Tình hình kinh tế - xã hội tháng 02 năm 2015
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa và rau màu vụ đông xuân. Tính đến trung tuần tháng Hai, cả nước gieo cấy được 2387,4 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 92% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 479,3 nghìn ha, bằng 73,9%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1908,1 nghìn ha, bằng 98%.
Tại các địa phương phía Bắc, do ảnh hưởng của các đợt rét đậm, rét hại nên tiến độ gieo cấy lúa đông xuân năm nay chậm hơn so với năm trước. Riêng diện tích gieo cấy vùng Đồng bằng sông Hồng ước tính đạt 84,8 nghìn ha, chỉ bằng 41,2% cùng kỳ năm trước, trong đó một số địa phương có diện tích gieo cấy giảm nhiều: Hải Dương bằng 29,7%; Hà Nội bằng 12,2%; Bắc Ninh bằng 10,8%.
Các địa phương phía Nam đã cơ bản kết thúc gieo cấy lúa đông xuân. Do một phần diện tích lúa trên chân ruộng kém hiệu quả được chuyển sang trồng cây ăn quả và cây hàng năm khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nên diện tích lúa đông xuân tại một số địa phương phía Nam giảm so với cùng kỳ: Ninh Thuận giảm 19,9% (3,1 nghìn ha); Bình Thuận giảm 7,6% (2,7 nghìn ha); Tiền Giang giảm 2,9% (2,2 nghìn ha); Đồng Tháp giảm 1,3% (2,6 nghìn ha). Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trà lúa chính vụ đang trong giai đoạn đẻ nhánh làm đòng, phần diện tích lúa đông xuân sớm cho thu hoạch là 319,6 nghìn ha, tăng 37,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân, tính đến thời điểm trên, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 247,4 nghìn ha ngô, bằng 98,3% cùng kỳ năm 2014; 58,2 nghìn ha khoai lang, bằng 100%; 395,4 nghìn ha rau đậu, bằng 101,6%.
Chăn nuôi trong nước chủ yếu tập trung vào việc đầu tư, chăm sóc và tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm để bảo đảm nguồn thực phẩm tiêu dùng trong dịp tết Nguyên đán. Ước tính đàn bò trong tháng tăng khoảng 1,5% so với cùng kỳ năm 2014; đàn lợn tăng 2,5%; đàn gia cầm tăng 3%.
Tính đến thời điểm 24/02/2015, cả nước không còn tỉnh nào có dịch lợn tai xanh; dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày còn ở Sóc Trăng; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày còn ở Bắc Kạn.
Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào việc trồng rừng, chăm sóc cây giống và thực hiện các công việc chuẩn bị cho trồng rừng vụ xuân 2015. Trong hai tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước tính đạt 1258 ha, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 26,1 triệu cây, tăng 0,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 728 nghìn m3, tăng 8,3%; sản lượng củi khai thác đạt 3,1 triệu ste, tăng 0,3%.
Thời tiết đang vào mùa khô hạn nên công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng được các địa phương tích cực quan tâm. Trong tháng Hai, diện tích rừng bị thiệt hại là 8,1 ha, trong đó diện tích bị cháy 4,3 ha; diện tích bị chặt phá 3,8 ha. Tính chung 2 tháng đầu năm, diện tích rừng bị thiệt hại là 49,9 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 25,6 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 24,3 ha.
Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Hai ước tính đạt 380,6 nghìn tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 295,3 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 28,7 nghìn tấn, giảm 0,7%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 143,6 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 110,3 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 16,8 nghìn tấn, giảm 2,9%. Sản lượng cá tra ước tính đạt 80 nghìn tấn, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2014 do nhu cầu nhập khẩu cá tra trên các thị trường giảm. Nuôi tôm trong kỳ chủ yếu tập trung vào việc cải tạo diện tích thả nuôi nên sản lượng thu hoạch giảm. Sản lượng tôm sú ước tính đạt 13,2 nghìn tấn, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước; tôm thẻ chân trắng đạt 6,6 nghìn tấn, giảm 9,6%. Một số tỉnh có sản lượng tôm giảm nhiều: Cà Mau tôm sú giảm 5%, tôm thẻ chân trắng giảm 10%; Bạc Liêu tôm sú giảm 1,5%, tôm thẻ chân trắng giảm 49,2%; Bến Tre tôm sú giảm 46,2%.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Hai ước tính đạt 237 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 185 nghìn tấn, tãng 3,5%; sản lượng tôm đạt 11,9 nghìn tấn, tãng 2,6%. Tính chung 2 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản đạt 793 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 331,2 nghìn tấn, tăng 2,3%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 461,8 nghìn tấn, tăng 3,7%.
Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp từ đầu năm nhìn chung ổn định và có dấu hiệu tích cực với cầu trong nước có xu hướng tăng lên. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Hai ước tính tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, giảm 19,2% so với tháng trước do tháng Hai năm nay có nhiều ngày nghỉ Tết Nguyên Đán. Tính chung 2 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 12% so với cùng kỳ năm 2014, cao hơn nhiều mức tăng 5,4% của cùng kỳ năm trước. Trong các ngành công nghiệp, ngành khai khoáng tăng 9%, đóng góp 1,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo tăng 12,9%, đóng góp 9,1 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 13,3%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 6,5%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất 2 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất xe có động cơ tăng 44,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 28,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 26%; sản xuất kim loại tăng 22,4%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 21,1%; dệt tăng 20,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 20,2%. Một số ngành có mức tăng khá là: Sản xuất thiết bị điện tăng 14,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 13,3%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,4%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 9,8%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 9%; khai thác than cứng và than non tăng 8,4%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 8%; sản xuất thuốc lá tăng 7,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 5,5%; sản xuất trang phục tăng 3,6%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 3,3%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 2,5%; sản xuất đồ uống giảm 0,6%.
Chỉ số sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 2 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm 2014: Điện thoại di động tăng 89,3%; ti vi tăng 64,1%; ô tô tăng 52,1%; sắt thép thô tăng 47,6%; thức ăn cho thủy sản tăng 45%; sơn hóa học tăng 33,3%; thép thanh, thép góc tăng 25,8%; giày,dép da tăng 25,6%; thủy sản chế biến tăng 20,8%; xi măng tăng 19,8%; điện sản xuất tăng 13,6%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Thép cán tăng 12,1%; sữa tươi tăng 11,3%; dầu thô tăng 9,7%; than đá tăng 8,4%; thuốc lá điếu tăng 7,2%; phân hỗn hợp (NPK) tăng 1,4%; đường kính tăng 1,2%; sữa bột tăng 0,5%; bia giảm 1,2%; xe máy giảm 4,4%; dầu gội đầu, dầu xả giảm 8,8%; khí hóa lỏng giảm 8,9%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 2 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Thái Nguyên tăng 578,8% (do nhà máy Samsung Electric Thái Nguyên trong quá trình đi vào hoạt động, đẩy mạnh sản xuất); Hải Phòng tăng 16,9%; Quảng Nam tăng 11%; Vĩnh Phúc tăng 10,5%; Quảng Ninh tăng 10,4%; Đà Nẵng tăng 9,4%; Hà Nội tăng 9,4%; Đồng Nai tăng 8,5%; Bình Dương tăng 5,5%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 4,7%; Hải Dương tăng 4,2%; Cần Thơ tăng 4,1%; Bà Rịa Vũng Tàu tăng 2,3%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 01/2015 tăng 3,6% so với tháng trước và tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tháng Một năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 64,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 56,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 42,5%; dệt tăng 32,5%; sản xuất thiết bị điện tăng 23,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 18,8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản phẩm từ cao su và plastic tăng 18,4%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 15,4%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,2%; sản xuất trang phục tăng 4,4%; sản xuất đồ uống giảm 2,4%; sản xuất thuốc lá giảm 11%.
