Cổng thông tin điện tử Chính phủ
English
中文
  • Trang chủ
  • Chính phủ
  • Công dân
  • Doanh nghiệp
  • Kiều bào
  • Báo điện tử chính phủ
  • Văn phòng chính phủ
Nước CHXHCN
Việt Nam
Giới thiệu
Chính phủ
Thư điện tử
công vụ Chính phủ
Hà Nội 29° - 31° icon
  • Lai Châu 23° - 25° icon
  • Điện Biên 26° - 28° icon
  • Sơn La 25° - 27° icon
  • Hòa Bình 27° - 29° icon
  • Lào Cai 29° - 31° icon
  • Yên Bái 28° - 30° icon
  • Hà Giang 26° - 28° icon
  • Tuyên Quang 29° - 31° icon
  • Bắc cạn 27° - 29° icon
  • Thái Nguyên 29° - 31° icon
  • Phú Thọ 30° - 32° icon
  • Vĩnh Phúc 30° - 32° icon
  • Cao Bằng 26° - 28° icon
  • Lạng Sơn 26° - 28° icon
  • Quảng Ninh 29° - 31° icon
  • Bắc Giang 29° - 31° icon
  • Bắc Ninh 29° - 31° icon
  • Hải Phòng 28° - 30° icon
  • Hà Nội 29° - 31° icon
  • Hải Dương 29° - 31° icon
  • Hưng Yên 29° - 31° icon
  • Nam Định 28° - 30° icon
  • Hà Nam 29° - 31° icon
  • Ninh Bình 29° - 31° icon
  • Thái Bình 29° - 31° icon
  • Thanh Hóa 28° - 30° icon
  • Nghệ An 30° - 32° icon
  • Hà Tĩnh 27° - 29° icon
  • Quảng Bình 29° - 31° icon
  • Quảng Trị 28° - 30° icon
  • Huế 25° - 27° icon
  • Đà Nẵng 26° - 28° icon
  • Quảng Nam 27° - 29° icon
  • Quảng Ngãi 27° - 29° icon
  • Bình Định 28° - 30° icon
  • Phú Yên 29° - 31° icon
  • Khánh Hòa 28° - 30° icon
  • Ninh Thuận 26° - 28° icon
  • Bình Thuận 26° - 28° icon
  • Kon Tum 23° - 25° icon
  • Gia Lai 22° - 24° icon
  • Đắc Lăk 23° - 25° icon
  • Đắc Nông 22° - 24° icon
  • Lâm Đồng 17° - 19° icon
  • Bình Phước 24° - 26° icon
  • Tây Ninh 25° - 27° icon
  • Đồng Nai 26° - 28° icon
  • Bình Dương 25° - 27° icon
  • Hồ Chí Minh 26° - 28° icon
  • BR-Vũng Tàu 28° - 30° icon
  • Long An 27° - 29° icon
  • Tiền Giang 27° - 29° icon
  • Vĩnh Long 27° - 29° icon
  • Bến tre 27° - 29° icon
  • Đồng Tháp 27° - 29° icon
  • Trà Vinh 27° - 29° icon
  • An Giang 27° - 29° icon
  • Cần Thơ 27° - 29° icon
  • Hậu Giang 28° - 30° icon
  • Sóc Trăng 28° - 30° icon
  • Kiên Giang 29° - 31° icon
  • Bạc Liêu 28° - 30° icon
  • Cà Mau 28° - 30° icon

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ, thăm và làm việc tại Hoa Kỳ, Liên Hợp Quốc

SEA Games 31 - Việt Nam 2022

Phục hồi và phát triển kinh tế: Những việc cần làm ngay

Giải ngân vốn đầu tư công

Chuyển đổi số

Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19

  • Trang chủ
  • Chính phủ
  • Thông cáo báo chí VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Thông cáo báo chí tháng 12 năm 2021
Cỡ chữ
Độ tương phản

BỘ TƯ PHÁP

Số: 73/TCBC-BTP

 

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2022

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

Văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 12 năm 2021

________________________________________

Thực hiện khoản 2, khoản 3 Điều 12 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Bộ Tư pháp ra Thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 12 năm 2021 như sau:

I. DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐƯỢC BAN HÀNH

Trong tháng 12năm 2021, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như sau:

Các Nghị định của Chính phủ:

1. Nghị định số104/2021/NĐ-CPngày 04 tháng 12năm 2021 của Chính phủgia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước;

2. Nghị định số 105/2021/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống ma túy;

3. Nghị định số 106/2021/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Biên phòng Việt Nam;

4. Nghị định số 108/2021/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng;

5. Nghị định số 110/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủbãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ;

6. Nghị định số 112/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

7. Nghị định số 113/2021/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam;

8. Nghị định số 115/2021/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy định số lượng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và quy trình, thủ tục bầu, từ chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức thành viên Ủy ban nhân dân;

9. Nghị định số 116/2021/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống ma túy, Luật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy;

10. Nghị định số 117/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ;

11. Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính;

12. Nghị định số 119/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới;

13. Nghị định số 120/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

14. Nghị định số 121/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài;

15. Nghị định số 123/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng;

16. Nghị định số 125/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới;

17. Nghị định số 127/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục;

18. Nghị định số 128/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;

19. Nghị định số 129/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; thể thao; quyền tác giả, quyền liên quan; văn hóa và quảng cáo;

20. Nghị định số 130/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em;

21. Nghị định số 134/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng;

22. Nghị định số 136/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ;

23. Nghị định số 137/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh đặt cược và trò chơi có thưởng;

24. Nghị định số 138/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu và giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính;

25. Nghị định số 139/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa;

26. Nghị định số 140/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc;

27. Nghị định số 143/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 88/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 11 năm 2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng;

28. Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.

Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:

1. Quyết định số 37/2021/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước;

2. Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ;

3. Quyết định số 39/2021/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025;

4. Quyết định số 40/2021/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước.

II. HIỆU LỰC THI HÀNH, SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÁCVĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1. Nghị định số 104/2021/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 04 tháng 12 năm 2021).

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Trong năm 2021, tình hình đại dịch Covid – 19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên thế giới, nhiều biến chủng mới xuất hiện có tốc độ lây lan nhanh hơn và nguy hiểm hơn. Tại Việt Nam đã tiếp tục có hai làn sóng Covid – 19 trong năm 2021: làn sóng Covid – 19 thứ ba xuất hiện vào cuối tháng 01/2021 được khống chế trong khoảng 60 ngày; đặc biệt làn sóng Covid – 19 thứ tư xuất hiện từ cuối tháng 04/2021 cho đến nay đã lây lan nhanh chóng ra hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước, số lượng ca nhiễm mới tăng nhanh chóng và kỷ lục, đặc biệt gây hậu quả khó khăn đối với các tỉnh, thành phố như Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An…

- Dự báo kinh tế thế giới trong năm 2021 sẽ tiếp tục chịu tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19. Sự sụt giảm tăng trưởng của các đối tác lớn đã tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế của nước ta. Đặc biệt, dịch Covid-19 bùng phát trở lại trong nước vào cuối tháng 4/2021 trên phạm vi rộng hơn, khiến nhiều địa phương phải thực hiện biện pháp giãn cách xã hội trên địa bàn tỉnh, thành phố, nhiều cơ sở kinh doanh phải đóng cửa khiến nhiều người không có việc làm. Dịch bệnh Covid – 19 tại Việt Nam trong thời gian qua đã gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với đà hồi phục kinh tế và gây ảnh hưởng đến nhiều ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, trong đó có ngành sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước.Để góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid – 19, ngày 09/09/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP trong đó giao Bộ Tài chính xem xét, nghiên cứu trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đến hết năm 2021.

c) Nội dung chủ yếu: - Nghị định gồm 05 Điều:

Điều 1. Phạm vi áp dụng

Điều 2. Đối tượng áp dụng

Điều 3. Gia hạn thời hạn nộp thuế

Điều 4. Trình tự, thủ tục đề nghị gia hạn

Điều 5. Tổ chức thực hiện và hiệu lực thi hành

- Nghị định áp dụng đối với: doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước; cơ quan thuế; các tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Nghị định quy định việc gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 10 và tháng 11 năm 2021 đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, cụ thể như sau:

+ Thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 10 năm 2021 chậm nhất là ngày 20 tháng 12 năm 2021.

+ Thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 11 năm 2021 chậm nhất là ngày 30 tháng 12 năm 2021.

Việc gia hạn áp dụng đối với trường hợp kê khai bổ sung hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế được gia hạn và áp dụng đối với trường hợp doanh nghiệp có các chi nhánh, đơn vị trực thuộc có hoạt động sản xuất hoặc lắp ráp ô tô thực hiện kê khai thuế tiêu thụ đặc biệt riêng với cơ quan thuế quản lý trực tiếp. Người nộp thuế thuộc đối tượng được gia hạn gửi Giấy đề nghị gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt (bằng phương thức điện tử; gửi bản giấy trực tiếp đến cơ quan thuế hoặc gửi qua đường bưu điện) cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp một lần cho toàn bộ các kỳ được gia hạn chậm nhất là ngày 15 tháng 12 năm 2021. Trong thời gian được gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, căn cứGiấy đề nghị gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, cơ quan thuế không tính tiền chậm nộp đối với số tiền thuế tiêu thụ đặc biệt được gia hạn.

2. Nghị định số 105/2021/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống ma túy

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Các văn bản sau đây hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành:

Nghị định số80/2001/NĐ-CPngày 05 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ hướng dẫn việc kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở trong nước;

Nghị định số58/2003/NĐ-CPngày 29 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ quy định về kiểm soát nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần;

Nghị định số45/2009/NĐ-CPngày 13 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ hướng dẫn việc nhập khẩu mẫu, lấy mẫu, quản lý sử dụng mẫu các chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần vì mục đích quốc phòng, an ninh;

Quyết định số133/2002/QĐ-TTgngày 09 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giữa lực lượng Công an, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển;

Quyết định số52/2011/QĐ-TTgngày 21 tháng 9 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành

+ Ngày 09/10/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giữa các lực lượng Công an, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển (Quyết định số 133/2002/QĐ-TTg). Trải qua 19 năm thực hiện, công tác phòng, chống ma tuý của các lực lượng đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng: Đã phát huy được vai trò chủ công, nòng cốt, đoàn kết gắn bó trong công tác phối hợp phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn cả nước nói chung và ở khu vực biên giới, cửa khẩu, trên biển nói riêng; thực hiện tốt chức năng tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia công tác phòng, chống tội phạm ma túy; công tác phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các lực lượng trong trao đổi, xử lý, xác minh thông tin, xác lập, đấu tranh chuyên án chung đã có nhiều chuyển biến, bước đầu phát huy hiệu quả, qua đó triệt phá được nhiều đường dây tội phạm ma túy xuyên quốc gia, bắt giữ đối tượng truy nã về ma túy, triệt xóa các điểm, tụ điểm ma túy phức tạp, góp phẩn bảo đảm an ninh trật tự ở trong nước và các địa bàn trọng điểm.

+ Hiện nay, công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy của Việt Nam được thực hiện trên cơ sở nội dung của 03 công ước quốc tế gồm: Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961, sửa đổi theo Nghị định thư năm 1972; Công ước quốc tế về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988. Đồng thời thực hiện căn cứ vào các văn bản pháp luật: Luật phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi năm 2008; các Nghị định: Nghị định số 80/2001/NĐ-CP ngày 05/11/2001 của Chính phủ hướng dẫn các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy trong nước; Nghị định số 58/2003/NĐ-CP ngày 29/5/2003 của Chính phủ quy định về kiểm soát nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; Nghị định số 45/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 của Chính phủ hướng dẫn việc nhập khẩu mẫu, lấy mẫu, quản lý, sử dụng mẫu các chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần vì mục đích quốc phòng, an ninh; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành danh mục các chất ma túy và tiền chất và Nghị định số 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 73; Quyết định số 52/2011/QĐ-TTg ngày 21/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và thông tư của Bộ Công an hướng dẫn thực hiện các Nghị định.

Với sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật, tuân thủ 03 Công ước quốc tế; sự vào cuộc của các cấp, các ngành và nhân dân, công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy của Việt Nam thời gian qua đã được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, không xảy ra thất thoát vào các hoạt động bất hợp pháp; không để Việt Nam trở thành địa bàn sản xuất ma túy trái phép, gây phức tạp về an ninh trật tự.

+ Đối với công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, thời gian qua cùng với công tác phòng, chống ma túy nói chung, công tác này bước đầu được quan tâm thực hiện. Hành vi sử dụng trái phép theo Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là tội phạm ma túy, bị xử lý theo quy định của pháp luật với hình phạt cao nhất hai năm, tái phạm tội có thể bị phạt tù đến năm năm; bị xử phạt vi phạm hành chính (theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ) với số tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Qua đó, đã có tác dụng răn đe tội phạm, góp phần hạn chế tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là trong thanh thiếu niên.

+ Công tác phối hợp liên ngành trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển thời gian qua mặc dù đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, nhưng quá trình tổ chức thực hiện cũng bộc lộ nhiều khó khăn, bất cập dẫn đến hoạt động vận chuyển trái phép chất ma túy qua biên giới vẫn có chiều hướng gia tăng mạnh trong những năm gần đây; nhiều đường dây vận chuyển trái phép chất ma túy với số lượng lớn từ nước ngoài vào Việt Nam mà chưa bị phát hiện; xuất hiện một số đường dây có sự liên kết giữa các đối tượng trong và ngoài nước để mua bán, vận chuyển tiền chất với số lượng lớn, phục vụ sản xuất trái phép chất ma túy.

Nguyên nhân là do công tác phối hợp giữa các lực lượng còn bộc lộ nhiều bất cập, khó khăn, vướng mắc, đáng chú ý là: (1) Việc phối hợp tuần tra, phòng chống tội phạm ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu, trên biển chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu quả chưa cao, trách nhiệm của từng lực lượng chưa rõ ràng; (2) Hiệu quả công tác kiểm soát ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu vẫn chưa tương xứng với tình hình thực tế, vẫn xảy ra tình trạng tội phạm lợi dụng chính sách thông thoáng của nhà nước đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, lợi dụng cơ chế “luồng xanh” để thông quan hàng hóa, giấu ma túy lẫn trong các công- ten- nơ vận chuyển trái phép đi nước ngoài với số lượng lớn; (3) Việc giải quyết các địa bàn trọng điểm, tuyến phức tạp về ma túy vẫn chưa triệt để, hiệu quả công tác phát hiện, ngăn chặn sự gia tăng người nghiện ma tuý mới và tổ chức cai nghiện ma tuý còn nhiều hạn chế; (4) Công tác phối hợp thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, điều tra, xử lý tội phạm có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn chồng chéo, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Cá biệt có trường hợp còn cản trở lẫn nhau khi thực hiện các biện pháp nghiệp vụ phòng, chống tội phạm ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển; (5) Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của mỗi lực lượng có sự khác nhau và thay đổi qua từng giai đoạn, trong khi đó hành lang pháp lý, nhất là cơ chế phối hợp giữa các lực lượng chưa phù hợp, còn chồng chéo, trùng dẫm, chậm được bổ sung, hoàn thiện; (6) Một số văn bản quy phạm pháp luật được viện dẫn trong Quyết định số 133/2002/QĐ-TTg đã hết hiệu lực hoặc được thay thế, sửa đổi, bổ sung...

+ Công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy được quy định ở nhiều văn bản khác nhau và một số nội dung không còn phù hợp với thực tiễn, cụ thể là: (1) Nội dung quy định về công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy được quy định ở nhiều văn bản, trong khi một số vấn đề đã được quy định ở văn bản quy phạm pháp luật khác mới hơn; (3) Một số quy định tại các văn bản đối với thực tế công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy đã không còn phù hợp, còn thiếu các nội dung như hoạt động kiểm soát, phối hợp kiểm soát trong lĩnh vực Hải quan; chức năng, nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; chế độ báo cáo chưa phù hợp với xu thế phát triển Chính phủ điện tử và cơ chế hành chính một cửa quốc gia, gây khó khăn cho cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện..; (3) Mô hình tổ chức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có nhiều thay đổi; nội dung các quy định chưa điều chỉnh hết các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy mới phát sinh hiện nay như: thiếu hoạt động tạm xuất, tái nhập và một số hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; thiếu các chất được kiểm soát là thuốc tiền chất, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất và nguyên liệu làm thuốc...; (4) Các quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương chưa cụ thể và thống nhất, đặc biệt là trong công tác phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở các cấp, dẫn đến việc thực hiện không đảm bảo nguyên tắc, chưa chú trọng thực hiện công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở trong nước mà chỉ kiểm soát, quản lý ở hoạt động khẩu xuất, nhập khẩu, chưa kiểm soát đến sản phẩm cuối cùng; (5) Việc triển khai hoạt động phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở địa phương theo Quyết định 52/2011/QĐ-TTg chưa hiệu quả dẫn các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy chưa được quan tâm thực hiện, hoặc còn mang tính hình thức, dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý gây nguy cơ thất thoát...

+ Những năm gần đây, dưới áp lực của tình hình ma túy quốc tế, khu vực và trong nước cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự (vũ trường, quán bar, nhà hàng, karaoke, lễ hội âm nhạc..) làm gia tăng tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là trong thanh thiếu niên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Trong khi nhận thức, quan điểm của một số cấp ủy Đảng, chính quyền và người dân về hậu quả, tác hại của việc sử dụng trái phép chất ma túy chưa đầy đủ, chưa có giải pháp căn cơ đối với vấn đề này.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung 2009 không bị coi là tội phạm, chỉ bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với mức xử phạt chưa đủ sức răn đe; chưa có chế tài quy định xử phạt (hoặc cưỡng chế) đối với người không chấp hành việc xét nghiệm chất ma túy có trong cơ thể khi cơ quan chức năng có căn cứ xác định người đó sử dụng trái phép chất ma túy; chưa có cơ chế để quản lý hiệu quả người sử dụng trái phép chất ma túy nên đã gây ra tình trạng mất an ninh, trật tự nghiêm trọng ở nhiều nơi mà nguyên nhân xuất phát từ những người sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là người sử dụng ma túy tổng hợp bị “loạn thần”, không kiểm soát được hành vi. Nếu thực hiện hiệu quả việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy ngay từ lần đầu sử dụng sẽ có tác động giảm số người nghiện ma túy; giảm nguồn cầu về ma túy, kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi nguy hiểm, hậu quả gây ra cho xã hội của người sử dụng trái phép chất ma túy; đồng thời tư vấn, giúp đỡ, động viên, giáo dục họ từ bỏ ma túy.

Với những lý do nêu trên, việc xây dựng Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống ma túy về phối hợp của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là yêu cầu cấp thiết, khách quan, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong thời gian tới, góp phần bảo đảm an ninh trật tự của đất nước và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

- Mục đích ban hành

+ Tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống ma túy; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy;

+ Khắc phục những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các quy định hiện hành có liên quan; góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý chặt chẽ, thuận lợi, bảo đảm sự đồng bộ thống nhất trong hệ thống pháp luật quy định về hoạt động phối hợp giữa Công an, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ phòng, chống ma túy trong tình hình mới, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

c) Nội dung chủ yếu:

Chương I:Quy định chung

Quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc thực hiện, giải thích từ ngữ.

- Về phạm vi điều chỉnh: Nghị định này quy định về nguyên tắc, nội dung, hình thức, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong thực hiện công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về ma túy tại khu vực biên giới, cửa khẩu và trên biển; quy định về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

- Về đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác phối hợp phòng, chống tội phạm về ma túy, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

- Về nguyên tắc thực hiện: Nghị định này quy định các nguyên tắc thực hiện công tác phối hợp của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

- Về giải thích từ ngữ: Giải thích một số từ ngữ để thống nhất cách hiểu trong Nghị định này.

Chương II:Phối hợp của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy

Quy định cụ thể về các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy; nội dung và hình thức phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong thực hiện công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về ma tuý.

- Về nội dung phối hợp: Phối hợp tham mưu, chỉ đạo; phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân; phối hợp trao đổi thông tin; phối hợp thực hiện các biện pháp nghiệp vụ; phối hợp đấu tranh chuyên án và điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc cụ thể; các nội dung phối hợp khác (đào tạo, huấn luyện, hợp tác quốc tế…).

- Về hình thức phối hợp: Trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu, tình hình liên quan đến nội dung phối hợp giữa các các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thông qua các hình thức làm việc trực tiếp, qua các phương tiện thông tin, gửi văn bản…; thành lập Tổ công tác phối hợp liên ngành; quy định chi tiết về công tác giao ban; chế độ báo cáo, thống kê giữa các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy .

Chương III:Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy

Quy định cụ thể về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, gồm các nội dung cụ thể:

- Mục 1: Kiểm soát các hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển chất ma túy, tiền chất và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Quy định các cơ quan có thẩm quyền cho phép và cơ quan, tổ chức, cá nhân được tiến hành các hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển chất ma túy, tiền chất và thuốc thú y có chứa tiền chất; kiểm soát hoạt động nghiên cứu chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động sản xuất chất ma túy, tiền chất và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất; kiểm soát các hoạt động liên quan đến thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.

- Mục 2: Kiểm soát các hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Quy định cơ quan có thẩm quyền cho phép và cơ quan, tổ chức, cá nhân được tiến hành hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu chất ma túy, tiền chất và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.

- Mục 3: Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh. Quy định cơ quan có thẩm quyền cho phép và các cơ quan, đơn vị được tiến hành các hoạt động hợp pháp liên quan ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh; kiểm soát hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất chất ma túy, tiền chất; nhập khẩu, xuất khẩu và vận chuyển chất ma túy, tiền chất; hoạt động bảo quản, tồn trữ, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi chất ma túy, tiền chất; nhập khẩu mẫu, lấy mẫu chất ma túy; bảo quản, phân phối, sử dụng mẫu chất ma túy; xử lý mẫu chất ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh; lập dự trù, hồ sơ, chế độ báo cáo và kinh phí; trách nhiệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.

- Mục 4: Lập hồ sơ và chế độ báo cáo các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy. Quy định việc lập hồ sơ; chế độ báo cáo và lập dự trù.

- Mục 5: Phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy. Quy định nội dung phối hợp và cơ chế phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; Tổ Công tác liên ngành phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy các cấp.

Chương IV: Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy

Quy định về công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy:

- Đối tượng quản lý; xác định người có hành vi sử dụng trái phép hất ma túy; kinh phí cho việc thực hiện biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

- Thu thập thông tin, tài liệu để lập Hồ sơ quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; xác minh nơi cư trú và gửi hồ sơ.

- Quyết định quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; thời hạn quản lý và cách tính thời hạn quản lý; nội dung quản lý; xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể trong thời hạn quản lý; xử lý trường hợp người bị xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể không chấp hành xét nghiệm; giám sát việc chuyển đi khỏi nơi cư trú;dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; công tác quản lý và lưu trữ hồ sơ quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

Chương V:Trách nhiệm của cơ quan

Quy định cụ thể về trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Chương VI: Tổ chức thực hiện

Quy định về kinh phí thực hiện; quy định chuyển tiếp; hiệu lực và trách nhiệm thi hành.

Ban hành kèm theo Nghị định Phụ lục các Biểu mẫu quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống ma túy, cụ thể: (1) Đơn đề nghị cấp giấy phép nhập khẩu (xuất khẩu); (2) Giấy phép nhập khẩu (xuất khẩu) bản tiếng Việt; (3) Giấy phép/Import (Export) Licences nhập khẩu (xuất khẩu) bản tiếng Anh; (4) Phiếu kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể; (5) Thông báo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; (6) Bản tóm tắt lý lịch người sử dụng trái phép chất ma túy; (7) Bản tường trình; (8) Quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; (9) Thông báo về việc chuyển hồ sơ quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; (10) Quyết định dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; (11) Quyết định chấm dứt quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

3. Nghị định số 106/2021/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Biên phòng Việt Nam

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 21/01/2022.

