói, giảm nghèo; tăng cường thể chế; bảo vệ môi  trường[7].
 Vốn FDI có bước   chuyển tích cực, tổng mức vốn đăng ký đạt gần 20 tỉ USD[8],   vượt trên 33% so với kế hoạch; tổng vốn thực hiện khoảng 14,3 tỉ USD,   vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Năm 2005,   các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm trên 33% tổng kim ngạch   xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu kể cả dầu khí), đóng góp trên 10% tổng   thu ngân sách nhà nước (ước tính cả dầu khí thì gần 34%), tạo việc làm   cho khoảng 90 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
  Các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu có một số dự án đầu tư ra nước ngoài.
 6- Giáo dục và   đào tạo có bước phát triển khá
 Cùng  với củng cố kết  quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, việc phổ  cập giáo dục  trung học cơ sở đã được triển khai tích cực, đến hết năm  2005 có 31  tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh  trong độ  tuổi đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Quy mô giáo dục tiếp tục  được mở  rộng và trình độ dân trí đã được nâng lên rõ rệt.
 Số  học sinh trung học  chuyên nghiệp tăng 12,9%/năm và dạy nghề dài hạn  tăng 12%/năm, sinh  viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Các trường  sư phạm từ trung  ương đến địa phương tiếp tục được củng cố và phát  triển. Chất lượng dạy  nghề có chuyển biến tích cực. Bước đầu đã hình  thành mạng lưới dạy  nghề cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc  thiểu số, người tàn  tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói, giảm  nghèo.
 Đổi  mới giáo dục đang  được triển khai từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy  nghề đến cao đẳng,  đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt  kết quả bước đầu.  Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học  chuyên nghiệp,  trung học phổ thông và dạy nghề đã được thành lập. 
 Đầu  tư cho sự nghiệp  giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005, chi  cho giáo dục và đào  tạo chiếm khoảng 18% tổng chi ngân sách nhà nước;  đã huy động được  nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục thông qua  việc phát hành  công trái giáo dục, đóng góp của dân cư, của doanh  nghiệp, vốn từ bên  ngoài. Cơ sở vật chất của ngành đã được tăng cường,  đặc biệt là đối với  vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
7- Khoa học và   công nghệ có tiến bộ
 Khoa học công   nghệ đã   tập trung hơn vào nghiên cứu ứng dụng, phục vụ các yêu cầu phát triển   kinh tế - xã hội. Nhiều thành tựu khoa học công nghệ mới được ứng dụng   trong các ngành xây dựng, công nghiệp, nông nghiệp..., đã tạo ra nhiều   sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng cao, có sức cạnh tranh, phục vụ   xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. 
 Khoa học xã hội   và nhân văn  đã có tiến bộ trong việc điều tra, nghiên cứu, cung cấp tư liệu và luận   cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh   tế - xã hội và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc.
 Khoa học tự   nhiên  đã tăng cường các hoạt động điều tra nghiên cứu, đánh giá tiềm năng tài   nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và phòng, tránh thiên tai.
 Bước  đầu đổi mới cơ  chế quản lý, đa dạng hoá phương thức giao nhiệm vụ  nghiên cứu như đấu  thầu cạnh tranh hoặc hỗ trợ một phần kinh phí nghiên  cứu ứng dụng cho  các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp liên  kết hoặc ký hợp  đồng với các tổ chức khoa học và công nghệ. Tiềm lực và  trình độ khoa  học, công nghệ trong nước đã có bước phát triển; hoạt  động khoa học,  công nghệ được mở rộng và nâng cao hiệu quả.
 Công tác bảo vệ   môi trường  đạt được những kết quả bước đầu. Hoạt động điều tra cơ bản về môi   trường được duy trì; việc ngăn ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường có   tiến bộ; đã ban hành một số chính sách về bảo vệ môi trường. 
 8-  Văn hoá -  xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát  triển kinh tế  với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực,  chỉ số phát  triển con người được nâng lên
 Trong  5 năm, đã tạo  việc làm cho 7,5 triệu lao động; các thành phần kinh tế  ngoài nhà nước  thu hút gần 91% lực lượng lao động xã hội và tạo 90%  việc làm mới. Xuất  khẩu lao động và chuyên gia bằng 2,3 lần so với 5  năm trước. Năm 2005,  thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời  gian sử dụng lao  động ở nông thôn đạt 80,65%.
 Thu  nhập bình quân  đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng (năm 2000) lên trên 10  triệu đồng (năm  2005), tăng 12,1%/năm và chỉ số phát triển con người  được nâng lên[9].
 Công tác xoá   đói, giảm nghèo  được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, đã thu được nhiều kết quả tốt thông   qua việc trợ giúp điều kiện sản xuất, tạo việc làm, cải thiện kết cấu   hạ tầng, nhà ở; tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã   hội cơ bản, tăng thu nhập, cải thiện đời sống; động viên các ngành, các   cấp, các đoàn thể quần chúng và các tầng lớp dân cư tham gia. Đến cuối   2005, tỉ lệ hộ nghèo còn 7% (kế hoạch là 10%, theo chuẩn Việt Nam cho   giai đoạn 2001 - 2005)[10].