Tại thời điểm 01/02/2015, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,3% so với cùng thời điểm năm 2014, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 10,5%; sản xuất thuốc lá tăng 8,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 6,5%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 5,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 1,7%; sản xuất thiết bị điện giảm 16,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn nhiều mức tăng chung: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 122,3%; sản xuất đồ uống tăng 59,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 56,6%; sản xuất trang phục tăng 31,5%; sản xuất kim loại tăng 22,6%.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/02/2015 tăng 6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 3,7% và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8,7%. Tại thời điểm trên, chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp khai khoáng giảm 3,9% so với cùng thời điểm năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,5%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện tăng 10% và công nghiệp cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,6%.
Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp của các tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn tại thời điểm 01/02/2015 so với cùng thời điểm năm trước như sau: Thái Nguyên tăng 142,9%; Hải Dương tăng 10,5%; Đồng Nai tăng 6,8%; Quảng Nam tăng 5,5%; Hải Phòng tăng 4,6%; Vĩnh Phúc tăng 3,8%; Quảng Ngãi tăng 3,1%; Bà Rịa Vũng Tàu tăng 3,7%; Đà Nẵng tăng 2,7%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,9%; Cần Thơ tăng 1,4%; Hà Nội tăng 1,1%.
Tình hình hoạt động của doanh nghiệp [1]
Trong tháng Hai, cả nước có 6899 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 45,8 nghìn tỷ đồng, tăng 0,47% về số doanh nghiệp và tăng 44,6% về số vốn đăng ký so với tháng trước. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp mới thành lập trong tháng đạt 6,6 tỷ đồng, tăng 43,5% so với tháng trước. Tổng số lao động của các doanh nghiệp thành lập mới trong tháng là 93,6 nghìn người, giảm 9,5% so với tháng trước.
Trong tháng, cả nước có 1504 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 47,6% so với tháng trước; có 4391 doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động, giảm 55,1%, bao gồm 1471 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 2920 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký; có 1062 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động, tăng 6,9%.
Tính chung 02 tháng đầu năm, cả nước có 13766 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 77,5 nghìn tỷ đồng, tăng 26,6% về số doanh nghiệp và tăng 23,3% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành, lĩnh vực có số doanh nghiệp thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm 2014: Nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 241,0%; kinh doanh bất động sản tăng 88,8%; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 57,9%; tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng 55,4%; xây dựng tăng 50,3%; giáo dục đào tạo tăng 48,9%; vận tải kho bãi tăng 46,3%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác tăng 40,3%; thông tin truyền thông tăng 29,3%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 26,7%. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 02 tháng đạt 5,6 tỷ đồng, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm 2014. Số lao động dự kiến được tạo việc làm của các doanh nghiệp thành lập mới trong 02 tháng là 197,2 nghìn người, tăng 19,0% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 02 tháng đầu năm, cả nước có 2055 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động kinh doanh, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước; 14040 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động, tăng 25,0%, bao gồm 4794 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn; 9246 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký. Trong số các doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động, có 4795 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 28,9% tổng số doanh nghiệp cùng loại); 4720 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 13,4%); 2292 công ty cổ phần (chiếm 10%) và 2233 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 76,5%). Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động là doanh nghiệp quy mô nhỏ với số vốn dưới 10 tỷ đồng.