Nghị định số 02/1998/NĐ-CP ngày 06/01/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực; Điều 12 Nghị định số 02/1998/NĐ-CP tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi được bãi bỏ, thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác.

Điều 6 Thông tư số 2866/1998/TT-BQP ngày 12/9/1998 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện Nghị định số 02/1998/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 2076/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 08/7/1998 của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính về thực hiện một số chính sách đối với Bộ đội Biên phòng; Thông tư liên tịch số 35/2004/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 24/3/2004 của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư liên tịch số 2076/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 08/7/1998 của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính về thực hiện một số chính sách đối với Bộ đội Biên phòng tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi có chế độ, chính sách mới đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được ban hành.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Quy định chi tiết các điều khoản Luật Biên phòng Việt Nam giao về hệ thống tổ chức, chính sách ưu đãi và chế độ đặc thù đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng; phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng.

- Tạo cơ sở pháp lý để xác định rõ hệ thống tổ chức của Bộ đội Biên phòng, chính sách ưu đãi, chế độ đặc thù đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng và trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

- Bảo đảm các quy định tại Nghị định phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về hệ thống tổ chức của Bộ đội Biên phòng, chính sách ưu đãi, chế độ đặc thù đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng; chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng; bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành và bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về biên phòng.

c) Nội dung chủ yếu:

Nghị định gồm 04 chương 29 điều, quy định chi tiết về hệ thống tổ chức; chính sách ưu đãi và chế độ đặc thù đối với Bộ đội Biên phòng; phối hợp giữa bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng; đối tượng áp dụng: Đối với cơ quan, đơn vị, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Nội dung chủ yếu: Quy định chi tiết về hệ thống tổ chức; chính sách ưu đãi và chế độ đặc thù đối với Bộ đội Biên phòng; phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng.

4. Nghị định số 108/2021/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 01 năm 2022. Các quy định tại Nghị định này được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết:

+ Cơ sở pháp lý

Căn cứ quy định tại Điều 57 Luật Bảo hiểm xã hội thì “Chính phủ quy định việc điều chỉnh lương hưu trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế phù hợp với ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội”.

Theo văn bản số 63/VPCP-TH ngày 11/01/2021 của Văn phòng Chính phủ về chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2021; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội được giao nhiệm vụ xây dựng Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng.

+ Cơ sở thực tiễn

Lần gần nhất Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng là từ ngày 01/7/2019 theo quy định tại Nghị định số 44/2019/NĐ-CP ngày 20/5/2019 của Chính phủ.

Trong năm 2020 và năm 2021, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên việc điều chỉnh theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện. Theo số liệu do Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu dùng bình quân của các năm 2019, 2020 và ước thực hiện năm 2021 lần lượt là 2,79%; 3,23% và 4%; tốc độ tăng trưởng kinh tế của các năm 2019, 2020 và ước thực hiện năm 2021 lần lượt là 7,02%; 2,91% và 6,5%. Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng sau 3 năm 2019 – 2021 ước tăng 10,35%; cùng với đó, ước tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5,5%/năm trong giai đoạn 2019- 2021 thì cần thiết xem xét thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

Từ những cơ sở pháp lý và thực tiễn nêu trên, thực hiện chương trình công tác của Chính phủ, Bộ đã xây dụng dự thảo Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng để trình Chính phủ ban hành Nghị định số 108/2021/NĐ-CP.

- Mục đích ban hành

Nghị định được xây dựng và ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định tại Điều 57 Luật Bảo hiểm xã hội; đồng thời, kết hợp xử lý vấn đề lương hưu đối với những người nghỉ hưu trước năm 1995 theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 2 Chương, 6 Điều với những nội dung cơ bản và được dư luận quan tâm như sau:

- Về đối tượng điều chỉnh: Nghị định thực hiện điều chỉnh đối với các đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng trước ngày 01/01/2022, bao gồm 7 nhóm đối tượng sau:

+ Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động (kể cả người có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người nghỉ hưu từ quỹ bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An chuyển sang theo Quyết định số 41/2009/QĐ-TTg ngày 16 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An sang bảo hiểm xã hội tự nguyện); quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu hằng tháng.

+ Cán bộ xã, phường, thị trấn quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ,chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấnvà những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng lương hưu, trợ cấp hằng tháng.

+ Người đang hưởng trợ cấp mất sức lao động hằng tháng theo quy định của pháp luật; người đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 04 tháng 8 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ cấp cho những người đã hết tuổi lao động tại thời điểm ngừng hưởng trợ cấp mất sức lao động hằng tháng, Quyết định số 613/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ cấp hằng tháng cho những ngườicó từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tếđã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động; công nhân cao su đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 206-CP ngày 30 tháng 5 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với công nhân mới giải phóng làm nghề nặng nhọc, có hại sức khỏe nay già yếu phải thôi việc.

+ Cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 130-CP ngày 20 tháng 6 năm 1975 của Hội đồng Chính phủ bổ sung chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã và Quyết định số 111-HĐBT ngày 13 tháng 10 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi, bổ sung một số chính sách, chế độ đối với cán bộ xã, phường.

+ Quân nhân đang hưởng chế độ trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham giakháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công táctrong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ).

+ Công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20 tháng 8 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ đối với cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dântham gia kháng chiến chống Mỹ có dưới 20 năm công tác trongCông an nhân dân đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương.

+ Quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham giachiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a,giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc.

Ngoài ra, với các đối tượng nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995 sau khi thực hiện điều chỉnh với mức 7,4% mà có mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng dưới 2.500.000 đồng/tháng, thì tiếp tục được điều chỉnh.

- Thời điểm điều chỉnh: Từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

- Mức điều chỉnh

+ Tăng thêm 7,4% đối với các đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng trước ngày 01 tháng 01 năm 2022.

+ Các đối tượng nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995 sau khi thực hiện điều chỉnh mức 7,4% mà có mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng dưới 2.500.000 đồng/tháng, thì tiếp tục được điều chỉnh: tăng thêm 200.000 đồng/người/tháng đối với những người có mức lương hưu, trợ cấp từ 2.300.000 đồng/người/tháng trở xuống và tăng lên bằng 2.500.000 đồng/người/tháng đối với những người có mức lương hưu, trợ cấp từ 2.300.000 đồng/người/tháng đến dưới 2.500.000 đồng/người/tháng.

5. Nghị định số 110/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 12 năm 2021.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để chấm dứt hiệu lực các văn bản do Chính phủ ban hành không còn được áp dụng trên thực tế nhưng chưa có văn bản xác định hết hiệu lực tại Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2018 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2018.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 02 Điều bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, cụ thể: (1) Quy định việc bãi bỏ toàn bộ 13 nghị định của Chính phủ. Các văn bản bãi bỏ được sắp xếp theo phạm vi điều chỉnh (trong đó sắp xếp văn bản được sửa đổi, bổ sung trước văn bản sửa đổi, bổ sung để dễ theo dõi, các văn bản điều chỉnh về cùng một vấn đề được sắp xếp gần nhau) và theo thứ tự thời gian ban hành (từ ban hành trước đến ban hành sau); (2) Điều khoản thi hành.

6. Nghị định số 112/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định trên có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật: Nghị định số38/2020/NĐ-CPngày 03 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Thông tư liên tịch số17/2007/TTLT-BLĐTBXH-NHNNVNngày 04 tháng 9 năm 2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp và tiền ký quỹ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành nhằm quy định chi tiết các nội dung được giao trong Luật số 69/2020/QH14 ngày 13 tháng 11 năm 2020 về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định số 112/2021/NĐ-CP ngày 10/12/2021 của Chính phủ bao gồm 08 chương, 47 điều.

- Phạm vi điều chỉnh: Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về:Điều kiện, hồ sơ cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theokhoản 2 Điều 10; khoản 4 Điều 12; khoản 4 Điều 16; khoản 6 Điều 17; khoản 2 Điều 74; Điều kiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại một số thị trường, ngành, nghề, công việc theokhoản 2 Điều 8; Mức ký quỹ, quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp theokhoản 3 Điều 24; khoản 2 Điều 36; Mức trần tiền ký quỹ, quản lý, sử dụng và hoàn trả tiền ký quỹ của người lao động theokhoản 5 Điều 25; điểm c khoản 1 Điều 43; Điều kiện, thủ tục đăng ký trực tuyến hợp đồng lao động giao kết sau khi xuất cảnh theokhoản 2 Điều 54; Các biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

- Đối tượng áp dụng: Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký với đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Công dân Việt Nam giao kết hợp đồng lao động hợp pháp sau khi xuất cảnh; Doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây viết tắt là doanh nghiệp dịch vụ); Doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề ở nước ngoài; Đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được giao nhiệm vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây viết tắt là đơn vị sự nghiệp); Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

- Các nội dung chủ yếu:

+ Điều kiện, hồ sơ cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

+ Điều kiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại một số thị trường, ngành, nghề, công việc;

+ Mức ký quỹ, việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp;

+ Mức trần tiền ký quỹ, quản lý, sử dụng và hoàn trả tiền ký quỹ của người lao động;

+ Điều kiện, thủ tục đăng ký trực tuyến hợp đồng lao động giao kết sau khi xuất cảnh.

+ Mức trần tiền ký quỹ, quản lý, sử dụng và hoàn trả tiền ký quỹ của người lao động;

+ Điều kiện, thủ tục đăng ký trực tuyến hợp đồng lao động giao kết sau khi xuất cảnh.

Ban hành kèm theo Nghị định 02 Phụ lục và các Biểu mẫuquy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

7. Nghị định số 113/2021/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày ký ban hành (ngày 14 tháng 12 năm 2021).

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành

Triển khai Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm chăm sóc, nuôi dưỡng đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ; việc thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài.

Qua hơn 03 năm thực hiện Nghị định số 120/2017/NĐ-CP cho thấy quy định về định mức ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam đặc biệt là đối tượng phụ nữ có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi còn thấp, một số quy định về định mức ăn chưa phù hợp với thực tế, chưa có quy định về tư trang cho trẻ em ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ, chưa có quy định về chế độ đối với trẻ em từ đủ 36 tháng tuổi trở lên ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở trợ giúp xã hội hoặc chờ gửi về thân nhân nuôi dưỡng, các cơ sở giam giữ gặp khó khăn trong việc tính toán, bố trí khẩu phần ăn hằng ngày cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam…

Bên cạnh đó, tại thời điểm xây dựng Nghị định số 120/2017/NĐ-CP, các chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam được xây dựng tương ứng với chế độ đối với phạm nhân theo Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 90/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm 2015. Tuy nhiên, triển khai Luật Thi hành án hình sự năm 2019, ngày 09 tháng 11 năm 2020, Chính phủ ký ban hành Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 25 tháng 12 năm 2020, thay thế Nghị định số 117/2011/NĐ-CP, trong đó điều chỉnh tăng một số chế độ đối với phạm nhân về ăn, mặc, chăm sóc y tế và chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ so với quy định trước đây. Đối chiếu với các quy định tại Nghị định số 120/2017/NĐ-CP thì chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam và chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ hiện đang thấp hơn so với phạm nhân và trẻ em ở cùng mẹ trong các cơ sở giam giữ.

Thực tế hiện nay các trại tạm giam, nhà tạm giữ đang quản lý, giam giữ 03 loại đối tượng gồm người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phạm nhân. Việc điều chỉnh một số chế độ đối với phạm nhân theo Nghị định số 133/2020/NĐ-CP đã tạo ra sự chênh lệch về chế độ giữa người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phạm nhân, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện ở các cơ sở giam giữ, dẫn đến thắc mắc về chế độ giữa các đối tượng. Mặt khác, các tiêu chuẩn, định lượng ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo Nghị định số 120/2017/NĐ-CP được xây dựng và áp dụng ở thời điểm mặt bằng chung về điều kiện kinh tế, xã hội ở mức thấp hơn so với hiện tại. Vì vậy, việc điều chỉnh các chế độ áp dụng đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là cần thiết và cấp bách nhằm bảo đảm chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam, đồng thời quán triệt thực hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng, đề cao quyền con người của Đảng và Nhà nước ta theo Hiến pháp đối với các loại đối tượng hình sự trong tình hình hiện nay.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam theo trình tự, thủ tục rút gọn là cần thiết để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn.

- Mục đích ban hành

Việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP nhằm bảo đảm tốt hơn về chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam đặc biệt là đối tượng phụ nữ có thai và nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, trẻ em ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ, góp phần tạo cơ sở pháp lý cụ thể, đầy đủ cho các cơ quan có thẩm quyền trong thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam.

c) Nội dung chủ yếu:

- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 4

Nghị định đã điều chỉnh định mức ăn trong một tháng của người bị tạm giam tăng từ 0,7 kg thịt lên 01 kg thịt (tăng 0,3 kg thịt) và quy định rõ là thịt lợn; tăng từ 0,8 kg cá lên 01 kg cá (tăng 0,2 kg cá); bổ sung 0,2 lít dầu ăn và gia vị khác tương đương 0,5 kg gạo tẻ; giảm 0,5 kg muối.

Việc điều chỉnh chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam tạo sự bình đẳng, thống nhất trong chính sách đối xử giữa người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phạm nhân, tạo thuận lợi cho công tác quản lý của các trại tạm giam, nhà tạm giữ, phù hợp với nhu cầu thực tế và tình hình phát triển kinh tế xã hội hiện nay.

- Sửa đổi khoản 3 Điều 4

Trên cơ sở quy định của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP, các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm quyền con người, bình đẳng giới, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Nghị định đã kế thừa các quy định trên và sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau: tăng định mức ăn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi bằng 02 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường và khi sinh con được thanh toán viện phí và được cấp 01 lần các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh tương đương 01 tháng chế độ ăn của trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ.

Các sửa đổi, bổ sung đối với chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi là cụ thể hóa các quy định về bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng giới, bảo đảm quyền trẻ em đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Luật Bình đẳng giới, Luật Trẻ em và các văn bản có liên quan; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong quy định của Nghị định với các quy định của pháp luật hiện hành về bình đằng giới, quyền trẻ em; bảo đảm sự tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (CAT), Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (UNICEF)…, đồng thời khi thực thi trong thực tiễn sẽ có tác dụng tích cực trong công tác giáo dục đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ.

- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 6

Bổ sung quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam tại các cơ sở giam giữ thuộc 05 tỉnh Tây Nguyên được mượn 01 áo ấm mùa đông và 01 chăn bông loại không quá 02 kg để phù hợp với thời tiết hiện nay.

Bổ sung quy định người bị tạm giữ được cấp 0,1 kg xà phòng, 20ml dầu gội đầu; người bị tạm giam được cấp 01 bàn chải đánh răng, 01 khăn rửa mặt dùng trong 03 tháng, mỗi tháng được cấp 70ml dầu gội đầu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.

- Sửa đổi khoản 1 Điều 7

Tiền thuốc chữa bệnh thông thường cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam tăng thêm 01 kg gạo tẻ/người/tháng thành 03 kg gạo tẻ /người/tháng.

- Sửa đổi, bổ sung Điều 8

Sửa đổi, bổ sung chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ, theo đó chế độ ăn của trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ được hưởng như mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng đối với trẻ em dưới 04 tuổi tại cơ sở trợ giúp xã hội theo quy định của pháp luật hiện hành; ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật trẻ em được hưởng chế độ ăn bằng 05 lần ngày thường, ngày Quốc tế Thiếu nhi (ngày 01 tháng 6 dương lịch), Tết Trung thu (ngày 15 tháng 8 âm lịch) được hưởng chế độ ăn bằng 02 lần ngày thường. Mỗi tháng được cấp sữa và đồ dùng sinh hoạt cần thiết trị giá tương đương 20 kg gạo tẻ/trẻ em. Bổ sung quy định trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ được cấp một số đồ dùng cá nhân.

Bổ sung quy định các chế độ đối với trẻ em từ đủ 36 tháng tuổi trở lên ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở trợ giúp xã hội hoặc chờ gửi về thân nhân nuôi dưỡng được thực hiện như trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ. Đây là quy định mới trong Nghị định, tuy nhiên đây là quy định cần thiết để bảo đảm quyền lợi cho trẻ em từ đủ 36 lên ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở trợ giúp xã hội hoặc chờ gửi về thân nhân nuôi dưỡng, đồng thời bảo đảm sự tương đồng với các quy định của trẻ em ở với mẹ trong cơ sở giam giữ tại Nghị định số 133/2020/NĐ-CP.

* Việc điều chỉnh chế độ ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam tương đương với chế độ của phạm nhân thì ngân sách Nhà nước tăng cho 01 người tạm giữ, người bị tạm giam trong 01 tháng là khoảng 48.000 đồng đến 50.000 đồng. Với lưu lượng giam giữ bình quân khoảng 54.000 người tại một thời điểm thì ngân sách Nhà nước chi cho việc thực hiện chế độ ăn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam tăng khoảng 32 tỷ đồng trong một năm. Đối với nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan đến chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hiện nay số lượng người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi trung bình khoảng 35 trường hợp/năm, do đó, chi phí phát sinh liên quan đến các đối tượng này khoảng hơn 1 tỷ đồng một năm (trong đó khoảng 240 triệu/năm liên quan đến chế độ ăn của phụ nữ có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi; khoảng 840 triệu/năm liên quan đến chế độ chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ). Các nội dung sửa đổi còn lại liên quan đến việc cấp phát tư trang và tiền thuốc chữa bệnh phát sinh chi phí không đáng kể. Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế đối với người tạm giữ, người bị tạm giam, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ phát sinh cho ngân sách Nhà nước khoảng 33 - 35 tỷ đồng/năm, tăng khoảng 01% so với chỉ tiêu ngân sách Nhà nước giao, ảnh hưởng rất nhỏ đến ngân sách Nhà nước, phù hợp với sự phát triển chung của tình hình kinh tế, xã hội. Nguồn lực và điều kiện bảo đảm thi hành Nghị định được thực hiện theo các quy định của pháp luật hiện hành.

Việc tăng và bổ sung một số chế độ tuy không lớn nhưng mang lại nhiều hiệu quả tích cực, giúp người bị tạm giữ, người bị tạm giam tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thành khẩn khai báo, phục vụ tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, giúp cán bộ, chiến sĩ thuận lợi trong việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

8. Nghị định số 115/2021/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy định số lượng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và quy trình, thủ tục bầu, từ chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức thành viên Ủy ban nhân dân

a) Hiệu lực thi hành:Nghị định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành (ngày 16 tháng 12 năm 2021).

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, ngày 25/01/2016 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2016/NĐ-CP. Trong nhiệm kỳ 2016-2021, các quy định tại Nghị định số 08/2016/NĐ-CP đã được thực hiện nghiêm túc; các nhân sự được bầu (lần đầu, tái cử hoặc bổ sung) giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên UBND bảo đảm số lượng, tiêu chuẩn chức danh, quy trình, thủ tục theo quy định. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực hiện, một số quy định của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP đã phát sinh những vướng mắc, bất cập và chưa đồng bộ, liên thông với quy định của Đảng về phân cấp quản lý cán bộ cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, cụ thể như sau:

- Về việc báo cáo (xin ý kiến) trước khi bầu Phó Chủ tịch UBND các cấp

Tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 11 Nghị định số 08/2016/NĐ-CP quy định việc báo cáo xin ý kiến về nhân sự trước khi HĐND bầu Phó Chủ tịch UBND cùng cấp (đối với cấp tỉnh trừ thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ; đối với cấp huyện, cấp xã thì giao UBND cấp tỉnh hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục báo cáo). Quy định này nhằm tránh những trường hợp bầu Phó Chủ tịch UBND các cấp sai quy định, nhưng chưa phù hợp với Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và chưa đồng bộ với quy trình bầu chức danh Phó Chủ tịch HĐND các cấp (không phải xin ý kiến trước khi HĐND các cấp bầu trừ thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) dẫn đến quy trình bầu nhân sự Phó Chủ tịch UBND và Phó Chủ tịch HĐND ở địa phương có sự khác nhau, kéo dài thời gian trong thực hiện quy trình, thủ tục bầu và phê chuẩn chức vụ Phó Chủ tịch UBND. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định này để bảo đảm liên thông, thống nhất giữa quy định của Đảng và của pháp luật.

- Về hồ sơ và thời hạn phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các cấp

+ Về hồ sơ nhân sự: Tại Mục II, Phụ lục 4 ban hành kèm theo Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã quy định danh mục hồ sơ nhân sự cấp ủy cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 (gồm 11 loại tài liệu); đồng thời, tại Mẫu số 09/UBTVQH ban hành kèm theo Văn bản số 883/HD-UBTVQH14 ngày 02/6/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số nội dung về việc tổ chức kỳ họp thứ nhất của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã quy định hồ sơ nhân sự đề nghị phê chuẩn các chức danh do HĐND bầu (gồm 12 loại tài liệu). Vì vậy, cần thiết phải rà soát để bổ sung quy định về thành phần hồ sơ phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các cấp (quy định tại khoản 2, Điều 12 Nghị định số 08/2016/NĐ-CP) cho phù hợp với quy định của Đảng và của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu trên.

+ Về thời hạn thẩm định và phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND: Tại điểm h, khoản 5 Văn bản số 883/HD-UBTVQH14 nêu trên có quy định thời hạn phê chuẩn kết quả bầu là 10 ngày làm việc (không quy định riêng về thời hạn thẩm định và thời hạn phê chuẩn) và nếu hồ sơ sai sót hoặc chưa đầy đủ thì trong thời hạn 03 ngày làm việc phải yêu cầu bổ sung, hoàn thiện. Sau khi rà soát lại quy định này tại Nghị định số 08/2016/NĐ-CP (khoản 3 và khoản 5 Điều 12) thì tổng thời hạn thẩm định và phê chuẩn kết quả bầu cử cũng là 10 ngày (03 ngày thẩm định, 07 ngày phê chuẩn) vẫn phù hợp với quy định tại Văn bản số 883/HD-UBTVQH14, nhưng thời gian yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ sơ (trong 02 ngày làm việc) là chưa phù hợp; đồng thời, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 08/2016/NĐ-CP thì việc quy định chỉ có 03 ngày để thẩm định hồ sơ nhân sự là quá gấp, đặc biệt là việc phải bổ sung nhiều loại tài liệu trong hồ sơ nhân sự nêu trên. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi quy định về thời hạn thẩm định và phê chuẩn kết quả bầu cử cho phù hợp với thực tiễn của việc thẩm định và hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu trên.

- Về việc bổ nhiệm vào chức danh người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện đối với những người sau khi được HĐND cùng cấp bầu chức danh Ủy viên UBND

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định Ủy viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp[1], nhưng Nghị định số 08/2016/NĐ-CP chưa có quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành việc này. Đến nay, căn cứ ý kiến đề nghị của một số địa phương và của Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Nội vụ đã có hướng dẫn về vấn đề này tại Văn bản số 3308/BNV-CQĐP ngày 08/7/2021 (kèm theo). Tuy nhiên, cần phải bổ sung vấn đề này trong nội dung sửa Nghị định số 08/2016/NĐ-CP cho phù hợp, vì ngoài việc phê chuẩn, bổ nhiệm còn liên quan đến việc miễn nhiệm chức danh Ủy viên UBND đối với các trường hợp này.

Từ những vướng mắc, bất cập nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP là cần thiết.

c) Nội dung chủ yếu:Dự thảo Nghị định gồm 03 Điều (sửa đổi, bổ sung 03 Điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP), cụ thể như sau:

- Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP của Chính phủ, gồm 03 khoản sau:

+ Khoản 1. Sửa đổi khoản 1 Điều 11 theo hướng bỏ việc báo cáo xin ý kiến trước khi HĐND bầu Phó Chủ tịch UBND cùng cấp, trừ thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (bỏ điểm b và điểm c khoản 1); đồng thời, bổ sung 01 khoản (khoản 4 mới) quy định về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với chức danh Ủy viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp.