 Công tác bảo vệ   và chăm sóc sức khỏe nhân dân  được chú trọng. Hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn. Một số dịch   bệnh mới như dịch viêm phổi cấp (SARS) được ngăn chặn, khắc phục nhanh.   Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở được củng cố và phát triển; hầu   hết các xã, phường trong cả nước đều có trạm y tế, trên 65% trạm có  bác  sĩ. Một số cơ sở y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công  nghệ  tiên tiến. Sản xuất thuốc trong nước đã chiếm khoảng 45% thị phần  thuốc  chữa bệnh. Chế độ khám, chữa bệnh cho người nghèo, khám, chữa  bệnh miễn  phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được triển khai thực hiện.  Việc phòng,  chống HIV/AIDS được đẩy mạnh hơn. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi  bị suy dinh  dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dưới 25% năm 2005, đạt  kế hoạch; tỉ  lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi còn 18%o. Tuổi thọ trung bình của người   Việt Nam từ 68 tuổi vào năm 1999 đã nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
 Hoạt động văn   hoá, thông tin  phát triển đa dạng hơn, góp phần nâng cao đời sống văn hoá của nhân   dân, làm tăng hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến   pháp luật; phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phát triển sâu   rộng hơn. Hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình được đổi mới về   nội dung, tăng quy mô, mở rộng phạm vi tới vùng sâu, vùng xa, vùng đồng   bào dân tộc thiểu số và ra nước ngoài. 
 Hoạt động thể   dục, thể thao  tiếp tục phát triển theo chiều rộng và có bước nâng cao. Cơ sở vật chất   - kỹ thuật của ngành thể thao đã được tăng cường đáng kể. Đã tổ chức   thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội thể thao   của người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 2.
 Việc chăm sóc   người có công  với cách mạng và trợ giúp người có đời sống khó khăn được duy trì và mở   rộng. Đi đôi với mở rộng diện được hưởng chính sách trợ giúp của Nhà   nước, phong trào "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn", đã được các   ngành, các cấp tổ chức, triển khai kịp thời, có hiệu quả và huy động   được sự tham gia của đông đảo nhân dân. 
 Công tác phòng,   chống tệ nạn xã hội  được đẩy mạnh hơn. Nhiều địa phương đã có những giải pháp tốt phòng   chống ma tuý, tệ nạn mại dâm và ngăn chặn các hoạt động văn hoá không   lành mạnh. Các hình thức cai nghiện, quản lý người sau cai nghiện có   hiệu quả hơn.
 9- Đại đoàn kết   toàn dân tộc vì sự nghiệp phát triển đất nước tiếp tục được tăng cường
 Sức  mạnh của khối đại  đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy, gắn với  thực hiện tự do,  dân chủ theo pháp luật đã động viên các tầng lớp nhân  dân, các dân  tộc, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài  chung sức xây  dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Các  tổ chức chính trị  - xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo và các tổ chức xã hội  khác với nhiều  hình thức đa dạng, phong phú đã góp phần tích cực vào  phát triển kinh  tế - xã hội.
 Toàn  xã hội đã phát  huy tinh thần tương thân tương ái, ý thức cộng đồng,  nhường cơm sẻ áo,  tích cực tham gia khắc phục thiên tai, giúp đỡ người  nghèo, người có  hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nạn nhân chất độc da  cam... và chăm lo cải  thiện đời sống của đồng bào dân tộc ở miền núi,  vùng sâu, vùng xa,  vùng biên giới, hải đảo.
 10-  Chính trị  - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan  hệ đối  ngoại được mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh  tế - xã  hội
 Cải  cách hành chính  có bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước  được tăng cường  một bước; dân chủ trong xã hội tiếp tục được phát huy;  an ninh chính  trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền và  toàn vẹn lãnh  thổ được giữ vững.
 Tiềm  lực quốc phòng,  an ninh được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần  và trang bị kỹ  thuật của lực lượng vũ trang được cải thiện. Các tuyến  phòng thủ, thế  trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng  cố. Việc kết hợp  giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc  phòng, an ninh được  thực hiện tốt hơn. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và   giữ gìn trật  tự an toàn xã hội đạt được  thành tựu quan trọng; đã phát hiện, ngăn  chặn nhiều âm mưu phá hoại của  các thế lực thù địch; kiềm chế được tội  phạm hình sự; xử lý nghiêm tội  tham nhũng.
 Hoạt  động chính trị  đối ngoại không ngừng được mở rộng cả trong quan hệ nhà  nước và quan hệ  nhân dân; đạt được kết quả quan trọng trong việc thực  hiện đường lối  đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nâng cao vị thế của Việt  Nam trên  trường quốc tế.
 Công  tác quốc phòng,  an ninh và đối ngoại đã góp phần giữ vững ổn định chính  trị, xã hội,  tạo môi trường hoà bình, ổn định và điều kiện thuận lợi  cho việc thực  hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
 Đạt được   những thành tựu rất quan trọng trên là do :
 Thứ nhất,  Đảng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn; Nghị quyết Đại hội lần thứ   IX của Đảng với tinh thần tiếp tục đổi mới đã được cụ thể hoá phù hợp   với thực tiễn trong các nghị quyết của Trung ương và được thể chế hoá   theo hướng xây dựng đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội   chủ nghĩa.
 Thứ hai,  sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; sự chỉ đạo, điều   hành có hiệu quả của Chính phủ; sự năng động và quyết tâm của các   ngành, các cấp, các doanh nghiệp khắc phục khó khăn để hoàn thành thắng   lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001- 2005.
 Thứ ba,  kết quả đầu tư của nhiều năm qua, cùng với sự huy động ngày càng cao   mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào   công cuộc phát triển đất nước.
(Trích nội dung: Báo cáo của Ban  Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày ngày 10 tháng 4  năm 2006 về  phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm  2006 – 2010  trong Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X(18/4-25/4/2006))