Trong 02 tháng đầu năm, cả nước có 4376 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2014. Một số lĩnh vực hoạt động có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng cao so với cùng kỳ năm 2014: Giáo dục, đào tạo tăng 39,5%; khai khoáng tăng 46,3%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác tăng 47,3%; kinh doanh bất động sản tăng 52,8%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 68,7%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 115,8%. Đây là tín hiệu tốt của nền kinh tế, thể hiện cơ hội đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp đang có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Hai ước tính đạt 9117 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 1788 tỷ đồng; vốn địa phương 7329 tỷ đồng. Tính chung 2 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 21962 tỷ đồng, bằng 11% kế hoạch năm và tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2014, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 4351 tỷ đồng, bằng 10,7% kế hoạch năm và tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 723 tỷ đồng, bằng 10,5% và tăng 7,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 357 tỷ đồng, bằng 12,5% và giảm 1,7%; Bộ Y tế 171 tỷ đồng, bằng 10,8% và tăng 94,3%; Bộ Xây dựng 152 tỷ đồng, bằng 9,8% và tăng 2%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 83 tỷ đồng, bằng 12,1% và tăng 3,8%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 69 tỷ đồng, bằng 8,1% và giảm 1,4%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 59 tỷ đồng, bằng 10,1% và tăng 11,3%; Bộ Công Thương 42 tỷ đồng, bằng 9,7% và tăng 13,5%; Bộ Khoa học và Công nghệ 32 tỷ đồng, bằng 10,7% và giảm 3,1%; Bộ Thông tin và Truyền thông 24 tỷ đồng, bằng 13,3% và giảm 4%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 17611 tỷ đồng, bằng 11% kế hoạch năm và tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 12514 tỷ đồng, bằng 10,5% và tăng 5,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 4098 tỷ đồng, bằng 12% và giảm 4,8%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 1000 tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm 12%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 2463 tỷ đồng, bằng 12,2% kế hoạch năm và giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; Bà Rịa - Vũng Tàu 884 tỷ đồng, bằng 16,7% và tăng 18,9%; Thành phố Hồ Chí Minh 801 tỷ đồng, bằng 4,2% và giảm 12,1%; Nghệ An 735 tỷ đồng, bằng 19,3% và tăng 3,5%; Cà Mau 541 tỷ đồng, bằng 33,2% và tăng 63%; Thanh Hóa 510 tỷ đồng, bằng 15% và tăng 9,4%; Kiên Giang 508 tỷ đồng, bằng 27,4% và tăng 12,4%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/02/2015 thu hút 148 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 712,3 triệu USD, tăng 21,3% về số dự án và giảm 14,3% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014. Đồng thời có 58 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung với 480,5 triệu USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 1192,8 triệu USD, giảm 22,5% so với cùng kỳ năm 2014. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 2 tháng đầu năm ước tính đạt 1200 triệu USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 2 tháng đầu năm, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút 952 triệu USD từ các nhà đầu tư nước ngoài, chiếm 79,8% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản thu hút 111,4 triệu USD, chiếm 9,3%; các ngành còn lại đạt 129,4 triệu USD, chiếm 10,9%.
Cả nước có 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong 2 tháng đầu năm nay, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với số vốn đăng ký đạt 421,6 triệu USD, chiếm 59,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Vĩnh Phúc 52,4 triệu USD, chiếm 7,4%; Bắc Giang 51,9 triệu USD, chiếm 7,3%; Bình Dương 34,2 triệu USD, chiếm 4,8%; Thanh Hóa 30 triệu USD, chiếm 4,2%.
Trong số 27 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam trong 2 tháng, Quần đảo Virgin thuộc Anh có số vốn đầu tư lớn nhất với 306,4 triệu USD, chiếm 43% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 114,1 triệu USD, chiếm 16%; Xin-ga-po 45,4 triệu USD, chiếm 6,4%; Hoa Kỳ 45,2 triệu USD, chiếm 6,3%; Thái Lan 42,2 triệu USD, chiếm 5,9%...
Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Tháng Hai năm nay là thời điểm Tết Nguyên đán Ất Mùi nên thị trường cung cầu hàng hóa trong nước sôi động, nhu cầu mua sắm cho sản xuất và tiêu dùng tăng cao. Sức mua tăng mạnh ở các mặt hàng lương thực, thực phẩm và một số sản phẩm thiết yếu khác phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân trong dịp Tết.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Hai ước tính đạt 276,2 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2014, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng tăng 11,6%, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt 29,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 237,9 nghìn tỷ đồng, tăng 13%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7%.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng Hai đạt 210,9 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với tháng trước và tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành hàng có mức tăng cao so với tháng trước: Lương thực, thực phẩm tăng 8,9%; hàng may mặc tăng 3,6%. Một số ngành hàng có mức tăng thấp: Phương tiện đi lại tăng 3,2%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 2,9%. Một số địa phương đạt mức doanh thu bán lẻ hàng hóa trong tháng tăng cao so với tháng trước: Quảng Bình tăng 21,2%; Quảng Trị tăng 19,8%; Sơn La tăng 15,3%; Tây Ninh tăng 13,2%, Bình Dương tăng 12,7%; Hà Nội tăng 10,5%; Thanh Hoá tăng 10,3%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 32,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng cao so với tháng trước: Ðiện Biên tăng 51%; Long An tăng 22%; Gia Lai tăng 16%; An Giang tăng 11%; Nghệ An tăng 10%. Một số địa phương có doanh thu giảm nhiều: Lạng Sơn giảm 25,5%; Vĩnh Phúc giảm 22,5%; Hoà Bình giảm 13,4%. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh có mức tăng thấp với 1,8% và Hà Nội giảm 0,8%.
Doanh thu hoạt động du lịch lữ hành đạt 2,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước, giảm 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có tốc độ tăng cao so với tháng trước: Lâm Đồng tăng 41,6%, Đồng Nai tăng 9,5%, Quảng Bình tăng 8,5%, Đà Nẵng tăng 3,2%, An Giang tăng 3,1%; Hà Nội tăng 1,2%.
Doanh thu hoạt động khác đạt 30,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có tốc độ tăng cao so với tháng trước: Quảng Bình tăng 15,5%; Gia Lai tăng 14,8%; Quảng Trị tăng 14%; Thanh Hóa và Quảng Nam cùng tăng ở mức 5%; Hà Tĩnh tăng 3%; Hà Nội tăng 2,8%; Hải Dương tăng 2,4%.
Tính chung 2 tháng đầu năm nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 542,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá tăng 10,7%, cao hơn mức tăng 6,2% của cùng kỳ năm 2014. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 2 tháng của khu vực kinh tế Nhà nước đạt 58,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,7% tổng mức và tăng 2,3%; kinh tế ngoài Nhà nước đạt 467 nghìn tỷ đồng, chiếm 86,1%, tăng 12,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,2% và tăng 11,4%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 2 tháng đầu năm, bán lẻ hàng hóa đạt 413,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,2% tổng mức và tăng 10,6%; dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 64,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8% và tăng 12,5%; du lịch lữ hành đạt 4,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,8% và tăng 0,4%; dịch vụ khác đạt 60,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,2% và tăng 16,5%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Một năm 2015 đạt 13,4 tỷ USD, cao hơn 505 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại các loại và linh kiện cao hơn 245 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 74 triệu USD; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 64 triệu USD; hạt tiêu cao hơn 45 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ cao hơn 39 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai năm nay ước tính đạt 9,6 tỷ USD, giảm 28,4% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 3 tỷ USD, giảm 25,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6,6 tỷ USD, giảm 29,7%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm nhiều so với tháng trước: Cao su giảm 52,7%; sắt thép giảm 39,4%; điện thoại các loại và linh kiện giảm 36,6%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 33,3%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác giảm 32,3%.
Tính chung 02 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 23 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7 tỷ USD, tăng 0,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 16 tỷ USD, tăng 12,4%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 57,1%; hạt tiêu tăng 35,8%; túi xách, vali, mũ, ô dù tăng 32,8%; giày dép tăng 30,4%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác tăng 19,2%; hàng dệt may tăng 17,7%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 15,3% .