+ Khoản 2. Sửa đổi, bổ sung khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 12 về hồ sơ, thời hạn thẩm định và thời hạn phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND.

+ Khoản 3. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 và khoản 5 Điều 14 để thống nhất nội dung về thời hạn thẩm định, phê chuẩn kết quả bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND.

- Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành.

- Điều 3 quy định về trách nhiệm thi hành.

9. Nghị định số 117/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.

Điều khoản chuyển tiếp: Ủy Ban nhân dân cấp tỉnhrà soát,ban hành quyết định phê duyệt cácđiểm đấu nối vào quốc lộ thay thế quy hoạch điểm đấu nối được tích hợp vào Quy hoạch tỉnh theo Nghị quyết số110/NQ-CPngày 02 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ và các điểm đấu nối đã được Bộ Giao thông vận tải thỏa thuận trước ngày Nghị định này có hiệu lực để tiếp tụctriển khaithực hiện đấu nối vào quốc lộ.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Để bảo đảm thực thi, triển khai đồng bộ Luật Quy hoạch ngày 24/11/2017 và Luật Giao thông đường bộ ngày 13/11/2008, cần chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung Điều 29 Nghị định số 11/2010/NĐ-CP nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và giải quyết nhu cầu kết nối giao thông với quốc lộ đối với các trường hợp chưa có điểm đấu nối được tích hợp trong quy hoạch tỉnh.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 04 Điều, cụ thể như sau:

Điều 1.Sửa đổi, bổ sung một số khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ

Điều 2. Bãi bỏ một số khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP

Điều 3. Điều khoản chuyển tiếp

Điều 4. Điều khoản thi hành

Nội dung cơ bản của Nghị định:

- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ gồm:

+ Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 26 để phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch.

+ Khoản 2: Sửa đổi, bổ sung Điều 29 quy định về việc đấu nối vào quốc lộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định điểm đấu nối vào quốc lộ, tuân thủ nguyên tắc, yêu cầu đầu nối theo quy định của Bộ trưởng Bộ GTVT.

+ Khoản 3: Bổ sung quy định về trách nhiệm của Bộ GTVT: Kiểm tra, xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo thẩm quyền việc thực hiện quy định về đấu nối vào quốc lộ; yêu cầu thu hồi hoặc tạm dừng các quyết định đấu nối không đúng quy định; yêu cầu đóng điểm đấu nối, khắc phục, hoàn trả lại hiện trạng ban đầu của tuyến quốc lộ.

+ Khoản 4: Bổ sung quy định về trách nhiệm của UBND cấp tỉnh: Tổ chức thực hiện việc đấu nối vào quốc lộ tuân thủ quy định; thu hồi, xử lý các quyết định đấu nối không đúng quy định và chịu trách nhiệm về các thiệt hại liên quan đến việc quyết định đấu nối không đúng quy định.

- Điều 2. Bãi bỏ một số khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP: Bãi bỏ Điều 5, Điều 6, Điều 7, khoản 4 Điều 28, Điều 37 của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP.

- Điều 3. Điều khoản chuyển tiếp

- Điều 4. Điều khoản thi hành

10. Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Các quy định tại điểm a khoản 1, các khoản 2 và 4 Điều 15 Nghị định này có hiệu lực thi hành đối với các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính được ban hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.

Nghị định này thay thế Nghị định số81/2013/NĐ-CPngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số97/2017/NĐ-CPngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số81/2013/NĐ-CPngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành:

+ Cơ sở pháp lý

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sau đây gọi là Luật XLVPHC) là đạo luật có nội dung lớn, phức tạp, liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của rất nhiều cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, cótác động đến hầu hết các chủ thể trong xã hội. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần đảm bảo kỷ cương hành chính; bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

Tại Kỳ họp thứ 10, ngày 13/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022 (sau đây gọi là Luật số 67/2020/QH14). Luật số 67/2020/QH14 giao Chính phủ quy định chi tiết một số điều: Điều 4; khoản 7 Điều 17; khoản 3 Điều 18; khoản 4 Điều 23; khoản 3 Điều 25; khoản 4 Điều 54; khoản 9 Điều 58; khoản 5 Điều 61; Điều 75; khoản 4 Điều 78.

Tuy nhiên, Luật XLVPHC hiện hành và Luật số 67/2020/QH14 còn có những vấn đề cần thiết phải hướng dẫn, quy định biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành theo khoản 2 Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), bảo đảm các quy định của Luật được áp dụng chính xác, bảo đảm hiệu quả quản lý thống nhất công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi cả nước của Chính phủ như: Điều 12, Điều 18, Điều 60, Điều 67, khoản 3 Điều 71, Điều 72, Điều 125, Điều 126, Điều 128 Luật XLVPHC…

Theo Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC, Bộ Tư pháp được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC (thay thế Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC và Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP). Đây là văn bản quy định các vấn đề chung, liên quan đến thực tiễn xử lý vi phạm hành chính của nhiều bộ, ngành, địa phương.

Những vấn đề khác Luật XLVPHC sửa đổi, bổ sung năm 2020 giao Chính phủ quy định chi tiết (ngoài các nội dung đã được quy định tại dự thảo Nghị định này) sẽ được quy định tại các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước (quy định chi tiết điểm a khoản 1 Điều 4 Luật XLVPHC); Nghị định quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (quy định chi tiết Điều 86 Luật XLVPHC); Nghị định quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (quy định chi tiết điểm b khoản 1 Điều 4 và Điều 110 Luật XLVPHC); Nghị định quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc (quy định chi tiết điểm b khoản 1 Điều 4 và Điều 110 Luật XLVPHC); Nghị định quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính (quy định chi tiết Điều 125 Luật XLVPHC); Nghị định quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (quy định chi tiết khoản 2 Điều 27, Điều 122, Điều 124 và Điều 130 Luật XLVPHC).

+ Cơ sở thực tiễn

Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành và các địa phương đẩy mạnh việc triển khai đồng bộ các giải pháp, sau 08 năm thực hiện đã thu được một số kết quả quan trọng trong việc thi hành Luật XLVPHC trên phạm vi cả nước; bên cạnh đó, việc triển khai thi hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, đặc biệt có nhiều vấn đề phát sinh cần quy định biện pháp thi hành để triển khai có hiệu quả Luật XLVPHC (xin xem Báo cáo tổng kết kèm theo Tờ trình này).

Một số nội dung được quy định tại Luật XLVPHC hiện hành và nội dung mới được quy định tại Luật số 67/2020/QH14 cần được hướng dẫn chi tiết hơn để bảo đảm thống nhất, thuận lợi trong quá trình thi hành Luật trong thực tiễn, cụ thể là: Việc xác định thời điểm phát hiện hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính; thủ tục lập biên bản thu giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề và biên bản trả lại giấy phép, chứng chỉ hành nghề khi hết thời hạn tước; xác định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 126 Luật XLVPHC; việc xác định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp quy định tại Điều 65 Điều 126 Luật XLVPHC; xác định người có thẩm quyền tiêu hủy tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hoá phẩm độc hại theo quy định tại khoản 5 Điều 126 Luật XLVPHC...

Ngoài ra, một số quy định với tính chất là biện pháp thi hành tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Nghị định số 97/2017/NĐ-CP đã được triển khai trên thực tế hiệu quả, ổn định từ tháng 7/2013 đến nay, cần thiết phải được nghiên cứu, kế thừa nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn: Về trách nhiệm của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính khi thi hành công vụ (Điều 18 Luật XLVPHC); xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng cấm tàng trữ, cấm lưu hành; quy định về công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính (Điều 72 Luật XLVPHC); xử lý tang vật, phương tiện bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu (khoản 1 Điều 126 Luật XLVPHC)...

Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC là cần thiết.

- Mục đích ban hành:

+ Việc xây dựng Nghị định nhằm quy định chi tiết một số điều, khoản mà Luật giao Chính phủ quy định chi tiết, đồng thời, hướng dẫn, quy định cụ thể, đầy đủ các biện pháp để tổ chức thi hành Luật, bảo đảm Luật XLVPHC được tổ chức thi hành hiệu quả trên thực tế.

+ Kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tạo cơ sở pháp lý chung, áp dụng thống nhất trong công tác xử phạt vi phạm hành chính trên toàn quốc, đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

c) Nội dung chủ yếu:Nghị định gồm 05 Chương và 43 Điều quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể: (1) Những quy định chung; (2) Quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính; (3) Áp dụng quy định về xử phạt vi phạm hành chính; (4) Nội dung quản lý nhà nước trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; (5) Trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; (6) Điều khoản thi hành.

Nghị định áp dụng đối với: (1) Cơ quan có thẩm quyền quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; (2) Cơ quan, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính; (3) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành pháp luật vềxử lý vi phạm hành chính.

Ban hành kèm theo Nghị định này 02 Phụ lục các Biểu mẫu quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.

11. Nghị định số 119/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.

Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế, giấy phép liên vận đã được cấp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành tiếp tục được thực hiện cho đến khi hết thời hạn hiệu lực của giấy phép.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành Nghị định: Cơ sở pháp lý: Từ năm 1994 đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế (ĐƯQT) song phương, đa phương về vận tải đường bộ qua biên giới với các nước láng giềng và trong khu vực như Lào, Campuchia, Trung Quốc, các nước GMS và ASEAN. Để triển khai thực hiện các hiệp định và nghị định thư về vận tải đường bộ song phương với Lào, Campuchia, Trung Quốc cũng như hiệp định, thỏa thuận hợp tác đa phương giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và Việt Nam với các nước GMS, trong thời gian qua, Bộ GTVT đã ban hành và bổ sung, sửa đổi các Thông tư hướng dẫn thực hiện các ĐƯQT này. Tuy nhiên, đến nay theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2020, việc quy định các thủ tục hành chính tại các Thông tư do Bộ GTVT ban hành đã không còn phù hợp.

Bên cạnh đó, trong khuôn khổ hợp tác đường bộ ASEAN, Việt Nam đã tham gia ký kết các Hiệp định khung về vận tải đường bộ qua biên giới giữa các nước ASEAN và theo lộ trình, các nước ASEAN sẽ thúc đẩy việc thực hiện các hiệp định này trong giai đoạn 2021 - 2025. Tại các Hiệp định khung này, các nước ASEAN cam kết hài hòa hóa các quy định về cấp giấy phép vận tải đường bộ nhằm tạo thuận lợi cho vận tải người và hàng hóa qua biên giới. Do vậy, Việt Nam cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các hiệp định về vận tải đường bộ qua biên giới trong khuôn khổ hợp tác ASEAN.

Cơ sở thực tiễn: Trong thời gian qua, các Thông tư của Bộ GTVT quy định trình tự, thủ tục cấp, cấp lại và thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới theo từng điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã tạo thuận lợi cho hoạt động của các đơn vị kinh doanh vận tải. Tuy nhiên, do các điều ước quốc tế được ký kết ở các thời điểm và với các nước khác nhau, trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế giữa Việt Nam với các nước hiện đang được quy định ở nhiều Thông tư. Do vậy, cần thiết phải xây dựng một Nghị định nhằm tập hợp quy trình thủ tục cấp phép để tăng tính đồng bộ và hệ thống của quy định pháp luật về vấn đề này nhằm tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện của các cơ quan chức năng và các đơn vị kinh doanh vận tải.

Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, vừa qua ASEAN đã thống nhất nội dung các Hướng dẫn triển khai các Hiệp định khung tạo thuận lợi vận tải hàng hóa và hành khách qua biên giới ASEAN. Trong số 06 nước đã tham gia triển khai Hệ thống quá cảnh hải quan ASEAN, đã có 03 nước Campuchia, Lào và Thái Lan hoàn thiện thủ tục trong nước và sẵn sàng cấp giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới; Malaysia và Singapore sẽ hoàn thiện thủ tục trong năm 2021. Về vận tải hành khách qua biên giới bằng phương tiện đường bộ, đến nay đã có 03 nước thành viên ASEAN gồm Myanmar, Philippines và Thái Lan hoàn thành thủ tục phê duyệt Hiệp định khung ASEAN về tạo thuận lợi vận tải hành khách bằng phương tiện đường bộ. Do vậy, Việt Nam cần ban hành quy định hướng dẫn thực hiện trình tự, thủ tục cấp giấy phép vận tải qua biên giới ASEAN để phối hợp với các nước thành viên ASEAN khác triển khai các ĐƯQT này.

Đồng thời, nhằm đáp ứng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các quy trình, thủ tục cấp giấy phép vận tải đường bộ quốc tế cần tiếp tục được đơn giản hóa, ứng dụng công nghệ và hướng tới việc phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn nữa.

Với những cơ sở nêu trên, việc xây dựng và ban hành Nghị định quy định về trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới là cần thiết.

- Mục đích ban hành Nghị định:

+ Việc ban hành Nghị định nhằm triển khai có hiệu quả các điều ước quốc tế về vận tải đường bộ qua biên giới mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

+ Việc xây dựng Nghị định này cũng nhằm triển khai Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ ban hành chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025; hoàn chỉnh nội dung, thể chế cho việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ công đối với thủ tục cấp giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới; cắt giảm thủ tục hành chính và hủy bỏ các chế độ báo cáo không cần thiết; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 09 Chương với 43 Điều, cụ thể như sau:

+ Chương I. Quy định chung: gồm 05 Điều (từ Điều 1 đến Điều 5)

+ Chương II. Trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép liên vận ASEAN: gồm 05 Điều (từ Điều 6 đến Điều 10)

+ Chương III. Trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép liên vận GMS: gồm 05 Điều (từ Điều 11 đến Điều 15)

+ Chương IV. Trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc: gồm 07 Điều (từ Điều 16 đến Điều 22)

+ Chương V. Trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép liên vận giữa Việt Nam và Lào: gồm 06 Điều (từ Điều 23 đến Điều 28)

+ Chương VI. Trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép liên vận giữa Việt Nam và Campuchia: gồm 06 Điều (từ Điều 29 đến Điều 34)

+ Chương VII. Trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép liên vận giữa Việt Nam, Lào và Campuchia: gồm 04 Điều (từ Điều 35 đến Điều 38)

+ Chương VIII. Tổ chức thực hiện: gồm 03 Điều (từ Điều 39 đến Điều 41)

+ Chương IX. Điều khoản thi hành: gồm 02 Điều (từ Điều 42 đến Điều 43)

- Phạm vi điều chỉnh:

Nghị định này quy định về trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế, giấy phép liên vận cho đơn vị kinh doanh vận tải và phương tiện; gia hạn thời gian lưu hành cho phương tiện của nước ngoài tại Việt Nam tham gia vận chuyển người, hàng hóa giữa Việt Nam với các nước theo quy định của các điều ước quốc tế về vận tải đường bộ qua biên giới mà Việt Nam là thành viên.

- Đối tượng áp dụng:

Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động vận tải đường bộ qua biên giới giữa Việt Nam với các nước theo quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Nghị định này không áp dụng đối với các đối tượng được miễn giấy phép theo quy định của các điều ước quốc tế về vận tải đường bộ qua biên giới mà Việt Nam là thành viên.

- Nội dung cơ bản của Nghị định:

Nghị định quy định về trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết thời gian qua như trong khuổn khổ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS); các điều ước quốc tế song phương về vận tải đường bộ qua biên giới ký với các nước Lào, Campuchia, Trung Quốc và điều ước quốc tế ba bên giữa Việt Nam, Lào và Campuchia.

Nghị định được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định được thực hiện ổn định trong thời gian qua tại các Thông tư của Bộ trưởng Bộ GTVT về vận tải đường bộ qua biên giới giữa Việt Nam với Lào, Campuchia, Trung Quốc và các nước GMS đang có hiệu lực đồng thời đơn giản hóa, hệ thống hóa và thống nhất về trình tự, thủ tục và triệt để áp dụng dịch vụ công mức độ 4 nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

- Phụ lục đính kèm: Nghị định bao gồm 06 Phụ lục đính kèm, cụ thể:

- Phụ lục I: Các biểu mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế ASEAN và Giấy phép liên vận ASEAN.

- Phụ lục II: Các biểu mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế GMS và Giấy phép liên vận GMS.

- Phụ lục III: Các biểu mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc.

- Phụ lục IV: Các biểu mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và Giấy phép liên vận giữa Việt Nam và Lào.

- Phụ lục V: Các biểu mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và Giấy phép liên vận giữa Việt Nam và Campuchia.

- Phụ lục VI: Các biểu mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép liên vận giữa Việt Nam, Lào và Campuchia.

12. Nghị định số 120/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Nghị định số111/2013/NĐ-CPngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và Nghị định số56/2016/NĐ-CPngày 29 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số111/2013/NĐ-CPngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành:

+ Cơ sở pháp lý

Ngày 13/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính(Luật số 67/2020/QH14), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022, trong đó đã sửa đổi rất nhiều nội dung quan trọng về xử lý vi phạm hành chính nói chung và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nói riêng, trong đó có biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là biện pháp GDTXPTT), cụ thể:

Điểm b khoản 1 Điều 4 Luật XLVPHC (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14) đã giao Chính phủ căn cứ quy định của Luật này quy định “chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính”.

Hệ thống các quy định về áp dụng biện pháp GDTXPTT trong Luật XLVPHC hiện hành đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế hiện nay, cụ thể là:

Về đối tượng và điều kiện áp dụng biện pháp GDTXPTT tại Điều 90 Luật XLVPHC (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 46 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14):

So với Luật XLPVHC hiện hành, quy định về đối tượng, điều kiện áp dụng biện pháp GDTXPTT có những điểm mới cơ bản sau:

Thứ nhất, làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng” thực hiện hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp GDTXPTT

Thứ hai, quy định cụ thể các hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp GDTXPTT gắn với độ tuổi của từng đối tượng, bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch và sự phù hợp, thống nhất với quy định của Bộ luật Hình sự.

Thứ ba, bãi bỏ quy định về người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định là đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT; đồng thời, bổ sung đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT là người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngoài ra, để bảo đảm thống nhất với quy định về đối tượng mới được bổ sung vào khoản 5 Điều 90 Luật XLVPHC, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 7. Theo đó, người quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi quy định tại khoản 5 Điều 90 Luật XLVPHC mà không có nơi cư trú ổn định thì được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục trong thời gian chấp hành biện pháp GDTXPTT.

Người từ đủ 18 tuổi trở lên quy định tại khoản 5 Điều 90 Luật XLVPHC, mà không có nơi cư trú ổn định thì giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy lần thứ ba tổ chức quản lý.

Về thủ tục áp dụng biện pháp GDTXPTT tại Điều 97 và Điều 98 Luật XLVPHC (được sửa đổi, bổ sung lần lượt tại khoản 50 và khoản 51 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14):

Thứ nhất, bỏ quy định công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT là một bước trong thủ tục áp dụng biện pháp này.

Thứ hai, rút ngắn các mốc thời gian và tách bạch các bước trong thủ tục áp dụng biện pháp GDTXPTT.

Ngày 30/3/2021, Quốc hội khóa XIV cũng đã thông qua Luật Phòng, chống ma túy (Luật số 73/2021/QH14), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022, theo đó có một số quy định trong Luật này liên quan đến đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT, đặc biệt là người sử dụng trái phép chất ma túy, ví dụ như: Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể; xác định tình trạng nghiện ma túy; đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,…

+ Cơ sở thực tiễn

Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp GDTXPTT và Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP được ban hành đã góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa vi phạm hành chính, tội phạm, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, đưa các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành năm 2012 (Luật XLVPHC) về áp dụng biện pháp GDTXPTT vào cuộc sống. Nghị định đã quy định tương đối đầy đủ, cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, ra quyết định, thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tạo điều kiện cho lực lượng thực thi công vụ được dễ dàng, thuận lợi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên, qua 08 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, các Nghị định cũng đã bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc nhất định như:

Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong các quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP) như: Không có quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp GDTXPTT trong trường hợp khuyết chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, khó khăn trong việc xác định người không có nơi cư trú ổn định; Điều 36 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP lại quy định việc miễn chấp hành phần thời gian còn lại của quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT (chưa phù hợp với quy định của Luật XLVPHC;…

Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong tổ chức thực hiện các nội dung quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP): Đã có quy định về hỗ trợ kinh phí cho người được phân công giúp đỡ người được giáo dục, nhưng đến nay vẫn còn địa phương chưa bố trí kinh phí đối với nội dung này; khó xác định người có uy tín trong dòng họ, cộng đồng dân cư, năng lực và kinh nghiệp giúp đỡ, giáo dục nên Chủ tịch UBND cấp xã thường giao cho trưởng phố, thôn hoặc bí thư chi bộ phố, thôn là người trực tiếp quản lý, giáo dục; quy định một trong những nghĩa vụ của người được giáo dục là “hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được phân công giúp đỡ về tình hình học tập, lao động, rèn luyện, tu dưỡng, kết quả sửa chữa sai phạm và sự tiến bộ của mình”. Trên thực tế, có những trường hợp không biết đọc, biết viết thì thực hiện nghĩa vụ này rất khó khăn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số;…

Nội dung này được nêu cụ thể tại Báo cáo tổng kết 08 năm thực hiện Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP) kèm theo Tờ trình này.

Ngày 26/01/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 126/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC, trong đó, giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (thay thế Nghị định số 111/2013/NĐ-CP và Nghị định số 56/2016/NĐ-CP).

Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn là cần thiết.

- Mục đích ban hành:

+ Xây dựng dự thảo Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn bảo đảm phù hợp với quy định của Luật số 67/2020/QH14 và Luật số 73/2021/QH14.

+ Khắc phục những vướng mắc, bấp cập xuất phát từ các quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP, Nghị định số 56/2016/NĐ-CP, những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn tổ chức thi hành các Nghị định này.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 05 Chương và 56 Điều quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, cụ thể: (1) Những quy định chung; (2) Thủ tục lập hồ sơ, xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình; (3) Thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; (4) Thi hành quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình; (5) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (6) Điều khoản thi hành.

Nghị định áp dụng đối với: (1) Người bị đề nghị và bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; (2) Người được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình; (3) Cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị và quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình; (4) Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào việc tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình; (5) Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.

Ban hành kèm theo Nghị định một số biểu mẫu trong áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính quản lý tại gia đình.

13. Nghị định số 121/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 12 tháng 02 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:Trước khi Nghị định số 121/2021/NĐ-CP được ban hành, pháp lý về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng được thực hiện theo quy định của Nghị định số86/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài. Trên cơ sở đánh giá quá trình triển khai Nghị định số 86/2013/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2021/NĐ-CP nhằm

- Hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Du lịch, Luật quản lý xuất, nhập cảnh.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định trong tổ chức kinh doanh, quản lý, giám sát để khắc phục các tồn tại, hạn chế trong triển khai thực hiện.

- Rà soát, hoàn thiện quy định về điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội, đảm bảo kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng. Đồng thời, thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo đúng định hướng của Chính phủ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ theo quy định của pháp luật.

c) Nội dung chủ yếu:Nghị định số 121/2021/NĐ-CP quy định về việc kinh doanh và quản lý hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã kế thừa những nội dung còn phù hợp của Nghị định số 86/2013/NĐ-CP về: phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; nguyên tắc kinh doanh TCĐTCT; nguyên tắc xác định số lượng máy được phép kinh doanh căn cứ số lượng buồng lưu trú theo tỷ lệ 05 buồng/01 máy; tiêu chuẩn, điều kiện và yêu cầu quản lý đối với máy TCĐTCT; tái xuất, tiêu hủy máy TCĐTCT; các Quy chế, Thể lệ trò chơi; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp và người chơi; các quy định về quảng cáo, khuyến mại, tài chính, kế toán và kiểm toán; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước.

Bên cạnh các nội dung kế thừa nêu trên, Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã bổ sung, hoàn thiện một số nội dung như sau:

- Về cấp phép Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh

+ Đối với cấp mới Giấy chứng nhận ĐĐKKD: Nghị định số 121/2021/NĐ-CP giữ nguyên số lượng điều kiện và quy định về điều kiện tài chính (doanh nghiệp phải có vốn điều lệ 500 tỷ đồng và kinh doanh có lãi năm liền kề trước năm xin cấp phép) và Điểm kinh doanh (nâng quy định về thời gian lưu trữ dữ liệu hệ thống camera theo dõi, giám sát) để đảm bảo nguyên tắc kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng là kinh doanh có điều kiện, cần kiểm soát chặt chẽ, chỉ cấp phép cho các doanh nghiệp có năng lực.

+ Đối với điều chỉnh, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh: Nghị định bổ sung quy định doanh nghiệp phải làm thủ tục điều chỉnh khi thay đổi bất kỳ nội dung của Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanhvà phải làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khi tổ chức lại doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp (chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp) để đảm bảo nguyên tắc quản lý chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng, doanh nghiệp chỉ được tổ chức kinh doanh sau khi được cấp phép và phải kinh doanh đúng nội dung được cấp phép.

+ Đối với hồ sơ, quy trình thủ tục: Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã quy định cụ thể thành phần hồ sơ và trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, điều chỉnh và gia hạn Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Trong đó, Nghị định đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng: giảm bớt thành phần hồ sơ của 02 thủ tục; giảm yêu cầu doanh nghiệp chỉ cần cung cấp các tài liệu là bản sao (thay vì bản sao có chứng thực) và mở rộng thêm phương thức nộp hồ sơ qua Cổng dịch vụ công của Bộ Tài chính để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí.

- Về tổ chức kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng

+ Về chủng loại máy, loại hình trò chơi điện tử có thưởng: quy định cụ thể danh mục các chủng loại máy, loại hình trò chơi được phép kinh doanh và quy định số lượng người chơi tối đa 32 người đối với máy trò chơi điện tử có thưởng dành cho nhiều người chơi.

+ Về quản lý máy, thiết bị trò chơi điện tử có thưởng: để đảm bảo quản lý chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng, tại Nghị định quy định rõ:

+ Khi mua, nhập khẩu máy trò chơi điện tử có thưởng hoặc làm thủ tục kiểm định máy trò chơi điện tử có thưởngdoanh nghiệp phải yêu cầu nhà sản xuất, cung cấp máy hoặc tổ chức kiểm định độc lập cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng minh đáp ứng các điều kiện và doanh nghiệp có trách nhiệm lưu trữ các tài liệu này để phục vụ công tác quản lý, giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;

+ Việc bảo dưỡng, sửa chữa máy trò chơi điện tử có thưởng chỉ được thực hiện trong Điểm kinh doanh hoặc tại các tổ chức thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa máy trò chơi điện tử có thưởng. Doanh nghiệp phải ký hợp đồng bảo dưỡng, sửa chữa với tổ chức thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa máy trò chơi điện tử có thưởng và phải lưu trữ các tài liệu này để phục vụ công tác quản lý, giám sát, kiểm tra, thanh tra. Nếu việc bảo dưỡng, sửa chữa máy trò chơi điện tử có thưởng liên quan đến các bộ phận làm thay đổi tỷ lệ trả thưởng thì doanh nghiệp phải thuê tổ chức kiểm định độc lập để kiểm định lại trước khi đưa máy vào sử dụng;

+ Doanh nghiệp phải lưu trữ máy trò chơi điện tử có thưởng, thiết bị trò chơi chưa đưa vào kinh doanh, tạm thời không sử dụng hoặc bị hỏng, hư hại, chờ tái xuất, tiêu hủy tại một căn phòng riêng biệt nằm trong Điểm kinh doanh.

+ Về người quản lý, điều hành Điểm kinh doanh: Nghị định số 121/2021/NĐ-CP quy định riêng một điều về người quản lý, điều hành Điểm kinh doanh theo hướng:

+ Người quản lý, điều hành phải có trình độ Đại học trở lên, có tối thiểu 03 năm kinh nghiệm quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng;

+ Quy định trách nhiệm người quản lý, điều hành phải quản lý, điều hành, giám sát thường xuyên toàn bộ hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng tại Điểm kinh doanh đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và phải làm việc toàn bộ thời gian tại Điểm kinh doanh;

+ Trường hợp có thay đổi người quản lý, điều hành, doanh nghiệp phải bố trí người quản lý, điều hành đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn và gửi văn bản thông báo kèm theo các tài liệu chứng minh đến Bộ Tài chính. Trường hợp phát hiện người quản lý, điều hành không đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn, trong thời hạn 60 ngày, doanh nghiệp phải bố trí người quản lý, điều hành khác đáp ứng đầy đủ điều kiện. Sau thời hạn nêu trên mà doanh nghiệp không bố trí được người quản lý, điều hành đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn, doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh cho đến khi bố trí được người quản lý, điều hành thay thế.

- Về thanh tra, kiểm tra: nhằm tránh trùng lắp, chồng chéo, hạn chế việc doanh nghiệp bị kiểm tra nhiều lần trong một năm, Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã cắt giảm quy định về kiểm tra định kỳ hàng năm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan công an cấp huyện trở lên thực hiện kiểm tra đột xuất khi phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm. Việc kiểm tra định kỳ được Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành thực hiện 03 năm/lần.

Ban hành kèm theo Nghị định 02 Phụ lục các Biểu mẫu để quy định về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dànhcho người nước ngoài.

14. Nghị định số 123/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Điều khoản chuyển tiếp: Đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét giải quyết thì áp dụng các quy định có lợi cho tổ chức, cá nhân vi phạm.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành Nghị định:

Cơ sở pháp lý:Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội ban hành, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022 có nhiều nội dung mới như: Bổ sung giải thích thuật ngữ “tái phạm”, quy định cụ thể về nguyên tắc xử phạt đối với từng hành vi trong trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”, bổ sung quy định Chính phủ được giao quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; tăng mức phạt tiền tối đa trong một một số lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực giao thông đường bộ); tăng thẩm quyền xử phạt của một số chức danh,... Vì vậy, các nội dung liên quan đến xử phạt vi phạm trong các lĩnh vực hàng hải (được quy định tại Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017), lĩnh vực đường bộ, đường sắt (được quy định tại Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019), lĩnh vực hàng không dân dụng (được quy định tại Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018) phải được cập nhật, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính và có cơ sở triển khai thực hiện từ ngày 01/01/2022.

Cơ sở thực tiễn: Sau hơn 03 năm triển khai thực hiện thi hành Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, 02 năm triển khai thực hiện Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng, hơn 01 năm triển khai thực hiện Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt, bên cạnh những kết quả đạt được cũng có một số vấn đề cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn như:

+ Đối với xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải: chưa có quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính về quản lý thu gom và xử lý chất thải từ tàu thuyền trong vùng nước cảng; về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền gây ra; về kiểm soát các hệ thống chống hà độc hại của tàu; về quản lý, kiểm soát nước dằn, cặn nước dằn của tàu thuyền; về nhận chìm chất nạo vét; về lao động hàng hải, khai báo tai nạn lao động hàng hải; về phòng chống thiên tai trong lĩnh vực hàng hải; về phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm trong lĩnh vực hàng hải,…

+ Đối với xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường bộ: mức xử phạt đối với một số hành vi vi phạm hành chính chưa phù hợp, cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi như: chở vượt quá khối lượng chuyên chở theo Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; chở quá sức chở của đầu kéo; xe không đúng kích thước thành thùng; đặc biệt là các hành vi vi phạm liên quan đến chở hàng siêu trường, siêu trọng, chở quá khổ, quá tải cầu đường, …

+ Đối với xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng: chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm trong lĩnh vực hàng không, chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính về quản lý nhiên liệu tiêu thụ và phát thải khí CO2.

Ngoài ra, trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường bộ, đường sắt và hàng không dân dụng có nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành như: Nghị định số 43/2018/NĐ-CP, Nghị định số 159/2018/NĐ-CP, Nghị định số 06/2021/NĐ-CP, Quyết định số 12/QĐ-TTg, Thông tư số 27/2019/TT-BGTVT, Thông tư số 19/2018/TT-BNNPTNT (đối với lĩnh vực hàng hải); Nghị định số 10/2020/NĐ-CP, Nghị định số 128/2020/NĐ-CP, Thông tư số 12/2020/TT-BGTVT, Thông tư số 01/2021/TT-BGTVT (đối với lĩnh vực đường bộ); Nghị định số 05/2021/NĐ-CP, Nghị định số 89/2019/NĐ-CP, Thông tư số 22/2020/TT-BGTVT, Thông tư số 21/2020/TT-BGTVT (đối với lĩnh vực hàng không). Vì vậy, đòi hỏi cần phải rà soát để cập nhật, bổ sung mới hoặc sửa đổi các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực đó để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.

Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng là hết sức cần thiết.

- Mục đích ban hành Nghị định:

+ Hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, giao thông đường bộ và đường sắt, hàng không dân dụng nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử phạt vi phạm hành chính được thực thi hiệu quả; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.

+ Việc xây dựng Nghị định nhằm cập nhật những nội dung mới trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, làm căn cứ để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, giao thông đường bộ, đường sắt và hàng không dân dụng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải. Đồng thời góp phần làm giảm hành vi vi phạm hành chính trong thực tiễn hiện nay.

+ Kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, đường bộ, đường sắt, hàng không dân dụng nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải nói riêng.

c) Nội dung chủ yếu: Ngoài phần căn cứ ban hành, Nghị định bao gồm 06 Điều, cụ thể như sau:

- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải

- Điều 2. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt

- Điều 3. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng

- Điều 4. Hiệu lực thi hành

- Điều 5. Điều khoản chuyển tiếp

- Điều 6. Tổ chức thực hiện

Nội dung cơ bản của Nghị định:

- Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải

+ Bổ sung quy định làm rõ sự khác nhau giữa hộ kinh doanh và tổ chức nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong quá trình áp dụng xử phạt vi phạm hành chính; Bổ sung quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện, hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả; Bổ sung phương pháp xác định trọng tải toàn phần, công suất tàu thuyền đối với tàu thuyền không có thông tin để có dữ liệu về trọng tải toàn phần, sức nâng, số ghế ngồi, công suất máy chính mà chỉ có dữ liệu về Lượng giãn nước hoặc kích thước L*B*H… nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong quá trình áp dụng xử phạt vi phạm hành chính.

+ Sửa đổi các hành vi vi phạm hành chính “giả mạo” (tại khoản 2 Điều 7, điểm c khoản 4 Điều 20, điểm b khoản 2 Điều 40, điểm a khoản 4 Điều 42) để tránh trùng lặp với các hành vi tội phạm quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự; Sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm quy định về xây dựng, quản lý và khai thác kết cấu hạ tầng để đảm bảo phù hợp với các quy định tại Nghị định số 43/2018/NĐ-CP, Nghị định số 159/2018/NĐ-CP, Nghị định số 06/2021/NĐ-CP, Quyết định số 12/QĐ-TTg Thông tư số 27/2019/TT-BGTVT, Thông tư số 19/2018/TT-BNNPTNT; Sửa đổi, bổ sung hành vi vi phạm về niêm yết thông tin về giá, phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển hàng hóa Công-te-nơ bằng đường biển, giá dịch vụ tại cảng biển trên để đảm bảo phù hợp với quy định tại Nghị định số 146/2016/NĐ-CP ngày 02/11/2016 quyđịnh việc niêm yết giá, phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển hàng hóa công-te-nơ bằng đường biển, giá dịch vụ tại cảng biển.

+ Bổ sung các hành vi vi phạm và chế tài xử phạt đối với vi phạm quy định về quản lý thu gom và xử lý chất thải từ tàu thuyền trên vùng nước cảng biển, vi phạm quy định về kiểm soát các hệ thống chống hà độc hại của tàu; Vi phạm quy định về quản lý, kiểm soát nước dằn, cặn nước dằn của tàu thuyền, vi phạm quy định về nhận chìm; Vi phạm quy định về lao động hàng hải; khai báo tai nạn lao động hàng hải, các hành vi vi phạm về phòng chống thiên tai trong lĩnh vực hàng hải để có đầy đủ chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn.

+ Bổ sung các hành vi vi phạm và chế tài xử phạt đối với quy định về phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm trong lĩnh vực hàng hải để có đủ chế tài xử phạt vi phạm xảy ra trong thực tiễn trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid 19. Việc bổ sung quy định này đảm bảo nguyên tắc hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính tương đương với các quy định tại Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.

+ Điều chỉnh tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm như: Vi phạm quy định về cân xác nhận khối lượng toàn bộ đối với mỗi Công-te-nơ vận tải biển; vi phạm quy định về thủ tục vào, rời cảng biển hoặc quá cảnh để tăng tính răn đe, hạn chế các hành vi vi phạm trong thực tiễn; Vi phạm quy định về xếp hàng hóa lên xe ô tô trong vùng đất cảng, vi phạm quy định đối với người điều khiển ô tô và các loại phương tiện tương tự ô tô trong vùng đất cảng đảm bảo nguyên tắc hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính tương đương với các quy định tại Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt; Vi phạm quy định trong khi dẫn tàu của hoa tiêu hàng hải, đặc biệt là các hành vi vi phạm liên quan đến nồng độ cồn để phù hợp với tính chất, mức độ, của hành vi, đảm bảo tính răn đe khi thực hiện hành vi “cấm” bởi vì khoản 6 Điều 5 Luật phòng, chống tác hại rượu bia quy định điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn là một trong các hành vi cấm; Vi phạm quy định về hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu đảm bảo nguyên tắc hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính tương đương với các tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

+ Sửa đổi, bổ sung một số nội dung về thẩm quyền xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả để phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường bộ, đường sắt

+ Sửa đổi, bổ sung quy định “tổ hợp tác” là tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính để đảm bảo phù hợp với khoản 1 Điều 3 Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10/10/2019;Bổ sung quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; Sửa đổi, bổ sung các vi vi phạm liên quan đến thu phí theo hình thức tự động không dừng để mô tả lại các hành vi vi phạm cho rõ ràng, đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong quá trình áp dụng xử phạt vi phạm hành chính.

+ Tăng mức xử phạtđối với hành vi chở hàng quá tải trọng cho phép của cầu đường, theo đó gom lại từ 5 mức thành 3 mức gồm quá 10-20%, từ 20-100%, trên 100% và tăng mức xử phạt cao đối với mức 2 trở lên (tăng phạt lái xe và chủ phương tiện) bởi vì đây là các hành vi vi phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, cần phải tăng mức xử phạt để đảm bảo tính răn đe, góp phần bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

+ Sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động kinh doanh vận tải để mô tả rõ ràng các hành vi, bổ sung các hành vi chưa có chế tài xử phạt đảm bảo phù hợp với quy định tại Nghị định số 10/2020/NĐ-CP ngày 17/1/2020 quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, Thông tư số 12/2020/TT-BGTVT ngày 29/5/2020 quy định về tổ chức, quản lý hoạt động vận tải bằng xe ô tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ.

+ Các hành vi vi phạm hành chính tăng mức xử phạt, bao gồm: Vi phạm về quy tắc giao thông: vi phạm quy định về dừng xe, đỗ xe trên đường cao tốc; không nhường đường hoặc gây cản trở xe được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên đi làm nhiệm vụ; đi ngược chiều của đường một chiều; không đội mũ bảo hiểm; Vi phạm quy định về điều kiện của phương tiện tham gia giao thông đường bộ: hành vi che biển số xe để tăng cường xử lý các trường hợp cố tình gây khó khăn trong việc xử lý vi phạm hành chính thông qua camera; hành vi không đủ hệ thống hãm hoặc có đủ hệ thống hãm nhưng không có tác dụng, không có tiêu chuẩn; hết hạn đăng kiểm; quá niên hạn sử dụng; Vi phạm quy định về điều kiện người điều khiển xe cơ giới: hành vi không có giấy phép lái xe hoặc sử dụng giấy phép lái xe hết hạn; Hành vi sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; sản xuất, bán biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trái phép; Hành vi tự ý thay đổi màu sơn của xe; đua xe trái phép; Hành vi người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gắn biển số nước ngoài.

+ Bổ sung quy định xử phạt đối với người trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông đường sắt phục vụ dây truyền công nghệ của doanh nghiệp bởi vì Điều 3 Thông tư số 33/2018/TT-BGTVT ngày 14/5/2018 có quy định về chức danh người trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông đường sắt phục vụ dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chưa có chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với chức danh này.

+ Sửa đổi theo hướng mô tả rõ hơn hành vi không tổ chức kiểm tra sức khỏe cho nhân viên đường sắt phục vụ chạy tàu cho phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, đảm bảo cơ sở pháp lý để xử phạt vi phạm hành chính.

+ Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính;thủ tục xử phạt đối với chủ phương tiện, người điều khiển phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ; quy định về tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhiều lần; quy định tạm giữ phương tiện, giấy tờ có liên quan đến người điều khiển và phương tiện vi phạm để phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng

+ Bổ sung quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; Bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính đối vi vi phạm tạo ra khói, lửa trên tàu bay trên cơ sở thực tiễn đã xảy ra các trường hợp hành khách bật lửa trên tàu bay để đốt khăn tẩm cồn.

+ Sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm về quản lý và khai thác cảng hàng không, sân bay; hành vi vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay; hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay; hành vi vi phạm quy định về thực hiện công việc theo tài liệu, quy trình và yêu cầu công việc của nhân viên hàng không và người lao động khác; vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên hàng không; Sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung để phù hợp, thống nhất với quy định tại Nghị định số 89/2019/NĐ-CP ngày 15/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2016/NĐ-CP và Nghị định số 30/2013/NĐ-CP; Thông tư số 21/2020/TT-BGTVT ngày 28/9/2020 sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 81/2014/TT-BGTVT, Thông tư số 14/2015/TT-BGTVT và Thông tư số 33/2016/TT-BGTVT.

+ Bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm trong lĩnh vực hàng không dân dụng để có đủ chế tài xử phạt vi phạm xảy ra trong thực tiễn trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid 19. Việc bổ sung quy định này đảm bảo nguyên tắc hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính tương đương với các quy định tại Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.

+ Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; hình thức tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề; biện pháp khắc phục hậu quả; quy định về sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính để phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

15. Nghị định số 125/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định số 125/2021/NĐ-CP được ban hành đảm bảo xử lý kịp thời những hạn chế, vướng mắc, bất cập về tính thống nhất đồng bộ của Nghị định 55/2009/NĐ-CP hiện hành trong hệ thống pháp luật và tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Luật Bình đẳng giới, Luật Xử lý vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn thi hành các luật trên. Đồng thời, nhằm bảo đảm tính hiệu quả, khả thi trong thực tiễn đấu tranh chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới thì việc xây dựng, ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vựcbình đẳng giớiđể thay thế Nghị định 55/2009/NĐ-CP hiện hành là hết sức cần thiết.

Nghị định cũng tạo hành lang pháp lý cho cơ quan quản lý nhà nước thực hiện hoạt động thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới, góp phần đảm bảo và thúc đẩy bình đẳng giới, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới nói riêng và các vi phạm pháp luật về bình đẳng giới nói chung.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 4 chương, 23 điều quy định những nội dung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, thời hiệu xử phạt, các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, quy định về mức phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức. Quy định cụ thể về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính, thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới.

-Các quy định chủ yếu, các nội dung, vấn đề của VBQPPL được dư luận quan tâm.

+ Sửa đổi, bổ sung các quy định chung nhằm đảm bảo phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính: bổ sung các quy định về hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới đang được thực hiện và hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc; điều chỉnh mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực bình đẳng giới là 30.000.000 đồng; bổ sung quy định về nguyên tắc áp dụng mức phạt tiền nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đặc biệt, Nghị định đã bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do vi phạm” và “Buộc nộp lại giấy phép, chứng chỉ, giấy đăng ký hoạt động bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung cho cơ quan, người có thẩm quyền đã cấp các loại giấy phép, chứng chỉ, giấy đăng ký hoạt động đó”.

+ Bổ sung hành vi, hình thức và tăng mức xử phạt đối với nhiều hành vi để đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa: Bổ sung quy định xử phạt đối với một số hành vi vi phạm về bình đẳng giới. Cụ thể như: hành vi phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động theo quy định; hành vi ép buộc hoặc nghiêm cấm người khác lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp vì định kiến giới; hành vi vận động, xúi giục, ép buộc hoặc cản trở người khác tham gia học tập, đến trường, lựa chọn môn học, ngành, nghề học tập, đào tạo vì lý do giới tính,… Tăng mức xử phạt đối với các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm từ 200.000 đến 500.000 lên 2.000.000 đến 3.000.000.

+ Điều chỉnh các quy định về thẩm quyền lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới, cụ thể: Bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của lực lượng Cảnh sát biển; bổ sung quy định cụ thể các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của từng chức danh trong lĩnh vực bình đẳng giới nhằm bảo đảm sự phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cụ thể việc phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 20 dự thảo Nghị định.

16. Nghị định số 127/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính số Luật số: 67/2020/QH14 có hiệu lực từ 01/01/2022, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong lĩnh vực giáo dục được sửa đổi tại khoản 10 Điều 1 của Luật: “Căn cứ quy định tại khoản 10 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14: “Phạt tiền đến 75.000.000 đồng: cơ yếu; quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia; quốc phòng, an ninh quốc gia; lao động; giáo dục; giáo dục nghề nghiệp; giao thông đường bộ; giao thông đường sắt; giao thông đường thủy nội địa; bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm thất nghiệp; phòng, chống tệ nạn xã hội;”. Điểm a khoản 3 Điều 3 Nghị định số 04/2021/NĐ-CP quy định mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong lĩnh vực giáo dục: “a) Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực giáo dục đối với cá nhân là 50.000.000 đồng, đối với tổ chức là 100.000.000 đồng;”. Như vậy để đảm bảo thống nhất mức phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục theo đúng quy định pháp luật và có hiệu lực cùng thời điểm với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính số 67/2020/QH14, việc nghiên cứu xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là cần thiết.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định có 5 Điều với một số nội dung chính như sau:

- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP;

- Thay thế, bãi bỏ một số khoản, cụm từ của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP;

- Quy định điều khoản chuyển tiếp đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục xảy ra trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết thì áp dụng quy định của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP trừ trường hợp Nghị định này không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì áp dụng quy định tại Nghị định này. Đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành hoặc đã được thi hành xong trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành, mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính có khiếu nại, thì áp dụng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định số 04/2021/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan để giải quyết.

17. Nghị định số 128/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán

a) Hiệu lực thi hành:Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Để đảm bảo triển khai thi hành Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính theo Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật xử lý vi phạm hành chính được ban hành theo Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ; khắc phục các vướng mắc trong quá trình thi hành Nghị định số 156/2020/NĐ-CP, đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đảm bảo tính thực thi, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trưởng chứng khoán.

- Hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, hỗ trợ xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng đầu tư tham gia thị trường chứng khoán.

c) Nội dung chủ yếu:Nghị định bao gồm 03 Điều trong đó Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP, Điều 2 bãi bỏ một số quy định tại Nghị định số 156/2020/NĐ-CP, Điều 3 quy định hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp, trách nhiệm tổ chức thực hiện.

Nghị định sửa đổi phạm vi điều chỉnh của Nghị định 156/2020/NĐ-CP, theo đó Nghị định quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, việc thi hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định có đối tượng bị xử phạt quy định tại Điều 2 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP. Một số nội dung chủ yếu của Nghị định bao gồm:

- Quy định rõ hành vi che dấu thông tin về quyền sở hữu thực sự theo hướng ngắn gọn, đồng thời bổ sung phần giải thích từ ngữ chi tiết đối với hành vi này nhằm tạo thuận lợi cho việc phát hiện, xử lý vi phạm.

- Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xử phạt theo đó tổ chức, cá nhân thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính nhiều lần và các vi phạm này được phát hiện ở cùng một thời điểm nhưng chưa bị xử phạt và chưa hết thời hiệu xử phạt thì xử phạt vi phạm hành chính một lần về hành vi vi phạm, đồng thời áp dụng tình tiết tăng nặng vi phạm hành chính nhiều lần. Quy định một số trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần thì xử phạt về một hành vi có khung phạt tiền cao nhất trong số các hành vi đã thực hiện và áp dụng tình tiết tăng nặng vi phạm hành chính nhiều lần như: hành vi báo cáo không đúng thời hạn hoặc không báo cáo khi có sự thay đổi về tỷ lệ sở hữu qua các ngưỡng 1% hoặc khi trở thành/không còn là cổ đông lớn; hành vi báo cáo không đúng thời hạn về kết quả thực hiện giao dịch hoặc không báo cáo về kết quả thực hiện giao dịch; hành vi công bố thông tin không đúng thời hạn hoặc không công bố đối với thông tin phải công bố quy định…

- Quy định về thời điểm tính thời hiệu vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm đối với một số hành vi như: hành vi vi phạm quy định về thực hiện chào bán, phát hành chứng khoán; hành vi vi phạm chậm hồ sơ đăng ký công ty đại chúng; với hành vi đăng ký giao dịch, niêm yết chứng khoán quá thời hạn quy định…

- Sửa đổi, bổ sung hành vi trong hoạt động chào bán, phát hành chứng khoán riêng lẻ để mô tả phù hợp hơn với quy định về hoạt động chào bán, phát hành riêng lẻ tại Nghị định số 155/2020/NĐ-CP và Nghị định số 153/2020/NĐ-CP như: hành vi công bố báo cáo sử dụng vốn, sử dụng tài khoản phong tỏa, thay đổi mục đích/phương án sử dụng vốn, thay đổi điều khoản trái phiếu....

- Bổ sung hành vi không báo cáo về thay đổi phương án sử dụng vốn tại Đại hội đồng cổ đông gần nhất trong chào bán ra công chúng; sửa đổi hành vi; bổ sung hành vi về tài khoản phong tỏa trong phát hành thêm chứng khoán.

- Bổ sung hành vi về thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa tại công ty đại chúng; sửa đổi, bổ sung một số hành vi trong quản trị công ty đại chúng về họp và bỏ phiếu trực tuyến, về đảm bảo cơ cấu và hoạt động của Ủy ban kiểm toán, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát...

- Bổ sung hành vi vi phạm về cổ phiếu quỹ theo khoản 4 Điều 310 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP; sửa đổi một số hành vi về chào mua công khai, bổ sung dẫn chiếu cụ thể đến Nghị định số 155/2020/NĐ-CP.

- Sửa đổi hành vi, từ ngữ tại phần xử lý vi phạm của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ để đảm bảo thống nhất với các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán 2019; bổ sung hành vi công ty quản lý quỹ không tuân thủ hợp đồng ký với ngân hàng giám sát theo Luật Chứng khoán 2019, bổ sung trường hợp ngoại trừ theo quy định pháp luật đối với hành vi sử dụng tài sản ủy thác để cho vay…

- Sửa đổi Điều 33 về vi phạm quy định về giao dịch của cổ đông lớn, người nội bộ và người có liên quan của người nội bộ theo hướng: sửa đổi một số hành vi từ vi phạm về công bố thông tin sang vi phạm về báo cáo; quy định rõ các khung phạt tiền đối với hành vi không báo cáo trước khi giao dịch, hành vi không báo cáo về kết quả giao dịch của người nội bộ và người có liên qua; quy định lại các khung phạt tiền theo hướng bổ sung thêm khung phạt cảnh cáo vi phạm có giá trị giao dịch nhỏ; sửa mức phạt đối với hành vi chậm báo cáo về kết quả giao dịch, giao dịch ngoài khoảng thời gian đăng ký hoặc ngoài khoảng thời gian Sở giao dịch chứng khoán công bố thông tin …

- Sửa đổi hành vi che giấu thông tin nhằm trốn tránh nghĩa vụ công bố thông tin, nghĩa vụ chào mua công khai hoặc quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài để phù hợp hơn với mô tả hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 12 Luật Chứng khoán 2019; nâng khung phạt tiền đối với hành vi tạo dựng thông tin, che dấu thông tin trong hoạt động chứng khoán từ 100-200 triệu đồng lên 200-300 triệu đồng; tách hành vi báo cáo có nội dung sai lệch hoặc sai sự thật thành khoản riêng với mức phạt tiền cao hơn, tương ứng với mức phạt của hành vi công bố thông tin sai lệch.

- Bổ sung quy định về trường hợp áp dụng thủ tục xử phạt không lập biên bản đối với một số hành vi có mức phạt cảnh cáo.

- Bổ sung hướng dẫn cụ thể về gửi quyết định xử phạt, báo cáo kết quả thực hiện, đôn đốc việc thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp áp dụng hình thức đình chỉ hoạt động kinh doanh và dịch vụ, tước quyền sử dụng giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động giao dịch chứng khoán; bổ sung quy định hướng dẫn về hình thức tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề chứng khoán, hình thức đình chỉ hoạt động giao dịch chứng khoán; hướng dẫn thi hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.

- Bổ sung 01 Điều về việc công khai việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, theo đó sẽ công khai việc xử phạt đối với tổ chức, cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 70.000.000 đồng trở lên hoặc bị áp dụng hình thức xử phạt chính là tước quyền sử dụng giấy chứng nhận, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động giao dịch chứng khoán có thời hạn hoặc bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt bổ sung hoặc biện pháp khắc phục hậu quả.

- Bãi bỏ 02 hành vi do tại Luật Chứng khoán năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã không còn quy định nghĩa vụ pháp lý của tổ chức, cá nhân liên quan (cụ thể bỏ điểm a khoản 1 Điều 8 do tại Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, Nghị định số 153/2020/NĐ-CP không còn quy định về nghĩa vụ liên quan đến thông báo phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành chứng khoán riêng lẻ; bỏ điểm a khoản 1 Điều 29 do theo quy định tại Điều 221 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, trường hợp vi phạm này sẽ bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động phân phối chứng chỉ quỹ).

18. Nghị định số 129/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; thể thao; quyền tác giả, quyền liên quan; văn hóa và quảng cáo

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:Ngày 13/11/2020, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, theo đó có sự thay đổi một số nội dung về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt tiền tối đa của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể:

- Quy định về nguyên tắc xác định hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện và hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc;

- Thay đổi, bổ sung một số chức danh của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính;

- Thay đổi thẩm quyền phạt tiền tối đa của một số chức danh;

- Thay đổi thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Do vậy, để bảo đảm thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cần thiết phải ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; thể thao; quyền tác giả, quyền liên quan; văn hóa và quảng cáo.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định ngoài phần căn cứ pháp lý, nội dung được chia thành 7 Điều, bao gồm:

- Điều 1 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 45/2019/NĐ-CP ngày 21/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch;

- Điều 2 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 46/2019/NĐ-CP ngày 27/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao;

- Điều 3 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị định số 28/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 131/2013/NĐ-CP;

- Điều 4 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo;

- Điều 5 bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số cụm từ, điểm của Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP và Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;

- Điều 6 quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện;

- Điều 7 quy định điều khoản thi hành.

- Nội dung cơ bản:

+ Bổ sung vào các Nghị định 01 Điều quy định về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, nguyên tắc xác định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện;

+ Điều chỉnh tên chính xác của Cục trưởng Cục Đường thủy nội địa Việt Nam; bổ sung một số chức danh như Trưởng phòng Nghiệp vụ thuộc Cục Nghiệp vụ quản lý thị trường (Quản lý thị trường); Đội trưởng Đội đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Cục Phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Hải đoàn trưởng Hải đoàn biên phòng, Cục trưởng Cục Phòng chống ma túy và tội phạm trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng (Bộ đội biên phòng); Đội trưởng Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển, Trạm trưởng trạm Cảnh sát biển, Hải đoàn trưởng Hải đoàn biên phòng, Cục trưởng Cục Phòng chống ma túy và tội phạm trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và Pháp luật thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam (Cảnh sát biển Việt Nam) tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 46/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP; - Điều chỉnh thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính: Được tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị không quá 02 lần mức tiền phạt của một số chức danh như thanh tra sở, trưởng đoàn thanh tra Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Trưởng công an cấp xã, một số chức danh của Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Quản lý thị trường. Được tịch thu tang vật, phương tiện không bị giới hạn bởi mức tiền phạt tiền tối đa của chức danh Giám đốc Công an cấp tỉnh, Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường cấp tỉnh, Cục trưởng CụcNghiệp vụ quản lý thị trường của các Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 46/2019/NĐ-CP, Nghị định số131/2013/NĐ-CP, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;

+ Quy định cụ thể thẩm quyền của Công an nhân dân tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 46/2019/NĐ-CP;

+ Bổ sung chức danh Tổ trưởng thuộc Chi cục Hải quan; Tổ trưởng thuộc Đội Kiểm soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Đội trưởng Đội Điều tra hình sự, Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm tra sau thông quan thuộc Cục Kiểm tra sau thông quan tại Nghị định số 131/2013/NĐ-CP, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;

+ Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền phạt tiền tối đa của Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Công an tỉnh tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 46/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP;

+ Sửa đổi, bổ sung nội dung thẩm quyền của Bộ đội biên phòng và Quản lý thị trường tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP;

+ Sửa đổi, bổ sung hành vi vi phạm liên quan đến quảng cáo xuyên biên giới, hành vi về quảng cáo mỹ phẩm do có sự thay đổi về pháp luật nội dung (Nghị định số 70/2021/NĐ-CP ngày 21/7/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quảng cáo);

+ Sửa đổi, bổ sung về phân định thẩm quyền đối với Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;

+ Bãi bỏ hành vi và thay thế cụm từ bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật nội dung tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP và Nghị định số 38/2021/NĐ-CP.

19. Nghị định số 130/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022;

Nghị định số 144/2013/NĐ-CPngày 29 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Việc ban hành Nghị định để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật (Luật Trẻ em năm 2016, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020; Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội,…) và phù hợp với chức năng quản lý nhà nước về lao động, người có công và xã hội của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 4 chương, 48 điều, cụ thể như sau:

* Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em không quy định tại Nghị định này thì áp dụng theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước có liên quan.

* Đối tượng áp dụng gồm:

- Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định này xảy ra trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác, gồm:

+ Cá nhân có hành vi vi phạm hành chính;

+ Tổ chức có hành vi vi phạm hành chính: các loại hình cơ sở trợ giúp xã hội; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; cơ sở tôn giáo; tổ chức dịch vụ chi trả; tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh; cơ sở văn hóa, vui chơi, giải trí và thể thao; cơ sở khám chữa bệnh; cơ sở giáo dục; cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở dịch vụ khác.

- Người có thẩm quyền lập biên bản.

- Người có thẩm quyền xử phạt.

- Cá nhân, tổ chức khác có liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định này.

*Một số điểm mới của Nghị định (so với Nghị định 144/2013/NĐ-CP trước đây):

- Thứ nhất, điều chỉnh tên gọi của Nghị định là "Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em".

- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả:

Chương II, Mục 1: bỏ một số quy định trùng lắp với quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) gồm: hành vi chiếm đoạt tiền, hàng cứu trợ; hành vi giả mạo hồ sơ, giấy tờ để hưởng chính sách ưu đãi về miễn, giảm thuế, cho vay vốn; giả mạo hồ sơ, giấy tờ để được cấp giấy xác nhận mức độ khuyết tật; xâm phạm thân thể, gây tổn hại về sức khỏe đối với trẻ em; ép buộc người cao tuổi lao động,… và sửa đổi, điều chỉnh một số hành vi vi phạm, mức phạt tiền, hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả để phù hợp với các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác có liên quan và tính chất, mức độ hành vi vi phạm.

Chương II, Mục 2: bổ sung quy định về cấm bạo lực với trẻ em; cấm lạm dụng, bóc lột trẻ em; cấm sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác; về quyền bày tỏ ý kiến, nguyện vọng và tham gia vào các vấn đề về trẻ em; hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại, bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; cấm công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em; cung cấp các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thông tin, truyền thông có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em; trách nhiệm bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng; sửa đổi, điều chỉnh một số hành vi vi phạm, mức phạt tiền và biện pháp khắc phục hậu quả để phù hợp với các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác có liên quan và tính chất, mức độ hành vi vi phạm.

- Thứ ba, bổ sung quy định về đối tượng áp dụng; hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả; thẩm quyền lập biên bản; phân định thẩm quyền xử phạt; bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ hàng không, Cảng vụ đường thủy nội địa, Thanh tra Tư pháp, Thanh tra Nội vụ, Thanh tra Xây dựng; sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Quản lý thị trường và Công an nhân dân.

- Thứ tư, rà soát, hoàn thiện Nghị định để phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020: quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; việc thi hành các hình thức xử phạt hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả;… trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em./.

20. Nghị định số 134/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Ngày 01/7/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ - CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, qua rà soát, Thanh tra Chính phủ và Văn phòng Chính phủ đã phát hiện một số sai sót về kỹ thuật nên Thanh tra Chính phủ đã có Văn bản số 1107/TTCP-PC ngày 08/7/2019 báo cáo và xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ về việc đính chính 05 nội dung của Nghị định và ủy quyền cho Tổng Thanh tra Chính phủ thay mặt Chính phủ ký văn bản đính chính. Ngày 14/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến đồng ý với đề nghị của Thanh tra Chính phủ tại Phiếu trình số 7628/PTr-V.I ngày 9/7/2019 của Văn phòng Chính phủ. Trên cơ sở đó, ngày 22/7/2019, Tổng Thanh tra Chính phủ thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký Văn bản số 298/CP-V.I về việc đính chính Nghị định số 59/2019/NĐ-CP. Trong quá trình giám sát, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái phản ánh ý kiến của cử tri cho rằng, việc đính chính Nghị định số 59/2019/ NĐ-CP chỉ có 01 mục là đính chính về lỗi chính tả, còn 04 mục là đính chính sai sót về nội dung là chưa phù hợp. Do đó, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái đề nghị cần phải sửa đổi, bổ sung bằng một văn bản quy phạm pháp luật khác. Qua công tác giám sát và trả lời kiến nghị của cử tri, Ban dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho rằng việc đính chính nêu trên là không phù hợp nên đề nghị Chính phủ thu hồi Văn bản số 298/CP- V.I và ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP. Qua trình nghiên cứu và rà soát Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, Thanh tra Chính phủ nhận thấy, ngoài vấn đề nêu trên, quá trình triển khai thực hiện Nghị định cũng phát sinh một số hạn chế, bất cập như quy định việc Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tự đánh giá kết quả công tác phòng, chống tham nhũng nhưng không quy định cơ quan thẩm định kết quả đánh giá có thể dẫn tới việc đánh giá thiếu chính xác, khách quan và mang tính hình thức. Ngoài ra, quá trình xây dựng Nghị định Bộ Tư pháp, Bộ Công an cũng chỉ ra một số quy định của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP chưa phù hợp với Luật Phòng, chống tham nhũng cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Vì vậy, việc xây dựng và ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng là cần thiết.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nội dung, cụ thể như sau:

- Tại điểm i khoản 1 Điều 1 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Điều 94 về xử lý hành vi vi phạm khác về phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi lại như sau: “Điều 94 về xử lý hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Việc sửa đổi này để đảm bảo thống nhất với tên Điều 94 của Luật Phòng , chống tham nhũng.

-Khoản 3 Điều 21 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ kết quả đánh giá ngành, mình và gửi kết quả đánh giá cho Thanh tra Chính phủ để tổng hợp” được sửa đổi là: “ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về kết quả đánh giá của ngành, cấp mình và gửi kết quả đánh giá để Thanh tra Chính phủ rà soát, đánh giá và tổng hợp. Quy định này nhằm làm rõ trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ trong việc thẩm định kết quả tự đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng của các bộ ngành, địa phương trước khi tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Quốc hội nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, phù hợp với thực tiễn và đề cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc tự đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng.

- Sửa lỗi chính tả cụm từ “quyền han” thành “quyền hạn” tại khoản 1 Điều 31 của Nghị định số 59/2019/NP-CP.

- Tại khoản 2 Điều 34 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều này thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quyết định hoặc đề nghị người có thẩm quyền quản lý người có chức vụ, quyền hạn quyết định đình chỉ công tác thực hiện nhiệm vụ, công vụ đối với người có chức vụ, quyền hạn”. Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi như sau: “Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều này thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quyết định hoặc đề nghị người có thẩm quyền quản lý người có chức vụ, quyền hạn quyết định đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đối với người có chức vụ, quyền hạn. ”Việc sửa đổi, thay cụm từ “công tác ” bằng từ “việc” để đảm bảo chính xác về mặt ngữ nghĩa mà không làm thay đổi nội dung của điều khoản.

- Tại Điều 52 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Người bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được trở lại vị trí công tác ban đầu sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng hoặc hết thời gian tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được xin lỗi, cải chính công khai và được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác theo quy định của pháp luật.

Khoản 8 Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi Điều 52 như sau: “Người bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được trở lại vị trí công tác ban đầu sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng; được xin lỗi, cải chính công khai và được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác theo quy định của pháp luật”. Cụ thể là đã lược bỏ cụm từ “hoặc không có kết luận về hành vi tham nhũng” ở tên gọi của Điều 52. Đồng thời , để bảo đảm thống nhất giữa các điều luật có điều chỉnh về cùng một nội dung, tại khoản 5, khoản 6 và khoản 7 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 44, điểm d, khoản 1 Điều 45 và khoản 1 Điều 48 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP.

- Tại điểm d khoản 2 Điều 76 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Vụ việc tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng là vụ việc mà người có hành vi tham nhũng bị xử lý bằng hình thức phạt tù từ trên 05 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.

Khoản 9 Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi như sau: “Vụ việc tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng là vụ việc mà người có hành vi tham nhũng bị xử lý bằng hình thức phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Việc sửa đổi này để đảm bảo sự thống nhất, chính xác với khung hình phạt theo phân loại tội phạm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Khoản 10 và khoản 11 Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi tiểu mục 1, Mục IX và tiểu mục 1, Mục X Phần B Phụ lục Danh mục vị trí công tác phải định kỳ chuyển đổi cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, chuyển nội dung “Cấp giấy cho thuê đất, giao đất” về Bộ Tài nguyên và Môi trường. Như vậy , hai tiểu mục nêu trên được sửa đổi như sau:

“1. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cho thuê đất, giao đất, quyền sở hữu, sử dụng tài sản gắn liền với đất”

“1. Quản lý động vật thuộc danh mục quý hiếm”.

21. Nghị định số 136/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành

Luật Đo đạc và bản đồ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Theo đó, ngày 13 tháng 3 năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ. Trong thời gian qua, việc thực hiện quy định của Luật Đo đạc và bản đồ, Nghị định số 27/2019/NĐ-CP đã đảm bảo thống nhất về đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước, tránh chồng chéo trong công tác quản lý và triển khai thực hiện các nhiệm vụ về đo đạc và bản đồ từ trung ương đến địa phương và giữa các bộ, ngành. Việc tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý và tổ chức triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ cho địa phương đã tạo điều kiện cho nhiều tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động đo đạc và bản đồ.Việc cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân có quyền đại diện theo pháp luật tham gia các hoạt động đo đạc và bản đồ. Tuy nhiên, qua hơn 2 năm triển khai thực hiện Nghị định số 27/2019/NĐ-CP đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc cần xem xét sửa đổi, bổ sung, cụ thể như sau:

+ Thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 27/2019/NĐ-CP được cung cấp, khai thác, sử dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới 2 dạng là: bản sao hoặc xuất bản phẩm. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay nhu cầu cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ dưới dạng trực tuyến đang dần trở nên phổ biến. Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu được cung cấp thông tin, dữ liệu thu nhận từ mạng lưới trạm định vị vệ tinh quốc gia, dữ liệu nền địa lý quốc gia ... dưới dạng trực tuyến để đảm bảo được cung cấp theo thời gian thực. Hình thức sử dụng dữ liệu trực tuyến là một hình thức sử dụng phổ biến, chính xác, kịp thời, tiện lợi, giảm chi phí, đặc biệt phù hợp với định hướng chuyển đổi số cần được quy định để đảm bảo việc cung cấp thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ cho các tổ chức, cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội.

+ Việc phân cấp trách nhiệm quản lý và tổ chức triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ cho địa phương đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đo đạc và bản đồ. Các tổ chức hoạt động đo đạc và bản đồ đã phát triển nhiều về số lượng, phong phú, đa dạng về qui mô cũng như nội dung hoạt động đo đạc bản đồ. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, một số tổ chức đề nghị cấp giấy phép gặp khó khăn trong việc kê khai, lập hồ sơ đề nghị cấp phép khi yêu cầu cấp phép thông qua dịch vụ công trực tuyến mức độ 3. Mặt khác, để thực hiện chương trình cải cách hành chính, nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động đo đạc và bản đồ gắn kết với việc xây dựng Chính phủ điện tử và tăng cường xây dựng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, cần có quy định cụ thể hơn về danh mục nội dung hoạt động đo đạc và bản đồ, nhân lực kỹ thuật, phương tiện, thiết bị công nghệ đo đạc và bản đồ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức khi đề nghị cấp phép hoạt động đo đạc và bản đồ; báo cáo tình hình hoạt động đo đạc và bản đồ bằng phương thức trực tuyến.

+ Theo quy định tại Điều 44 Nghị định số 27/2019/NĐ-CP, việc sát hạch và cấp chứng chỉ hành nghề được tiến hành đồng thời và không quá 3 lần trong 1 năm. Điều này dẫn tới việc một số cá nhân có nhu cầu cấp chứng chỉ bị hạn chế về thời gian đăng ký đề nghị xét cấp. Do vậy, cần xem xét, nghiên cứu để việc cấp chứng chỉ hành nghề thực hiện thường xuyên trong năm. Mặt khác, cá nhân tham gia hoạt động đo đạc và bản đồ thường phải thực hiện các nhiệm vụ trên phạm vi cả nước nên gặp khó khăn trong việc sát hạch, đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ. Vì vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân tham gia sát hạch, đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ nơi công tác, cụ thể hóa thành phần hồ sơ, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ điện tử thông qua dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.

Mặt khác, trong thời gian qua, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ ban hành về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025;Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày07tháng3năm2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm 2025 yêu cầu tiếp tục rà soát nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, phát triển Chính phủ điện tử. Do đó, để đảm bảo thi hành Luật Đo đạc và bản đồ và Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồtrong hoạt động đo đạc và bản đồ đặt ra nhiệm vụ cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP để có cơ sở pháp lý giải quyết các yêu cầu trên của thực tiễn và đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ trong giai đoạn hiện nay.

- Mục đích ban hành

+ Bổ sung hình thức cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm dạng trực tuyến để phù hợp với thực tế nhu cầu sử dụng và khả năng đáp ứng của dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 về cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ, phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số.

+ Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong việc cải cách thủ tục hành chính cấp giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ cho các tổ chức, cấp chứng chỉ hành nghề cho các cá nhân tham gia các hoạt động đo đạc bản đồ nhằm hướng tới việc cấp phép, cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ điện tử được thực hiện qua dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; báo cáo tình hình hoạt động đo đạc và bản đồ bằng phương thức trực tuyến tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân và nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động đo đạc và bản đồ.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định 136/2021/NĐ-CP gồm 4 điều, cụ thể:

- Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ.

- Điều 2: Hiệu lực thi hành.

- Điều 3: Điều khoản chuyển tiếp.

- Điều 4: Trách nhiệm thi hành.