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Một năm 2015 đạt 13,8 tỷ USD, cao hơn 366 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 187 triệu USD; điện tử máy tính và linh kiện cao hơn 87 triệu USD; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu cao hơn 56 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Hai năm nay ước tính đạt 9,3 tỷ USD, giảm 32,4% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 3,6 tỷ USD, giảm 32,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,7 tỷ USD, giảm 32,1%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm nhiều: Lúa mỳ giảm 83,5%; khí đốt hóa lỏng giảm 70,9%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu giảm 56,2%; sữa và sản phẩm sữa giảm 56%; bông giảm 54%; phân bón giảm 52,6%; dầu mỡ động thực vật giảm 41,7%; sợi dệt giảm 40,6%; điện thoại các loại và linh kiện giảm 36,7%.
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 02 tháng đầu năm ước tính đạt 23 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9 tỷ USD, tăng 6,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 14 tỷ USD, tăng 23,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước: Ô tô tăng 61,9% (ô tô nguyên chiếc tăng 169,4%); máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng 47,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 31,9%; sản phẩm chất dẻo tăng 27,3%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 26,2%; sản phẩm từ dầu mỏ tăng 22,6%.
Tháng Một năm nay nhập siêu 361 triệu USD, giảm 139 triệu USD so với số ước tính. Tháng Hai xuất siêu ước tính 300 triệu USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 650 triệu USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 950 triệu USD. Nguyên nhân chủ yếu do tháng Hai rơi vào thời gian nghỉ Tết Nguyên đán, hầu hết các doanh nghiệp hoàn thành sớm hợp đồng xuất khẩu nên kim ngạch xuất khẩu ước tính cao hơn nhập khẩu. Tính chung 02 tháng đầu năm, nhập siêu ước tính 61 triệu USD (Cùng kỳ năm 2014, xuất siêu 1,35 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 2,07 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 2,01 tỷ USD.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Hai giảm 0,05% so với tháng trước, chủ yếu do giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh giảm mạnh (Giá xăng giảm 11,54%; giá dầu diezel giảm 11,92%; giá dầu hỏa giảm 10,09%) đã tác động làm giá nhóm giao thông giảm mạnh ở mức 4,41%, đóng góp 0,39% vào mức giảm chung của CPI. Một số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có giá giảm so với tháng trước: Nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,41%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có giá tăng nhẹ so với tháng trước: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,56%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,53% (Lương thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng 0,75%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,19%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,45%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,31%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,05%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%; giáo dục tăng 0,03%. Như vậy, trong 10 năm qua, đây là tháng Tết có chỉ số giá tiêu dùng giảm [2]. Một số nguyên nhân chủ yếu tác động đến giá tiêu dùng tháng Hai giảm: (1) Lạm phát thời gian qua luôn được kiểm soát tốt, kinh tế vĩ mô ổn định; (2) Giá xăng, dầu được điều chỉnh giảm ở mức sâu theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; (3) Công tác bình ổn giá và việc bảo đảm nguồn cung, cầu hàng hóa trên thị trường trong dịp Tết Nguyên đán được thực hiện hiệu quả.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Hai năm nay so với tháng trước của một số địa phương như sau: Hà Nội giảm 0,07%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 0,4%; Thái Nguyên giảm 0,07%; Hải Phòng giảm 0,07%; Thừa Thiên Huế tăng 0,18%; Đà Nẵng giảm 0,22%; Khánh Hòa tăng 0,04%; Gia Lai giảm 0,19%; Vĩnh Long giảm 0.33%; Cần Thơ giảm 0,22%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 02/2015 giảm 0,25% so với tháng 12/2014 và tăng 0,34% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 2 tháng năm nay tăng 0,64% so với bình quân cùng kỳ năm 2014.