Ban hành kèm theo Nghị định Phụ lục 15 Biểu mẫu về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ.

22. Nghị định số 137/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh đặt cược và trò chơi có thưởng

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Nghị định này bãi bỏ một phần văn bản quy phạm pháp luật sau đây: a) Chương VII Nghị định số06/2017/NĐ-CPngày 24 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về kinh doanh đặt cược đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế; b) Chương VII Nghị định số03/2017/NĐ-CPngày 16 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về kinh doanh casino; c) Chương VII Nghị định số86/2013/NĐ-CPngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; d) Khoản 13, khoản 14 và khoản 15 Điều 1 Nghị định số175/2016/NĐ-CPngày 30 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều quy định tại Nghị định số86/2013/NĐ-CPngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:Trước khi Nghị định số 137/2021/NĐ-CP được ban hành, pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng (bao gồm đặt cược, casino và trò chơi điện tử có thưởng) được quy định tại 03 Nghị định chuyên ngành[2]. Năm 2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC). Căn cứ nhiệm vụ được giao tại Luật, Chính phủ ban hành Nghị định số 137/2021/NĐ-CP nhằm:

- Đồng bộ pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng với Luật XLVPHC và pháp luật có liên quan.

- Rà soát, hoàn thiện quy định về mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng nhằm phản ánh đúng tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm của từng hành vi vi phạm trong từng lĩnh vực theo đúng nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính của Luật XLVPHC và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm, góp phần duy trì trật tự, kỷ cương, nâng cao nhận thức của người chơi và doanh nghiệp trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng.

c) Nội dung chủ yếu:Nghị định số 137/2021/NĐ-CP quy định về hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng. Trong đó, Nghị định đã kế thừa các nội dung về xử phạt vi phạm hành chính còn phù hợp của 03 Nghị định chuyên ngành về: các quy định chung về xử lý vi phạm, các hình thức xử phạt, mức phạt tiền tối đa; các biện pháp khắc phục hậu quả; lập biên bản hành chính và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và kế thừa toàn bộ 22 nhóm hành vi vi phạm hành chính.

Bên cạnh các nội dung kế thừa, Nghị định số 137/2021/NĐ-CP đã bổ sung, hoàn thiện các nội dung sau:

- Sửa đổi, bổ sung các nội dung phù hợp với quy định của Luật XLVPHC 2020, cụ thể:

+ Quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng là 01 năm; thời điểm để xác định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và quy định cụ thể thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để xác định thời hiệu xử phạt đối với một số hành vi vi phạm;

+ Bổ sung các chức danh của lực lượng công an nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng. Đồng thời, Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt bao gồm mức phạt tiền, thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thẩm quyền tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh có thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả của từng chức danh có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định này đã đồng bộ pháp lý xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng đồng bộ với quy định của Luật XLVPHC hiện hành, đảm bảo công khai, rõ ràng, thống nhất trong triển khai thực hiện.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định phù hợp với hệ thống pháp luật có liên quan:

+ Nghị định đã bổ sung quy định về hành vi vi phạm và hoàn thiện mức xử phạt đối với các hành vi vi vi phạm quy định phòng, chống rửa tiền và phòng, chống khủng bố trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về phòng chống rửa tiền và phòng chống tài trợ khủng bố và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực này;

+ Bổ sung quy định về hành vi vi phạm và mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm về quảng cáo, sửa đổi mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định về giảm giá và khuyến mại để đồng bộ với pháp luật về quảng cáo và thương mại.

- Rà soát, sửa đổi mức phạt tiền của các hành vi vi phạm phù hợp tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm của từng hành vi vi phạm đối với từng lĩnh vực. Cụ thể:

+ Đồng bộ mức phạt tiền và hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm có tính chất, mức độ vi phạm giống nhau;

+ Nâng mức phạt tiền và quy định hình thức tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh có thời hạn đối với các hành vi vi phạm có tính chất nghiêm trọng, mức độ vi phạm cao liên quan đến điều kiện đầu tư, kinh doanh và các hành vi bị nghiêm cấm;

+ Phân hóa mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm trong kinh doanh đặt cược và casino cao hơn trong kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng để phù hợp với tính chất, mức độ tác động của hành vi vi phạm trong từng lĩnh vực. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ và hậu quả vi phạm của hành vi vi phạm.

23. Nghị định số 138/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu và giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Nghị định này thay thế Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2013 quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính và Nghị định số31/2020/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành

Ngày 03/10/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2013/NĐ-CP quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 31/2020/NĐ-CP ngày 03/5/2020), sau đây viết gọn là Nghị định số 115/2013/NĐ-CP. Qua 08 năm triển khai thi hành Nghị định số 115/2013/NĐ-CP đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, ngăn chặn có hiệu quả các hành vi vi phạm hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan chức năng xác minh tình tiết của vụ vi phạm, trên cơ sở đó làm căn cứ quyết định xử lý công minh, triệt để, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quyết định xử lý vi phạm hành chính. Theo số liệu thống kê trong 08 năm, từ năm 2013 đến nay, cơ quan chức năng đã tạm giữ 17.460.000 tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; trong đó, đã trả lại 4.056.000 tang vật, phương tiện cho chủ sở hữu; chuyển điều tra, xác minh gần 190.000 tang vật, phương tiện; tiêu hủy 5.040.000 tang vật, phương tiện và bán sung công quỹ nhà nước 5.065.000 tang vật, phương tiện, nộp vào ngân sách nhà nước hơn 1.940 tỷ đồng (bao gồm số tiền là tang vật, phương tiện vi phạm và số tiền thanh lý tang vật, phương tiện vi phạm).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn thi hành Nghị định số 115/2013/NĐ-CP đã phát sinh một số hạn chế, bất cập nhất định cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính, cụ thể như: Chưa quy định cụ thể việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ khi hết thời hạn tạm giữ; về điều kiện, trình tự, thủ tục đặt tiền bảo lãnh cũng cần được quy định cụ thể hơn nữa để thuận tiện áp dụng; một số vấn đề thực tiễn đặt ra khi cho phép tổ chức, cá nhân đặt tiền bảo lãnh cũng cần được hoàn thiện hơn như khi đến thời hạn chấp hành quyết định xử phạt nhưng người vi phạm không đến giải quyết thì số tiền đặt bảo lãnh được xử lý theo trình tự, thủ tục như thế nào hoặc khi nào thì xác định trường hợp được đặt tiền bảo lãnh đã chấp hành xong quyết định xử phạt; thời gian và số lần thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong trường hợp đã hết thời hạn tạm giữ mà người vi phạm không đến nhận còn dài và phải mất nhiều lần gây ảnh hưởng đến hiệu quả công tác xử lý; đối với tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị thấp hoặc không còn giá trị sử dụng mà chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến nhận lại thì cần có quy định xử lý theo hướng rút gọn thủ tục bảo đảm nhanh chóng, hiệu quả… Những hạn chế, bất cập nêu trên đã gây khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan, người có thẩm quyền trong quá trình tạm giữ, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cũng như chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác xử lý vi phạm hành chính.

Ngày 13/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022, theo đó một số các quy định về tạm giữ, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế hiện nay, như: Bổ sung quy định về quản lý, bảo quản đối với giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; bổ sung trách nhiệm quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ của người lập biên bản tạm giữ...

Do đó, để bảo đảm cho việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo đúng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm hành chính thì việc ban hành Nghị định quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu và giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính để thay thế Nghị định số 115/2013/NĐ-CP là cần thiết.

- Mục đích ban hành

+ Xây dựng Nghị định đảm bảo phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2020).

+ Khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Nghị định số 115/2013/NĐ-CP và các quy định pháp luật khác có liên quan.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 3 Chương, 19 điều, với nội dung cụ thể như sau:

- Chương 1. Quy định chung, bao gồm 05 điều, từ Điều 1 đến Điều 5 quy định về: Phạm vi vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; nguyên tắc quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; các hành vi bị nghiêm cấm và kinh phí bảo đảm cho công tác quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ.

- Chương 2. Quy định về quản lý, bảo quản tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ, bao gồm 12 điều, từ Điều 6 đến Điều 17 quy định về: Nơi tạm giữ tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan nơi quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; nhiệm vụ, quyền hạn của người quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; trách nhiệm trong quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân có tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; tiếp nhận tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; chế độ quản lý, bảo quản, giao, nhận tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản; đặt tiền bảo lãnh phương tiện giao thông bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; trả lại tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ hoặc chuyển tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu; thu, nộp, quản lý, sử dụng chi phí lưu kho, chi phí bến bãi, chi phí bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ; xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề hết thời hạn tạm giữ.

- Chương 3. Điều khoản thi hành, gồm 02 điều, từ Điều 18 đến Điều 19, quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành.

24. Nghị định số 139/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, thay thế Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2015 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành Nghị định:

Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/12/2015 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (sau đây viết là Nghị định số 132/2015/NĐ-CP) sau 05 năm triển khai thực hiện bên cạnh những kết quả đạt được đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, cụ thể như sau:

+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2020, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/1/2022. Theo đó, tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 có một số nội dung liên quan trực tiếp đến Nghị định số 132/2015/NĐ-CP như tăng mức phạt tiền thuộc thẩm quyền xử phạt của Giám đốc Cảng vụ Đường thủy nội địa từ 25.000.000 đồng lên 50.000.000 đồng, một số thuật ngữ đã được thay đổi như “tháo dỡ” thay bằng “phá dỡ”…

Đồng thời, Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Nghị định số 97/2017/NĐ-CP đang được sửa đổi, bổ sung, trong đó có một số nội dung liên quan trực tiếp đến Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường thủy nội địa.

+ Nghị định số 132/2015/NĐ-CP trong quá trình triển khai thực hiện cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập như sau:

+ Mức tiền phạt được áp dụng trong Nghị định còn thấp, không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục;

+ Cách chia các nhóm phương tiện tại Nghị định chưa thống nhất, chưa được phù hợp tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm;

+ Chưa có chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm (như không ghi hoặc ghi chép không đầy đủ Sổ nhật ký hành trình, Sổ nhật ký máy; không có dấu hiệu chỉ dẫn, cảnh báo nơi nguy hiểm, dễ cháy, dễ nổ và thuyền viên không biết sử dụng các trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy...).

+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nội dung là cơ sở ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa được sửa đổi, bổ sung thay thế nên cần điều chỉnh các hành vi quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho phù hợp:

+ Nghị định số 128/2018/NĐ-CP ngày 24/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung các Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực đường thủy nội địa (gồm: Nghị định số 110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014; Nghị định số 78/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016; Nghị định số 24/2015/NĐ-CP ngày 27/02/2015), trong đó, nhiều nội dung liên quan đến các quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP như quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa, phục hồi phương tiện thủy nội địa, điều kiện kinh doanh vận tải thủy nội địa;

+ Nghị định số 159/2018/NĐ-CP ngày 28/11/2018 của Chính phủ về quản lý hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển và vùng nước đường thủy nội địa, Nghị định 48/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019 quyđịnhvề quản lý hoạt động của phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí dưới nước, trong đó có nhiều hành vi liên quan đến hoạt động nạo vét, phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí dưới nước mà chưa được quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP;

+Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 quy định cấm: “Thuyền viên, người lái phương tiện đang làm việc trên phương tiện mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn hoặc có các chất kích thích khác mà luật cấm sử dụng”.Vì vậy, cần điều chỉnh các hành vi quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho phù hợp.

+ Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày 28/01/2021 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa, trong đó, nhiều nội dung quy định về điều kiện, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng, khai thác giao thông vận tải ĐTNĐ đã được thay đổi.

+ Một số Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực chuyên ngành có liên quan đến hoạt động giao thông đường thủy nội địa có sự bổ sung, điều chỉnh hành vi và mức xử phạt, đòi hỏi Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa cần có sự cập nhật, điều chỉnh tương ứng để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định số 23/2020/NĐ-CP ngày 24/2/2020 của Chính phủ quy định về quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ bãi sông…

Xuất phát từ những nội dung nói trên, việc xây dựng Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường thủy nội địa để thay thế Nghị định số 132/2015/NĐ-CP là cần thiết.

- Mục đích ban hành Nghị định:

Việc xây dựng Nghị định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giao thông đường thủy nội địa, bảo đảm trật tự, an ninh, an toàn giao thông, thúc đẩy phát triển vận tải thủy. Đồng thời, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong tổ chức triển khai Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa nói riêng.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 05 Chương và 59 Điều, cụ thể:

+ Chương I. Quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 4) gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, thời hiệu, hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả và áp dụng mức phạt tiền trong xử phạt hành chính.

+ Chương II. Quy định về các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả (từ Điều 5 đến Điều 41), trong đó, Nghị định chia các hành vi vi phạm thành 7 nhóm, tương đương với 7 mục của Chương II bao gồm: Vi phạm quy định về xây dựng, quản lý, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng và tổ chức các hoạt động trên đường thủy nội địa (từ Điều 5 đến Điều 14); vi phạm quy định về hoạt động của phương tiện (từ Điều 15 đến Điều 19); vi phạm quy định về hoạt động của thuyền viên, người lái phương tiện, chủ phương tiện (từ Điều 20 đến Điều 24); vi phạm quy tắc giao thông và quy định về tín hiệu của phương tiện (từ Điều 25 đến Điều 26); vi phạm quy định về quản lý, khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu (từ Điều 27 đến Điều 31); vi phạm quy định về vận tải đường thủy nội địa (từ Điều 32 đến Điều 38); vi phạm quy định về hoa tiêuvà các quy định đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (từ Điều 39 đến Điều 41).

+ Chương III. Quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (từ Điều 42 đến Điều 50).

+ Chương IV. Quy định về tạm giữ phương tiện, giấy tờ, xác định phương tiện không đăng ký, đăng kiểm, chế độ thông tin và sử dụng hình ảnh, thiết bị để xử phạt (từ Điều 51 đến Điều 56).

+ Chương V. Điều khoản thi hành (từ Điều 57 đến Điều 59).

Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả và thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa; Các hành vi vi phạm về hoạt động của phương tiện thủy nội địa ngoài phạm vi luồng và vùng nước chưa được tổ chức quản lý, khai thác giao thông vận tải, bao gồm: Vi phạm của phương tiện thủy nội địa; thuyền viên, người lái phương tiện; quy tắc giao thông và tín hiệu của phương tiện; vận tải đường thủy nội địa; tai nạn giao thông đường thủy nội địa và tìm kiếm, cứu nạn giao thông đường thủy nội địa.

Các hành vi vi phạm hành chính khác liên quan đến giao thông đường thủy nội địa không được quy định tại Nghị định này thì áp dụng các quy định tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chínhtrongcác lĩnh vực khác có liên quan.

Đối tượng áp dụng: Cá nhân, tổ chức Việt Nam và nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa tại Việt Nam; Người có thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính; Hộ kinh doanh, hộ gia đình; Các đơn vị phụ thuộc doanh nghiệp (chi nhánh, văn phòng đại diện).

Nội dung cơ bản của Nghị định:

- Về các nhóm hành vi vi phạm:Nghị định có sự điều chỉnh lại các nhóm hành vi tương ứng với 07 mục tại Chương II của Nghị định, tăng 02 mục so với Nghị định 132/2015/NĐ-CP. Việc điều chỉnh này nhằm chuyển các hành vi có đối tượng bị xử phạt tương đồng nhau về cũng 01 nhóm, tạo thuận lợi trong quá trình tra cứu, áp dụng, cụ thể:

+ Mục I: Nhóm hành vi vi phạm quy định về xây dựng, quản lý, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng và tổ chức các hoạt động trên đường thủy nội địađã được điều chỉnh theo hướng bổ sung một số hành vi và sửa đổi tên gọi so với Nghị định 132/2015/NĐ-CP để bao quát tất cả các hành vi được quy định trong nhóm này.

+ Mục II: Nhóm hành vi vi phạm quy định về điều kiện hoạt động của phương tiện được sửa đổi tên so với Nghị định số 132/2015/NĐ-CP, tại mục này quy định các hành vi vi phạm về đăng ký, đăng kiểm của phương tiện, các điều kiện về đảm bảo an toàn, niên hạn sử dụng của phương tiện, yêu cầu đối với hoạt động đóng mới, hoán cải, sửa chữa phương tiện.

+ Mục III: Nhóm hành vi vi phạm quy định về điều kiện của thuyền viên, người lái phương tiện được điều chỉnh theo hướng phân định cụ thể các hành vi vi phạm của của từng chủ thể nhằm đảm bảo quy định chính xác nhất tới từng chủ thể vi phạm, tạo thuận lợi trong quá trình tra cứu, áp dụng, đồng thời cũng góp phần nâng cáo ý thức trách nhiệm của mỗi nhóm chủ thể (như quy định vềcác hành vi vi phạm của chủ phương tiện, người thuê phương tiện tại Điều 20; các hành vi vi phạm của thuyền viên, người lái phương tiện tại Điều 21…). Đồng thời, bổ sung các hành vi vi phạm về trách nhiệm của thuyền viên, người lái phương tiện khi có tai nạn giao thông đường thủy.

+ Mục IV: Nhóm hành vi vi phạm quy tắc giao thông và quy định về tín hiệu của phương tiện được điều chỉnh để bổ sung một số hành vi cho phù hợp với thực tiễn.

+ Mục V: Nhóm hành vi vi phạm quy định về quản lý, khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu (được tách từ nhóm hành vi vi phạm quy định về khai thác cảng, bến thủy nội địa và vận tải đường thủy nội địa tại Nghị định 132/2015/NĐ-CP và được chỉnh sửa, bổ sung một số hành vi cho phù hợp).

+ Mục VI: Nhóm hành vi vi phạm quy định về vận tải đường thủy nội địa (được tách từ nhóm hành vi vi phạm quy định về khai thác cảng, bến thủy nội địa và vận tải đường thủy nội địa tại Nghị định 132/2015/NĐ-CP và được chỉnh sửa, bổ sung một số hành vi cho phù hợp).

+ Mục VII: Nhóm hành vi vi phạm quy định về hoa tiêu và vi phạm quy định khi có hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.

- Về mức xử phạt: Nghị định đã tăng mức phạt và quy định cụ thể rõ hơn đối với các hành vi trang bị không đủ thiết bị, dụng cụ an toàn, dụng cụ cứu đắm, phòng cháy, chữa cháy, phòng ngừa ô nhiễm môi trường, dụng cụ neo đậu, dụng cụ liên kết phương tiện; hành vi không trang bị hoặc trang bị không đủ áo phao hoặc dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân; hành vi không mặc áo phao cứu sinh hoặc không mang dụng cụ nổi cứu sinh khi tham gia giao thông trên phương tiện. Đồng thời, ngoài việc tăng mức phạt đối với các hành vi này thì còn quy định mức xử phạt sẽ được tính trên mỗi thiết bị, dụng cụ, mỗi áo phao, dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân để đảm bảo tính răn đe.

Ngoài ra, Nghị định cũng điều chỉnh lại hình thức và mức xử phạt bổ sung tại một số hành vi cho phù hợp với quy định tại Điều 21, 25 và 26 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Về việc chia các loại phương tiện: Nghị định đã điều chỉnh lại cách chia các nhóm phương tiện để áp dụng các mức xử phạt phù hợp, tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi, đảm bảo sự thống nhất với Điều 24Luật Giao thông đường thủy nội địa và các văn bản quy định về nội dung.

- Về việc bổ sung một số hành vi vi phạm:

+ Bổ sung các hành vi vi phạm về xây dựng kè, đập thủy lợi, cầu, bến phà, phong điện, nhiệt điện, thủy điện, công trình vượt qua luồng trên không, dưới đáy luồng, các hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản, khai thác, nuôi trồng thủy sản, hải sản, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao tại Mục I (Điều 5, 13, 14) của Nghị định vì hiện nay do đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ngày một phát triển, các hoạt động xây dựng, khai thác khoáng sản, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao và nhiều hoạt động khác liên quan đến hoạt động giao thông đường thủy nội địa thường xuyên được tổ chức thực hiện. Tại Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày 28/01/2021 quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa, Nghị định số 48/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019về quản lý hoạt động của phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí dưới nước… đã có sự bổ sung các quy định điều chỉnh hoạt động này.Do vậy, Nghị định cần thiết có sự nghiên cứu điều chỉnh và bổ sung các hành vi nhằm đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn xã hội và đảm bảo tương thích với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.

+ Bổ sung một số hành vi như "điều khiển phương tiện không tuân theo chỉ dẫn của báo hiệu đường thủy nội địa hoặc chỉ dẫn của người điều tiết giao thông mà gây tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông hoặc làm hư hại đến các công trình trên đường thủy nội địa" vào Mục IV (Điều 25), quy định ở mức phạt tiền cao nhất do thực tiễn gần đây xuất hiện nhiều trường hợp phương tiện tham gia giao thông ĐTNĐ không tuân thủ đúng quy định chỉ dẫn, báo hiệu, gây đâm va, dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà chưa có quy định xử phạt vi phạm nhằm răn đe, phòng ngừa (như vụ đâm sập cầu Ghềnh, cầu An Thái…).

+ Bổ sungmột số hành vi vi phạm quy định về đầu tư, khai thác khu neo đậu tại Mục V (Điều 27) nhằm đảm bảo sự tương thích đối với quy định tại Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày 28/01/2021 và phù hợp với thực tiễn khai thác loại hình dịch vụ này. Đồng thời, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu hết thời hạn hoạt động hoặc tổ chức cho phương tiện vào neo đậu bốc xếp hàng hóa, đón, trả hành khách tại các khu vực chưa được công bố, cấp phép hoạt động nhằm giảm thiểu tình trạng cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu hoạt động không phép, phá vỡ quy hoạch ngành, gây mất an toàn giao thông.

- Về thẩm quyền xử phạt: Nghị định đã bổ sung 01 Điều (Điều 42) để phân định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan có thẩm quyền xử phạt để tránh chồng chéo và tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức dễ dàng tra cứu, áp dụng.Đồng thời, Nghị định có sự điều chỉnh lại hạn mức xử phạt đối với một số chức danh có thẩm quyền xử phạt nhằm đảm bảo sự tương thích với Luật sửa đổi, bổ sung Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020.

25. Nghị định số 140/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký (ngày 31 tháng 12 năm 2021).

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành

+ Cơ sở pháp lý

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sau đây gọi là Luật số 15/2012/QH13) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012 nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn liền với tổ chức thi hành đã nâng cao hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước trong quản lý xã hội góp phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Ngày 13/11/2020 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sau đây gọi là Luật số 67/2020), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022. Luật số 67/2020 ban hành, trong đó, Phần thứ ba: Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, Luật số 67/2020 đã sửa đổi, bổ sung một phần nội dung của 15/30 điều, Phần thứ tư: Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đã sửa đổi, bổ sung một phần nội dung của 6/14 điều (trong đó, Quốc hội đã giao cho Chính phủ quy định chi tiết Điều 131), còn có những vấn đề cần phải hướng dẫn cụ thể, chi tiết, chính xác mang tính thống nhất trong tổ chức thi hành pháp luật trong phạm vi toàn quốc, nhằm thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về biện pháp xử lý hành chính của Chính phủ được quy định tại các điều: Điều 92, Điều 94, Điều 97, Điều 98, Điều 99, Điều 100, Điều 101, Điều 102, Điều 107, Điều 110, Điều 118, Điều 122, Điều 131, Điều 132.

Ngày 26/01/2021, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bộ Công an được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc (thay thế Nghị định số 02/2014/NĐ-CP ngày 10/01/2014, sau đây gọi tắt là Nghị định số 02/2014).

- Mục đích

+ Nhằm hướng dẫn cụ thể một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà Luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết để tổ chức thi hành áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc.

+ Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ; điều kiện trình tự lập hồ sơ; chính sách hành chính đối với đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc.

+ Khắc phục những tồn tại, phát sinh trong thực hiện các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính để hoạt động thống nhất nâng cao hiệu lực, hiệu quả.

c) Nội dung chủ yếu:

Chương I: Phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; điều kiện bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; chuyển hồ sơ của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc có dấu hiệu của tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự; truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính; giải quyết trường hợp người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của người đó không đến đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung trong hồ sơ đề nghị; thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; truy tìm người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc bỏ trốn; tạm thời đưa học sinh, trại viên ra khỏi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; thi hành, quản lý người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.

Chương II gồm 2 mục:

Mục 1. Thủ tục lập hồ sơ đề nghị, thi hành; chế độ quản lý, giáo dục; chế độ chính sách đối với học sinh, gồm các điều quy định về: Hồ sơ, thủ tục đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; hồ sơ, thủ tục đưa người đã có quyết định vào trường giáo dưỡng; hồ sơ, thủ tục đề nghị xem xét, quyết định hoãn, giảm thời hạn, tạm đình chỉ, miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần thời gian còn lại tại trường giáo dưỡng; chế độ quản lý học sinh; chế độ ăn, mặc và đồ dùng sinh hoạt của học sinh; chế độ ở của học sinh; chế độ chăm sóc y tế đối với học sinh; chế độ học văn hóa, học nghề và lao động của học sinh; quản lý, sử dụng kết quả lao động của trường giáo dưỡng; chế độ sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí của học sinh; chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với học sinh; chế độ gặp thân nhân, liên lạc, nhận tiền, quà của học sinh; giải quyết trường hợp học sinh chết; giải quyết trường hợp học sinh có việc tang hoặc trường hợp khó khăn đặc biệt.

Mục 2. Thủ tục lập hồ sơ đề nghị, thi hành; chế độ quản lý, giáo dục; chế độ chính sách đối với trại viên, gồm các điều quy định về: Hồ sơ, thủ tục đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; hồ sơ, thủ tục đưa người đã có quyết định vào cơ sở giáo dục bắt buộc; hồ sơ, thủ tục đề nghị xem xét, quyết định hoãn, giảm thời hạn, tạm đình chỉ, miễn chấp hành toàn bộ hoặc một phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục bắt buộc; chế độ quản lý trại viên; chế độ ăn đối với trại viên; chế độ mặc và đồ dùng sinh hoạt của trại viên; chế độ ở của trại viên; chế độ chăm sóc y tế đối với trại viên; chế độ học tập, sinh hoạt của trại viên; chế độ lao động, học nghề của trại viên; quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục bắt buộc; chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với trại viên; chế độ thăm gặp thân nhân, liên lạc, nhận tiền, quà của trại viên; giải quyết trường hợp trại viên chết; giải quyết trường hợp trại viên có việc tang của thân nhân hoặc trường hợp khó khăn đặc biệt.

Mục 3. Hết thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; tái hòa nhập cộng đồng, gồm các điều quy định về: Hết thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; hết thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; chuẩn bị công tác tái hòa nhập cộng đồng; biện pháp tái hòa nhập cộng đồng.

Chương III: Đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; công bố quyết định áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; thực hiện quản lý, giám sát, giáo dục người được áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên được áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; hết thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.

Chương IV: Trách nhiệm của Bộ Công an; trách nhiệm của Bộ Y tế; trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo; trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; trách nhiệm của Bộ Tài chính; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Chương V: Biểu mẫu sử dụng trong áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc; hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp.

Ban hành kèm theo Nghị định Phụ lục các Biểu mẫu trong áp dụng biện pháp xử lý chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc.

26. Nghị định số 142/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất

a) Hiệu lực thi hành:Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

Nghị định này thay thế cácNghị định số 112/2013/NĐ-CPngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất vàNghị định số 17/2016/NĐ-CPngày 17 tháng 3 năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành

Ngày 20/6/2012, tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013 (sau đây gọi là Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) . Tại Chương I, Chương II, Chương III (Phần 2) và Chương I, Chương II (Phần 4) của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về biện pháp tạm giữ người, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng hình thức xử phạt trục xuất. Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng giúp các cơ quan chức năng kịp thời ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính, xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả trong xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, để triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, ngày 02/10/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2013/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 117/2016/NĐ-CP ngày 17/3/2016).

Qua gần 10 năm triển khai thực hiện, Nghị định số 112/2013/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 117/2016/NĐ-CP ngày 17/3/2016), (sau đây gọi là Nghị định 112) đã tạo được hành lang pháp lý hữu hiệu và góp phần quan trọng trong việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật hành chính, đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp xử phạt, các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính.

Ngày 13/11/2020 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020. Theo đó, một số chức danh có thẩm quyền xử phạt hành chính, thẩm quyền tạm giữ người, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng biện pháp trục xuất hành chính đã được sửa đổi, bổ sung và quy định mới tại các khoản 3 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 4 về Thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính), khoản 28 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 54 về Giao quyền xử phạt), khoản 61 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 122 về Tạm giữ người theo thủ tục hành chính), khoản 62 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 123 về Thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính), khoản 63 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 124 về Áp giải người vi phạm). Chính vì vậy, việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định này vào một Nghị định mới để thay thế Nghị định số 112 về tạm giữ người, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng biện pháp trục xuất hành chính là hết sức cần thiết.

Mặt khác, thực tiễn của công tác tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và trục xuất hành chính trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số những khó khăn, vướng mắc, cụ thể như:

Thứ nhất,về các trường hợp được tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính:

Theo báo cáo của Công an các đơn vị, địa phương, tính từ năm 2014 đến năm 2020, số lượt người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính khoảng trên 10.000 lượt, tập trung tại các địa phương như thành phố Hà Nội (4.444 lượt đối tượng); Hà Tĩnh (597 lượt đối tượng); Quảng Ngãi (451 lượt đối tượng); Lạng Sơn; 190 đối tượng (03 tháng đầu năm 2021); Bắc Kạn: 296 đối tượng; Vĩnh Phúc: 316 đối tượng; Kiên Giang: 804 đối tượng; Tây Ninh: 172 đối tượng; Đà Nẵng: 113 đối tượng;…

Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực như: gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới,..;

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều hành vi vi phạm hành chính cần ngăn chặn, đình chỉ ngay như hành vi vi phạm như chống đối người thi hành công vụ, sử dụng trái phép chất ma túy, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất nghi là ma túy, vật liệu nổ, pháo nổ, trộm cắp tài sản dưới 02 triệu đồng, đánh bạc dưới 05 triệu đồng, vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam, người nước ngoài không có giấy tờ tùy thân, không có nơi cư trú ổn định; … lại chưa được hướng dẫn và quy định cụ thể trong Nghị định số 112/2013/NĐ-CP. Điều này đã dẫn đến tình trạng thiếu căn cứ pháp lý để áp dụng các biện pháp này trong thực tiễn, gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra, xác minh, xử lý vi phạm hành chính.

Thứ hai, về áp dụng hình thức xử phạt trục xuất đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam:

Thời gian qua, thực hiện chủ trương, chính sách mở cửa, tăng cường quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quản lý và văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam với mục đích đầu tư, khảo sát thị trường, thăm thân, du lịch... nhằm thu hút các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cụ thể như: cho phép các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cấp thị thực giá trị 15 ngày (thị thực D) cho người nước ngoài có nhu cầu vào Việt Nam, không cần cơ quan, tổ chức trong nước bảo lãnh. Việt Nam đã ký Hiệp định song phương miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao, công vụ với gần 60 nước trên thế giới; đã thực hiện miễn thị thực cho công dân mang hộ chiếu phổ thông với thời hạn cao nhất là 30 ngày đối với hầu hết các nước trong khối ASEAN; mở rộng đơn phương miễn thị thực cho công dân nhiều nước khác… Theo đó, với chính sách thông thoáng, thủ tục nhập cảnh dễ dàng, đơn giản nên số lượng người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam ngày càng tăng, đa dạng về thành phần, với nhiều mục đích khác nhau.

Tuy nhiên, lợi dụng chính sách mở của Nhà nước ta, thời gian gần đây, đã xảy ra tình trạng một số người nước ngoài vào Việt Nam dưới nhiều danh nghĩa khác nhau nhằm mục đích hoạt động phạm tội. Các vụ việc người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam ngày càng gia tăng, thậm chí có nhiều vụ với tính chất rất nghiêm trọng, gây bức xúc trong nhân dân.

Theo báo cáo của Công an các đơn vị, địa phương và các cơ quan thuộc các Bộ, ngành có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục xuất và quản lý người nước ngoài vi phạm hành chính trong thời gian làm thủ tục trục xuất cho thấy, trong gần 10 năm triển khai thi hành Nghị định số 112/2013/NĐ-CP, số đối tượng là người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam bị trục xuất khỏi Việt Nam khoảng hơn 1000 đối tượng (1063 đối tượng/58 tỉnh, thành phố), tập trung chủ yếu tại các địa phương như Bắc Ninh (244 đối tượng); Thành phố Hà Nội (336 đối tượng, trong đó: Hạn chế việc đi lại của người nước ngoài, trục xuất: 149 trường hợp; Chỉ định chỗ ở của người nước ngoài: 76 trường hợp; tạm giữ hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác: 106 trường hợp; bắt buộc lưu trú tại Cơ sở lưu trú số 1 thuộc Bộ Công an: 35 trường hợp); Bộ Quốc phòng: 181 đối tượng; Hải Phòng: 111 đối tượng (chưa kể số lượng đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam được thực hiện bằng phương thức đưa họ trở lại quốc gia mà họ mang quốc tịch, trực tiếp làm việc và tiến hành các thủ tục pháp lý với cơ quan chức năng của nước họ, có vụ việc lên tới hàng trăm người); Lạng Sơn (trong 03 tháng đầu năm 2021) trục xuất 124 đối tượng;.. và đặc biệt tăng trong 03 năm gần đây (2019, 2020, 2021). Các hành vi vi phạm của đối tượng là người nước ngoài tập trung chủ yếu vào những hành vi như: gây rối trật tự công cộng; xuất, nhập cảnh trái phép, cư trú trái phép; vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy; trộm cắp tài sản; sử dụng giấy chứng nhận tạm trú quá thời hạn; vận chuyển, mua bán, lưu hành tiền giả, lừa đảo rút tiền ngân hàng, kinh doanh, hướng dẫn du lịch trái phép, mở cửa cơ sở chữa bệnh trái phép, hoạt động môi giới hôn nhân trái phép,…

Bên cạnh đó, tình trạng người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam đã bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất nhưng cơ quan quản lý đối tượng này không thể tiến hành làm thủ tục trục xuất họ theo đúng thời hạn trục xuất vì một số nguyên nhân như: người bị trục xuất không có điều kiện để hoàn thành các nghĩa vụ về dân sự, kinh tế, hành chính theo quy định; không có giấy tờ hoặc không mang theo giấy tờ tùy thân; sử dụng giấy chứng nhận tạm trú quá thời hạn mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép; không xác định được quốc tịch của người nước ngoài bị trục xuất; hướng dẫn về quản lý, sử dụng kinh phí phục vụ cho công tác trục xuất hoặc buộc xuất, nhập cảnh; việc tiến hành thủ tục trục xuất đối với các trường hợp bị trục xuất cần chăm sóc y tế, mất năng lực hành vi dân sự; các cơ sở lưu trú chưa thực sự được quan tâm, chú trọng về cơ sở vật chất cũng như kinh phí phục vụ cho công tác trục xuất hoặc buộc xuất cảnh,…

Thứ ba, về thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính:

Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP, việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính được thực hiện theo các hình thức sau: (1) gây rối trật tự công cộng; (2) Gây thương tích cho người khác; (3) Khi cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; (4) Khi cần ngăn chặn người có hành vi vi phạm quy định tại Khoản 5 Điều 12 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/2/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Theo đó, thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính là không quá 12 giờ, trường hợp cần thiết có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 24 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm theo quy định tại Khoản 3 Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.

Tuy nhiên, thực tế của việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính cho thấy, có rất nhiều trường hợp vi phạm cần xác minh, làm rõ nhân thân, chứng cứ và hồ sơ liên quan đến đối tượng vi phạm nhưng thời hạn tạm giữ như quy định nêu trên là không đủ để các cơ quan chức năng tiến hành các thủ tục cần thiết, gây nhiều khó khăn cho các lực lượng có thẩm quyền tạm giữ người theo t hủ tục hành chính trong việc quản lý đối tượng vi phạm cũng như áp dụng các biện pháp xử lý thay thế khác.

Tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và trục xuất là những biện pháp ngăn chặn, chế tài xử phạt hành chính có tính cưỡng chế cao; khi áp dụng khá nhạy cảm vì liên quan đến việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền tự do thân thể của công dân, đặc biệt là liên quan đến đối tượng là người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật hành chính, bị buộc phải trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 chỉ quy định mang tính nguyên tắc đối với các biện pháp nói trên, nên để bảo đảm quy định của Luật được thi hành trên thực tế, Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết thi hành.

Vì vậy, để bảo đảm cho việc tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng hình thức xử phạt trục xuất được thực hiện theo đúng quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020, bảo đảm tính khả thi, nâng cao hiệu quả của việc xử lý vi phạm hành chính và nằm tăng cường tác dụng răn đe, giáo dục người vi phạm thì việc ban hành Nghị định quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuấtlà cần thiết.

- Mục đích ban hành

+ Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc xử phạt trục xuất, tạm giữ người, áp giải người theo thủ tục hành chính bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.

+ Kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành các quy định pháp luật liên quan đến việc trục xuất, tạm giữ người, áp giải người vi phạm hành chính; đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 06 chương, với 45 điều, cụ thể như sau:

Chương I. Quy định chung

Chương này gồm 04 điều (từ Điều 1 đến Điều 4), quy định về Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng; Nguyên tắc áp dụng và Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng hình thức xử phạt trục xuất.

Chương II. Xử phạt trục xuất và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất

Chương này gồm 11 điều (từ Điều 5 đến Điều 15), quy định về đối tượng áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; quyền, nghĩa vụ của người bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; hồ sơ đề nghị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; thi hành Quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; Hoãn thi hành Quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; hồ sơ áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất;chế độ đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất;trách nhiệm của Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an.

Chương III. Tạm giữ người theo thủ tục hành chính

Chương này gồm 14 điều (từ Điều 16 đến Điều 29), quy định tạm giữ người theo thủ tục hành chính; thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính; thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính; quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính; kéo dài thời hạn tạm giữ; hủy bỏ áp dụng biện pháp tạm giữ người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; nơi tạm giữ; thông báo quyết định tạm giữ; tiếp nhận người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; quản lý người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; giao, nhận người có hành vi vi phạm hành chính; quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ; chế độ ăn uống của người bị tạm giữ; người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính bị bệnh hoặc chết trong thời gian tạm giữ.

Chương IV. Áp giải người theo thủ tục hành chính

Chương này gồm 06 điều (từ Điều 30 đến Điều 35), quy định về áp giải người vi phạm; thực hiện việc áp giải; thủ tục áp giải; giao nhận người bị áp giải; biên bản giao, nhận người bị áp giải; xử lý một số tình huống trong khi áp giải.

Chương V. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân

Chương này gồm 08 điều (từ Điều 36 đến Điều 43), quy định về trách nhiệm của các bộ: Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Chương VI. Điều khoản thi hành

Chương này gồm 02 điều (Điều 44 và Điều 45),quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành.

27. Nghị định số 143/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 88/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 11 năm 2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng

a) Hiệu lực thi hành: Nghị định số 143/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 67/2020/QH14 đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 13/11/2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022 với nhiều nội dung mới như: quy định cụ thể về nguyên tắc xử phạt đối với từng hành vi trong trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”, bổ sung quy định giao Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện… Vì vậy, các nội dung liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng được quy định tại Nghị định số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng (sau đây gọi tắt là Nghị định 88) phải được cập nhật, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với Luật số 67/2020/QH14.

- Sau hơn 01 năm triển khai thực hiện thi hành Nghị định 88, bên cạnh những kết quả đạt được, Nghị định 88 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như:

+ Một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan mới ban hành đòi hỏi phải rà soát để sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm hành chính;

+ Mức xử phạt đối với một số hành vi vi phạm hành chính còn thấp, chưa mang tính răn đe, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và khuyến nghị của Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng chống rửa tiền (APG), cụ thể như sau: Theo đánh giá của APG đối với cơ chế phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố của Việt Nam, đặc biệt là đánh giá tính tuân thủ và tính hiệu quả việc thực hiện Khuyến nghị 35 trên thực tế: Hình phạt không đảm bảo tính răn đe, dẫn đến hành vi vi phạm có thể sẽ được lặp lại, mục đích xử phạt không đạt được. Theo thông lệ quốc tế tại một số nước, mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền; phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt khá cao .

c) Nội dung chủ yếu: Nghị định số 143/2021/NĐ-CP gồm một số nội dung cơ bản sau đây:

- Về hành vi vi phạm hành chính nhiều lần là tình tiết tăng nặng: Nghị định quy định xử phạt về từng hành vi vi phạm để tăng tính răn đe, hạn chế vi phạm xảy ra đối với một số hành vi sau đây: (i) vi phạm quy định về Giấy phép do NHNN cấp; (ii) vi phạm quy định về quản trị điều hành; (iii) vi phạm quy định về cản trở việc thanh tra, không thực hiện yêu cầu của người có thẩm quyền; (iv) vi phạm quy định về an toàn công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng. Đối với các hành vi vi phạm khác tại Chương II Nghị định 88, áp dụng xử phạt theo tình tiết tăng nặng nhằm hướng dẫn điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung).

- Về hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện: Nghị định quy định cụ thể về thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi vi phạm quy định tại Chương II Nghị định 88 theo 05 nhóm như sau: (i) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày các bên hoàn thành nghĩa vụ theo thỏa thuận, hợp đồng liên quan đến hành vi vi phạm hành chính; (ii) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày thực hiện niêm yết công khai, cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo, sửa đổi, bổ sung thông tin, tài liệu, báo cáo; (iii) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày thực hiện đăng ký, thông báo, thực hiện thủ tục hành chính, gửi, ban hành, sửa đổi, bổ sung quy định nội bộ, nội quy, phương án; (iv) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày thực hiện đúng tỷ lệ bảo đảm an toàn, phân loại tài sản có, cam kết ngoại bảng, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng dự phòng rủi ro theo quy định của pháp luật; (v) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày NHNN chấp thuận bằng văn bản (Điều 2b).

- Về nâng mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm cụ thể: Nghị định nâng mức phạt tiền và bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm quy định về phòng, chống rửa tiền; phòng, chống tài trợ khủng bố với khoảng chênh lệch giữa mức xử phạt tối thiểu và mức xử phạt tối đa là 50.000.000 đồng hoặc 100.000.000 đồng tùy từng hành vi vi phạm hành chính.

- Về sửa đổi, bổ sung một số hành vi vi phạm hành chính cụ thể: Căn cứ quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung) và các văn bản hướng dẫn thi hành, trên cơ sở trách nhiệm, nghĩa vụ và điều cấm tại các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành từ khi Nghị định 88 có hiệu lực thi hành đến nay, Nghị định đã sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số hành vi vi phạm hành chính đồng thời, căn cứ tính chất vi phạm đặc thù để quy định tại dự thảo Nghị định với mức xử phạt phù hợp.

- Về thẩm quyền, phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính : Nghị định bổ sung Điều 54a, 54b, 54c, 54d, 54đ, 54e, 54g, 54h vào sau Điều 54 Nghị định 88 về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh thuộc lực lượng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.

28. Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình

a) Hiệu lực thi hành:Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết ban hành

Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình được ban hành đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tạo hành lang pháp lý hữu hiệu để đảm bảo công tác xử lý, xử phạt vi phạm hành chính; đồng thời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực an ninh, trật tự, như: Bộ luật hình sự năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, Luật Công an nhân dân năm 2018, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020; Luật Cư trú năm 2020; Luật Căn cước công dân năm 2014; Luật Đầu tư năm 2020; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019; Luật Phòng, chống ma túy năm 2021; Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2019; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; Luật Thi hành án hình sự năm 2019… theo đó, một số chức danh có thẩm quyền xử phạt đã không còn được quy định hoặc thay đổi về tên gọi, nhiều hành vi vi phạm hành chính, mức xử phạt quy định tại Nghị định số 167/2013/NĐ-CP cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật mới này nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Bên cạnh đó, qua thực tiễn tổ chức thực hiện Nghị định số 167/2013/NĐ-CP đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, cụ thể như: một số hành vi chưa được quy định trong Nghị định hoặc quy định chưa rõ ràng, cụ thể gây khó khăn, lúng túng trong công tác xử lý vi phạm hành chính; nhiều hành vi vi phạm mức phạt tiền còn thấp, chưa có hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả nên tính răn đe, giáo dục còn hạn chế.

- Mục đích ban hành

Bảo đảm sự phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, bảo đảm tính thống nhất của Nghị định trong hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan và phù hợp với các Điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Thể chế hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nói chung nhằm góp phần tạo môi trường an toàn, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.

Bảo đảm việc xử phạt nghiêm minh nhưng có tính khả thi, hiệu quả và phù hợp với thực tế; góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả trong xử phạt vi phạm hành chính, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

c) Nội dung chủ yếu:Nghị định đã quy định chi tiết một số nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính như đối tượng áp dụng, hình thức xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; các hành vi vi phạm hành chính, mức phạt tiền cơ bản kế thừa các quy định hiện hành, còn phù hợp của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP đã được thực hiện ổn định. Bên cạnh đó, Nghị định đã sửa đổi, bổ sung một số hành vi vi phạm hành chính trên cơ sở quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, Luật Công an nhân dân năm 2018, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020; Luật Cư trú năm 2020; Luật Căn cước công dân năm 2014; Luật Đầu tư năm 2020; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019; Luật Phòng, chống ma túy năm 2021; Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2019; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; Luật Thi hành án hình sự năm 2019,...; sửa đổi các hành vi vi phạm và loại bỏ một số hành vi không còn phù hợp với các quy định mới của pháp luật. Một số quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính về nguyên tắc xử phạt, thủ tục xử phạt, thi hành quyết định xử phạt, giao quyền xử phạt được Nghị định quy định dẫn chiếu Luật để thực hiện. Trên cơ sở đó, Nghị định đã quy định như sau:

Chương I - Những quy định chung

Chương này gồm các quy định chung của Nghị định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả; quy định về mức phạt tiền; tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính; nguyên tắc xử phạt đối với hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể;thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính; nguyên tắc áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính thủ tục xử phạt đối với những hành vi đồng thời được quy định trong Bộ luật Hình sự. Trong đó:

- Bổ sung quy định cụ thể các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Nghị định.

- Bổ sung quy định cụ thể các tổ chức bị xử phạt theo quy định tại Nghị định.

- Bổ sung 01 Điều quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính; trong đó đã xác định cụ thể hành vi đã kết thúc và hành vi đang diễn ra.

- Bổ sung 01 Điều quy định về nguyên tắc áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính.

- Bổ sung 01 Điều quy định về thủ tục xử phạt đối với những hành vi đồng thời được quy định trong Bộ luật hình sự.

Chương II - Hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả

Chương này quy định cụ thể hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, cụ thể:

- Mục 1: Vi phạm hành chính về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi: Vi phạm quy định về trật tự công cộng; vi phạm quy định về bảo đảm sự yên tĩnh chung; Vi phạm quy định về giữ gìn vệ sinh chung; vi phạm quy định về đăng ký và quản lý cư trú; Vi phạm quy định về cấp, quản lý, sử dụng Giấy chứng minh nhân dân, Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân; Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ,công cụ hỗ trợ, pháo vàđồ chơi nguy hiểm bị cấm; Vi phạm các quy định về quản lý ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; Vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng con dấu; Vi phạm các quy định về thi hành án hình sự, thi hành các biện pháp xử lý hành chính; Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác; Vi phạm quy định về họ, hụi, biêu, phường; Vi phạm quy định về bảo vệ các công trình công cộng, công trình an ninh, trật tự; Vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại; Vi phạm quy định về bảo vệ bí mật nhà nước; Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng trang phục, cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu dành riêng cho lực lượng Công an nhân dân; Hành vi cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ; Vi phạm quy định về xây dựng, quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu Căn cước công dân.