Chỉ số giá vàng tháng 02/2015 tăng 2,7% so với tháng trước; tăng 3,26% so với tháng 12/2014 và giảm 0,6% so với cùng kỳ năm 2014. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 02/2015 giảm 0,2% so với tháng trước; tăng 0,03% so với tháng 12/2014 và tăng 1,15% so với cùng kỳ năm 2014.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách 2 tháng đầu năm ước tính đạt 539,8 triệu lượt khách, tăng 6,4% và 24 tỷ lượt khách.km, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2014, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 5,6 triệu lượt khách, tăng 3,7% và 6 tỷ lượt khách.km, tăng 6,3%; vận tải địa phương đạt 534,2 triệu lượt khách, tăng 6,5% và 17,9 tỷ lượt khách.km, tăng 5,1%. Vận tải hành khách đường bộ 2 tháng ước tính đạt 509,5 triệu lượt khách, tăng 6,7% và 17,6 tỷ lượt khách.km, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; đường hàng không đạt 3,3 triệu lượt khách, tăng 3,8% và 5,2 tỷ lượt khách.km, tăng 6,3%; đường sắt đạt 1,8 triệu lượt khách, tăng 3,2% và 0,6 tỷ lượt khách.km, tăng 7,4%; đường biển đạt 0,9 triệu lượt khách, tăng 2% và 42 triệu lượt khách.km, tăng 1,7%.
Vận tải hàng hóa 2 tháng đầu năm ước tính đạt 172,5 triệu tấn, tăng 4,2% và 35,1 tỷ tấn.km, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 168,5 triệu tấn, tăng 4,5% và 14,7 tỷ tấn.km, tăng 5,2%; vận tải ngoài nước đạt 4 triệu tấn, giảm 5% và 20,4 tỷ tấn.km, giảm 0,7%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 133,5 triệu tấn, tăng 4,8% và 7 tỷ tấn.km, tăng 5,9%; đường sông đạt 29,2 triệu tấn, tăng 4,1% và 5,9 tỷ tấn.km, tăng 4,9%; đường biển đạt 8,7 triệu tấn, giảm 3,5% và 21,6 tỷ tấn.km, giảm 0,7%; đường sắt đạt 1 triệu tấn, tăng 12,6% và 0,6 tỷ tấn.km, tăng 13,8%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong 2 tháng đầu năm ước tính đạt 1456,7 nghìn lượt người, giảm 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 1172,7 nghìn lượt người, giảm 7,3%; khách đến bằng đường bộ đạt 270,1 nghìn lượt người, giảm 18,2%; khách đến bằng đường biển đạt 13,9 nghìn lượt người, giảm 39,2%.
Trong 2 tháng đầu năm nay, khách đến nước ta từ châu Á đạt 896,9 nghìn lượt người, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số quốc gia và vùng lãnh thổ có khách đến nước ta giảm nhiều: Trung Quốc 237,1 nghìn lượt người, giảm 40,3%; Cam-pu-chia 57,9 nghìn lượt người, giảm 13,1%; Đài Loan 56,2 nghìn lượt người, giảm 27,4%; Thái Lan 38,4 nghìn lượt người, giảm 11,1%; Ma-lai-xi-a 44,6 nghìn lượt người, giảm 14,8%; Lào 17,7 nghìn lượt người, giảm 18,3%. Một số quốc gia có khách đến nước ta tăng: Hàn Quốc 262 nghìn lượt người, tăng 55,1%; Nhật Bản 116,9 nghìn lượt người, tăng 3,9%; Xin-ga-po 35,3 nghìn lượt người, tăng 16,5%; In-đô-nê-xi-a 13,2 nghìn lượt người, tăng 11,4%.
Khách đến nước ta từ châu Âu ước tính đạt 245,4 nghìn lượt người, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số quốc gia có lượng khách đến giảm: Nga 68,3 nghìn lượt người, giảm 25,7%; Pháp 39,5 nghìn lượt người, giảm 3,7%; Đức 30 nghìn lượt người, giảm 1,4%. Một số quốc gia có lượng khách đến nước ta tăng: Anh 39,4 nghìn lượt người, tăng 2,1%; Thụy Điển 12,1 nghìn lượt người, tăng 13,5%; I-ta-li-a 11,1 nghìn lượt người, tăng 44%; Hà Lan 9,6 nghìn lượt người, tăng 6%.
Khách đến từ châu Mỹ đạt 130,3 nghìn lượt người, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 105,1 nghìn lượt người, tăng 2,7%. Khách đến từ châu Úc đạt 93,6 nghìn lượt người, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2014, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 84,8 nghìn lượt người, tăng 15,9%.
Một số tình hình xã hội
Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Trong tháng Hai, cả nước có 46,4 nghìn hộ thiếu đói, tương ứng với 185,3 nghìn nhân khẩu thiếu đói. So với cùng kỳ năm 2014, số hộ thiếu đói giảm 50%; số nhân khẩu thiếu đói giảm 51%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành và tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 5,7 nghìn tấn lương thực và 8,3 tỷ đồng, riêng tháng Hai hỗ trợ khoảng 5,5 nghìn tấn lương thực và 8,3 tỷ đồng.
Công tác an sinh xã hội trong dịp Tết Nguyên đán được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Theo báo cáo sơ bộ, đã có 6,6 triệu phần quà với tổng trị giá 2,2 nghìn tỷ đồng được trao cho các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, các đối tượng chính sách và 534,7 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo ăn Tết.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Hai, cả nước có 3,8 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 3,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 21 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 10 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút; 03 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Riêng trong dịp Tết Nguyên đán Ất Mùi (Từ 15 - 23/02/2015), cả nước có 31 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 26 trường hợp mắc sốt xuất huyết; 07 trường hợp sốt phát ban nghi sởi; 03 trường hợp mắc thủy đậu; chưa ghi nhận trường hợp nào mắc mới cúm A(H5N1) và cúm A(H7N9).
Trong 2 tháng đầu năm, cả nước có hơn 5,3 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; gần 5,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 38 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 33 trường hợp mắc bệnh viêm não virut (01 trường hợp tử vong); 10 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Từ đầu năm, không ghi nhận thêm trường hợp nào mắc bệnh tả và cúm A(H5N1).
Trong tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 08 vụ ngộ độc thực phẩm làm 143 người bị ngộ độc, trong đó 01 trường hợp tử vong. Từ thời điểm 17/12/2014 đến thời điểm 16/02/2015, trên địa bàn cả nước xảy ra 13 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 462 người mắc, trong đó 06 trường hợp tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng Hai (từ 16/01 đến 15/02), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1936 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 898 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1038 vụ va chạm giao thông, làm 786 người chết; 514 người bị thương và 1201 người bị thương nhẹ. Riêng trong 9 ngày Tết Nguyên đán đã xảy ra 536 vụ tai nạn giao thông, làm chết 317 người và làm bị thương 509 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 21,1% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 13,3%; số vụ va chạm giao thông giảm 26,7%); số người chết giảm 14,4%; số người bị thương giảm 30% và số người bị thương nhẹ giảm 33,5%.
Tính chung 02 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 4107 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 1850 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 2257 vụ va chạm giao thông, làm 1567 người chết; 1097 người bị thương và 2665 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông 02 tháng giảm 15% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 9,7%; số vụ va chạm giao thông giảm 18,9%); số người chết giảm 13,8%; số người bị thương giảm 17,3% và số người bị thương nhẹ giảm 22%. Bình quân 01 ngày trong 02 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 69 vụ tai nạn giao thông, gồm 31 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 38 vụ va chạm giao thông, làm 27 người chết, 19 người bị thương và 45 người bị thương nhẹ.
Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng Hai, trên địa bàn cả nước xảy ra 304 vụ cháy, nổ làm 4 người chết và 27 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 63 tỷ đồng.
Trong tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện 1,1 nghìn vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó 371 vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt là gần 9 tỷ đồng.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
[1] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[2] CPI tháng Tết một số năm như sau: Năm 2006: 2,1%; năm 2007: 2,17%; năm 2008: 3,56%; năm 2009: 0,32%; năm 2010: 1,96%; năm 2011: 2,09%; năm 2012: 1,00%; năm 2013: 1,32%; năm 2014: 0,69%.