- Mục 2: Vi phạm hành chính về phòng, chống tệ nạn xã hội, quy định xử phạt vi phạm hành chính về phòng, chống và kiểm soát ma tuý; hành vi mua dâm; hành vi bán dâm; hành vi khác có liên quan đến mua dâm, bán dâm; hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm; hành vi đánh bạc trái phép.

- Mục 3: Vi phạm hành chính về phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ, quy định xử phạt vi phạm hành chính về: Vi phạm quy định trong việc ban hành, phổ biến và thực hiện nội quy, biển báo, biển cấm, sơ đồ, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định về kiểm tra an toàn phòng cháy và chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm về hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy và chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong quản lý, bảo quản và sử dụng chất, hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ; Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong sản xuất, kinh doanh chất, hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ; Vi phạm quy định trong vận chuyển chất, hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ; Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong quản lý, sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt hoặc các thiết bị điện tử; Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong lắp đặt, quản lý, sử dụng điện; Vi phạm quy định về an toàn phòng cháy và chữa cháy trong thi công, kiểm tra, bảo trì hệ thống chống sét; Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong đầu tư, xây dựng; Vi phạm quy định về khoảng cách an toàn phòng cháy và chữa cháy và ngăn cháy; Vi phạm quy định về thoát nạn trong phòng cháy và chữa cháy; Vi phạm quy định về phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định về thông tin báo cháy, sự cố tai nạn; Vi phạm quy định về khai báo cơ sở dữ liệu về phòng cháy và chữa cháy và truyền tin báo sự cố; Vi phạm quy định về trang bị, bảo quản và sử dụng phương tiện phòng cháy và chữa cháy; Vi phạm quy định về công tác chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định về tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiến thức và huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định về thành lập, tổ chức quản lý đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở, đội phòng cháy và chữa cháy chuyên ngành; Vi phạm quy định về kinh doanh dịch vụ phòng cháy và chữa cháy; Vi phạm quy định về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; Vi phạm quy định về phòng, chống cháy, nổ tại hộ gia đình; Vi phạm trong việc để xảy ra cháy, nổ.

- Mục 4: Vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, quy định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình; hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình; hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình; hành vi cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý; hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng; hành vi bạo lực về kinh tế; hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ; hành vi bạo lực đối với người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình; hành vi cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình; hành vi cố ý không ngăn chặn, báo tin hành vi bạo lực gia đình và cản trở việc ngăn chặn, báo tin, xử lý hành vi bạo lực gia đình; hành vi sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động hành vi bạo lực gia đình; vi phạm quy định về tiết lộ thông tin về nạn nhân bạo lực gia đình; hành vi lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi; vi phạm quy định về đăng ký hoạt động đối với cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; vi phạm quy định về quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

Chương III - Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Chương này quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, của Công an nhân dân, và thẩm quyền xử phạt hành chính của các cơ quan khác. Nghị định đã sửa đổi, bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt cho phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020, Luật Công an nhân dân năm 2018 và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Chương IV - Điều khoản thi hành

Chương này quy định về hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp; trách nhiệm thi hành của Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc và tổ chức thực hiện Nghị định này; trách nhiệm của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành Nghị định này.

29. Quyết định số 37/2021/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước

a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 02 năm 2022 và thay thế Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg ngày 26 tháng 12 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết:

Để phù hợp với Luật Bảo vệ bí mật nhà nước

Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (sau đây gọi là Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg) tại thời điểm ban hành đã đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của pháp luật chung. Tuy nhiên năm 2018, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước đã được Quốc hội khoá XIV thông qua, thay thế Pháp lệnh về bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 với một số nội dung sửa đổi, bổ sung mới. Do đó, một số điểm của Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg hiện không còn đồng bộ, thống nhất với Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, cần phải được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.

Giải quyết một số vấn đề bất cập trong thực tiễn

Trong 05 năm qua, việc cung cấp dịch vụ bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (sau đây gọi là dịch vụ bưu chính KT1) được thực hiện thống nhất, rộng khắp trên cả nước qua Mạng bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (sau đây gọi là Mạng bưu chính KT1) do Nhà nước giao cho Cục Bưu điện Trung ương (sau đây gọi tắt là Cục BĐTW) quản lý, điều hành, khai thác.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg đã bộc lộ một số hạn chế cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, cụ thể như sau:

+ Khoản 5 Điều 13 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định "Vận chuyển tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước qua dịch vụ bưu chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về bưu chính". Tuy nhiên, Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg mới chỉ quy định về việc gửi tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước của các cơ quan Đảng, Nhà nước tại Phụ lục I, Phụ lục II của Quyết định này mà chưa quy định cho việc gửi tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước của tổ chức theo quy định của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (cơ quan, tổ chức ngoài Phụ lục I, Phụ lục II ban hành kèm theo Quyết định).

+ Chưa có quy định ưu tiên việc chấp nhận, vận chuyển và phát bưu gửi KT1 theo độ khẩn, độ mật trong trường hợp khẩn cấp để bảo đảm tính “nhanh chóng, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống” theo nguyên tắc hoạt động của Mạng bưu chính KT1.

+ Qua rà soát, một số cơ quan Đảng, Nhà nước ở địa phương chưa có trong đối tượng phục vụ của Mạng bưu KT1 tại Phụ lục II:

* Ở cấp tỉnh: Đảng ủy khối Cơ quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Đảng ủy khối Doanh nghiệp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (do theo cơ cấu tổ chức Đảng cấp địa phương); Bảo hiểm xã hội (do theo cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội tại địa phương); “Hội Nông dân”, “Hội Cựu chiến binh” (do theo cơ cấu của hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương)…

* Ở cấp huyện: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Ban chỉ huy quân sự, Công an, Bảo hiểm xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh…

Tại Phụ lục II cũng chưa có đơn vị hành chính cấp xã và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương, do đó chưa bảo đảm đầy đủ, thống nhất với tên gọi, mục tiêu thiết lập Mạng là phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (ở các cấp).

+ Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 đã bỏ nội dung "người được giao nhiệm vụ tiếp xúc với bí mật nhà nước phải cam kết bảo vệ bí mật nhà nước" quy định tại Điều 18 Pháp lệnh về bảo vệ bí mật nhà nước. Tuy nhiên, tại khoản 4 Điều 6 Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg hiện đang quy định "người người lao động tham gia trực tiếp vào quá trình cung cấp dịch vụ bưu chính KT1" phải "cam kết bảo vệ bí mật nhà nước bằng văn bản".

Từ những lý do nêu trên, việc xây dựng và ban hành Quyết định thay thế Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg là cần thiết nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bưu chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mạng bưu chính KT1, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp thông tin của các cơ quan Đảng, Nhà nước ở trung ương và địa phương.

- Mục đích ban hành:

+ Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

+ Tăng cường công tác bảo đảm bí mật nhà nước; bảo đảm bí mật, an ninh, an toàn, nhanh chóng, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống.

+ Khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn tổ chức thi hành Quyết định; đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nước đối với việc cung cấp và sử dụng dịch vụ bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước.

c) Nội dung chủ yếu:

+ Quy định về nguyên tắc hoạt động của Mạng: (a) Bảo đảm bí mật nhà nước; (b) Bảo đảm bí mật, an ninh, an toàn, nhanh chóng, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống; (c) Thống nhất trong tổ chức, quản lý, vận hành và khai thác; (d) Không vì mục đích kinh doanh.

+ Quy định Đối tượng phục vụ: Đối tượng phục vụ của Mạng bưu chính KT1

+ Quy định Dịch vụ bưu chính KT1

+ Quy định về Bảo đảm an ninh, an toàn trong cung cấp dịch vụ bưu chính KT1

+ Quy định về Chất lượng dịch vụ bưu chính KT1

+ Quy định về Kinh phí bảo đảm hoạt động của Mạng

+ Quy định về Quyền và nghĩa vụ của Cục Bưu điện Trung ương

+ Quy định về Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được chỉ định thực hiện duy trì, quản lý mạng bưu chính công cộng

+ Quy định về Quyền và nghĩa vụ của đối tượng phục vụ

+ Quy định về Vận chuyển tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước

+ Quy định về Trách nhiệm của các Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

30. Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ

a) Hiệu lực thi hành:

+ Quyết định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 02 năm 2022;

+ Quyết định này thay thế Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được ban hành kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Sự cần thiết:

Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia là sở cứ pháp lý quan trọng trong việc quản lý tài nguyên tần số. Đây cũng là sở cứ pháp lý để xây dựng các quy hoạch tần số chi tiết như quy hoạch băng tần, quy hoạch phân kênh tần số, quy hoạch sử dụng kênh tần số. Theo Luật Tần số vô tuyến điện (tại điều 11) đã xác định Quy hoạch này do Thủ tướng Chính phủ ban hành “Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia”.

Ngày 21/11/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 71/2013/ QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia. Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được ban hành phù hợp với Thể lệ thông tin vô tuyến thế giới (sửa đổi sau Hội nghị thông tin vô tuyến thế giới WRC-12) và đáp ứng nhu cầu sử dụng tần số vô tuyến điện tại Việt Nam. Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia ra đời đã góp phần thúc đẩy phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực thông tin vô tuyến điện và định hướng cho việc sử dụng thiết bị vô tuyến điện của các Bộ, ngành, doanh nghiệp, đáp ứngcác nhu cầu về thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Ngày 17/01/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg về sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia ban hành kèm theo Quyết định 71/2013/QĐ-TTg ngày 21/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg đã sửa đổi, bổ sung các nội dung của Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia trên cơ sở các sửa đổi, bổ sung của Thể lệ thông tin vô tuyến thế giới do Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) ban hành năm 2016 và nhu cầu phát triển của thông tin vô tuyến trong nước.

Hội nghị thông tin vô tuyến thế giới năm 2019 (WRC-19) diễn ra vào tháng 11/2019 đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung Thể lệ thông tin vô tuyến. Tại Việt Nam, trong thời gian qua đã có những thay đổi và nhu cầu mới về sử dụng tần số vô tuyến điện cho các nghiệp vụ Di động (IMT-International Mobile Telecommunication), phát thanh truyền hình, hàng không, hàng hải, vệ tinh và một số nghiệp vụ vô tuyến điện khác. Trên cơ sở đó, để đảm bảo tuân thủ quy định của quốc tế tại Thể lệ thông tin vô tuyến - một phần công ước của Liên minh Viễn thông quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và đáp ứng nhu cầu mới về sử dụng tần số vô tuyến điện đặt ra trong nước, cần phải sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia.

Ngày 03/11/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 163/NQ-CP về việc phê duyệt Văn kiện sửa đổi Thể lệ thông tin vô tuyến thế giới 2019 của Liên minh Viễn thông quốc tế và các tuyên bố bảo lưu của Việt Nam được ký tại Hội nghị Thông tin vô tuyến thế giới 2019.

Tại báo cáo số 137/BCTĐ-BTP ngày 27/9/2021 về việc thẩm định dự thảo Quyết định sửa đổi Quy hoạch phổ, Bộ Tư pháp nhất trí về sự cần thiết và cơ sở pháp lý xây dựng dự thảo Quyết định; trình tự, thủ tục và hồ sơ dự thảo Quyết định đã bảo đảm tuân thủ quy định về việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Như vậy, việc xây dựng Quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là dự thảo Quyết định sửa đổi Quy hoạch phổ) là hết sức cần thiết, nhằm phù hợp với các quy định mới của quốc tế và đáp ứng nhu cầu phát triển thông tin vô tuyến của Việt Nam.

- Mục đích ban hành:

Việc xây dựng dự thảo Quyết định sửa đổi Quy hoạch phổ nhằm: (1) định hướng phát triển cho lĩnh vực thông tin vô tuyến điện theo hướng hiện đại, đồng bộ và ổn định lâu dài, phù hợp với xu hướng phát triển của quốc tế, đáp ứng các nhu cầu về thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; (2) thúc đẩy phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực thông tin vô tuyến điện, là cơ sở để các Bộ, ngành, các tổ chức và cá nhân định hướng trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển, sản xuất, kinh doanh, lắp đặt và khai thác các thiết bị vô tuyến điện trên lãnh thổ Việt Nam.

c) Nội dung chủ yếu: Quyết định có 02 nhóm nội dung chính, bao gồm:

- Sửa đổi một số nội dung tại Điều 5 Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21/11/2013 quy định về trách nhiệm của Bộ TTTT, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng để đảm bảo thống nhất, đồng bộ với quy định của Luật Tần số VTĐ năm 2009

- Sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại Điều 9 Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được ban hành kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐTTg được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg

- Sửa đổi, bổ sung Bảng phân chia phổ tần số vô tuyến điện và một số quy định về điều kiện sử dụng băng tần chung của ITU theo kết quả Hội nghị WRC-19

- Sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều kiện sử dụng băng tần cho các nghiệp vụ vô tuyến điện riêng của Việt Nam.

+ Bổ sung Chú thích VTN24 để xác định băng tần 24,25-27,5 GHz cho IMT và định hướng các băng tần 37-43,5 GHz, 45,5-47 GHz, 47,2-48,2 GHz, 66-71 GHz được sử dụng cho IMT theo kết quả Hội nghị thông tin vô tuyến thế giới WRC-19

+ Bổ sung Chú thích VTN25 để xác định băng tần sử dụng cho hệ thống Phát tin an toàn hàng hải kỹ thuật số (NAVDAT)

+ Bổ sung Chú thích VTN26 để xác định tần số sử dụng cho thiết bị Hàng hải hoạt động độc lập (AMRD)

+ Bổ sung băng tần 845-851 MHz vào danh sách các băng tần được xác định sử dụng cho IMT tại Chú thích VTN8 để làm cơ sở xây dựng các quy hoạch chi tiết cho băng tần 800/850 MHz

+ Bổ sung Chú thích VTN27 để định hướng sử dụng băng tần 600 MHz cho IMT

+ Điều chỉnh băng tần cho vệ tinh từ 3400-3700 MHz về 3400-3560 MHz tại Chú thích VTN16 và bổ sung Chú thích VTN16A xác định băng tần 3560-4000 MHz được sử dụng cho IMT

+ Cập nhật điều kiện sử dụng băng tần 700 MHz cho IMT tại Chú thích VTN7 sau khi hoàn thành Đề án số hóa truyền hình

+ Sửa đổi quy định sử dụng băng tần 87-108 MHz cho hệ thống truyền thanh không dây tại Chú thích VTN3A để phù hợp nhu cầu sử dụng thực tế

+ Sửa đổi Chú thích VTN5C để phù hợp với quy định quốc tế và thực tế sử dụng băng tần của hệ thống Vô tuyến định vị

+ Bãi bỏ quy định sử dụng băng tần 450-470 MHz cho IMT tại Chú thích VTN6A để phù hợp nhu cầu sử dụng thực tế

+ Bãi bỏ quy định tại Chú thích VTN4 sau khi hoàn thành Đề án số hóa truyền hình mặt đất.

31. Quyết định số 39/2021/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025

a) Hiệu lực thi hành:Quyết định có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2021.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:

- Cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn ban hành: Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu sốvà miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Nghị quyết số 973/2020/UBTVQH14 ngày 08 tháng 7 năm 2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về các nguyên tắc,tiêu chívà định mức phân bổvốn đầu tư công nguồn ngân sách nhànước giai đoạn 2021 - 2025.

- Mục đích của việc banhành văn bản quy phạm pháp luật: Làm căn cứ để lập kế hoạch đầu tư trung hạn và hằng năm nguồn ngân sách nhà nước của Chương trình cho các cấp, các ngành và đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhànước.

c) Nội dung chủ yếu: Quy định về nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025:

Bao gồm: 8 điều; nội dung chủ yếu của văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; nguyên tắc phân bổ vốn; nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách Trung ương trung hạn và hằng năm; tiêuchí, định mức và phương pháp phân bổ nguồn vốn ngân sách trung ương; quy định tỷ lệ vốnđốiứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình; danh mục10 phụ lục kèm theo.

32.Quyết định số 40/2021/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước

a) Hiệu lực thi hành:Quyết định có hiệu lực từ ngày 21 tháng 02 năm 2022.

Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước hết hiệu lực kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành.

b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Thực hiện theo quy định Khoản 3 Điều 66 Luật số 69/2020/QH14 ngày 13/11/2020 về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

c) Nội dung chủ yếu:Quyết định gồm 5 chương và 26 Điều, cụ thể như sau:

- Chương I. Quy định chung (gồm Điều 1 và Điều 2) về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Quyết định;

- Chương II. Quy định thành lập, tổ chức hoạt động, quản lý Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước (từ Điều 3 đến Điều 6) bao gồm các nội dung về cơ cấu tổ chức quản lý Quỹ; địa vị pháp lý của Quỹ; nguyên tắc hoạt động, quản lý tài chính, tài sản, chế độ kế toán, kiểm toán và công khai tài chính của Quỹ;

- Chương III. Mức đóng góp Quỹ của doanh nghiệp và người lao động (gồm Điều 7 và Điều 8) quy định cụ thể về mức đóng góp Quỹ của người lao động và doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

- Chương IV. Nội dung chi và mức chi đối với các nhiệm vụ của Quỹ (từ Điều 9 đến Điều 23) quy định nguyên tắc hỗ trợ, mức hỗ trợ, hồ sơ và thủ tục hỗ trợ cho người lao động, doanh nghiệp dịch vụ; nguyên tắc và nội dung hỗ trợ các hoạt động liên quan trực tiếp đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; nội dung và mức chi quản lý Quỹ;

- Chương V. Tổ chức thực hiện (từ Điều 24 đến Điều 26) quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan, các nội dung đảm bảo thực hiện trong giai đoạn chuyển tiếp và hiệu lực thi hành.

* Phạm vi điều chỉnh:

- Quy định việc thành lập, tổ chức hoạt động, quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước

- Mức đóng góp vào Quỹ của doanh nghiệp và người lao động;

- Nội dung chi và mức chi đối với các nhiệm vụ của Quỹ quy định tại Điều 67 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

* Đối tượng áp dụng:

- Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

- Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, hoạt động, quản lý, đóng góp và sử dụng Quỹ.

* Các nội dung chủ yếu:

- Về cơ chế hoạt động và cơ cấu tổ chức quản lý Quỹ: Quỹ hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư.

- Cơ cấu tổ chức bao gồm: Hội đồng quản lý và Cơ quan điều hành Quỹ.

- Về nguồn hình thành Quỹ, gồm: đóng góp Quỹ của người lao động là 100.000 đồng/lao động/hợp đồng; đóng góp Quỹ của doanh nghiệp là 150.000 đồng/lao động/hợp đồng. Ngoài nguồn thu đóng góp của người lao động và doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Quỹ được bổ sung nguồn thu từ đầu tư của Quỹ và tiếp nhận các khoản viện trợ, hỗ trợ hợp pháp khác. Phương thức đầu tư của Quỹ là sử dụng tối đa 50% số kết dư Quỹ năm trước liền kề để gửi có kỳ hạn tại ngân hàng thương mại Việt Nam.

- Về nội dung và mức hỗ trợ từ Quỹ: Quyết định quy định cụ thể các trường hợp hỗ trợ cho người lao động, hình thức hỗ trợ và mức hỗ trợ. Hồ sơ, thủ tục đề nghị hỗ trợ của người lao động được quy định đơn giản, dễ thực hiện cho người lao động. Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong hoạt động khai thác, phát triển thị trường mới, mở rộng và ổn định thị trường lao động ngoài nước, hoặc giải quyết vụ việc phức tạp, nghiêm trọng liên quan đến tính mạng, nhân phẩm, tài sản hợp pháp của người lao động hoặc hỗ trợ đưa thi hài, di hài của người lao động bị chết về nước. Bên cạnh đó, Quỹ hỗ trợ các hoạt động liên quan trực tiếp đến người lao động như các hoạt động thông tin, tuyên truyền về thị trường lao động ngoài nước, chính sách, quy định, pháp luật của nước tiếp nhận lao động, pháp luật của Việt Nam về người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chính sách hỗ trợ từ Quỹ; Hỗ trợ xây dựng và duy trì cổng thông tin điện tử của Quỹ, sàn giao dịch việc làm ngoài nước trực tuyến cho người lao động có nhu cầu tìm hiểu, đăng ký đi làm việc ở nước ngoài và tìm kiếm việc làm sau khi về nước; thiết lập và duy trì hoạt động của tổng đài điện thoại tư vấn cho người lao động.

- Về tổ chức thực hiện: Quyết định quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Cơ quan lao động - Thương binh và Xã hội thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý và hỗ trợ hoạt động của Quỹ; trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và cơ quan, tổ chức có liên quan.

Trên đây là Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 12 năm 2021, Bộ Tư pháp xin thông báo./.

 

[1]Quy định tại khoản 1, Điều 20; khoản 1 Điều 27; khoản 1 Điều 41; khoản 1 Điều 48; khoản 1 Điều 55.

[2] Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; Nghị định số 03/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 về kinh doanh casino, Nghị định số 06/2017/NĐ-CP ngày 24/01/2017 về kinh doanh đặt cược đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 175/2016/NĐ-CP ngày 30/12/2016 và Nghị định số 151/2018/NĐ-CP ngày 07/11/2018)

 

Nơi nhận:

- Bộ trưởng (để báo cáo);

- Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tịnh (để báo cáo);

- Văn phòng Chính phủ;

- Cổng Thông tin điện tử Chính phủ;

- Báo Điện tử Chính phủ;

- Cục CNTT Bộ Tư pháp (để đăng tải);

- Báo Pháp luật Việt Nam (để đăng tải);

- Lưu: VT, VP (TT).

TL. BỘ TRƯỞNG

CHÁNH VĂN PHÒNG

(Đã ký)

 

Nguyễn Quốc Hoàn

 

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH
Bản đồ nước CHXHCN Việt Nam
© Cổng TTĐT Chính phủ
Trang tin Thủ tướng Chính phủ Trang tin Thủ tướng Chính phủ
Các trang thành phần
  • Trang thông tin doanh nghiệp Trang thông tin doanh nghiệp
  • Giải đáp chính sách Online Giải đáp chính sách Online
  • Chuyên trang Thủ đô Hà Nội Chuyên trang Thủ đô Hà Nội
  • Chuyên trang Thành phố Hồ Chí Minh Chuyên trang Thành phố Hồ Chí Minh
  • Diễn đàn Cạnh tranh quốc gia Diễn đàn Cạnh tranh quốc gia
  • Tiếng chuông Tiếng chuông
Cổng thông tin điện tử Chính phủ

© Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Tổng Giám đốc: Nguyễn Hồng Sâm

Trụ sở: 16 Lê Hồng Phong - Ba Đình - Hà Nội.

Điện thoại: Văn phòng: 080 43162; Fax: 080.48924

Email: thongtinchinhphu@chinhphu.vn

Bản quyền thuộc Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Giới thiệu Cổng thông tin điện tử Chính phủ

Giới thiệu
Cổng TTĐT
Chính phủ

Thư điện tử công vụ Chính phủ

Thư điện tử công vụ Chính phủ

Liên hệ

Liên hệ

Sơ đồ cổng TTĐT Chính phủ

Sơ đồ
Cổng TTĐT
Chính phủ

Tải ứng dụng:

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Cổng TTĐT Chính phủ tại AppStore
Cổng TTĐT Chính phủ tại GoogleStore

Ghi rõ nguồn 'Cổng Thông tin điện tử Chính phủ' hoặc 'www.chinhphu.vn' khi phát hành lại thông tin từ các nguồn này.