Dân tộc
HÌNH ẢNH CỘNG ĐỒNG 54 DÂN TỘC VIỆT NAM
Việt Nam - tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con
cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa
theo cha xuống biển, cùng mở mang xây dựng non sông "Tam sơn, tứ hải, nhất phần
điền", với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa
sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ
đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông).
Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền
thống yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh
xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất
nước.
Lịch sử chinh phục thiên nhiên là bài ca hùng tráng, thể hiện sự
sáng tạo và sức sống mãnh liệt, vượt lên mọi trở ngại thích ứng với điều kiện tự
nhiên để sản xuất, tồn tại và phát triển của từng dân tộc. Với điều kiện địa lý
tự nhiên (địa mạo, đất đai, khí hậu...) khác nhau, các dân tộc đã tìm ra phương
thức ứng xử thiên nhiên khác nhau.
Ở đồng bằng và trung du, các dân tộc làm ruộng, cấy lúa nước,
dựng nên nền văn hoá xóm làng với trung tâm là đình làng, giếng nước cây đa, bao
bọc bởi lũy tre gai góc đầy sức sống dẻo dai. Đồng bằng, nghề nông, xóm làng là
nguồn cảm hứng, là "bột" của những tấm áo mớ ba mớ bảy, của dải yếm đào cùng nón
quai thao, của làn điệu quan họ khoan thai mượt mà và của khúc dân ca Nam Bộ
ngân dài chứa đựng sự mênh mông của đồng bằng sông Cửu Long.
Ở vùng thấp của miền núi, các dân tộc trồng lúa nước kết hợp với
sản xuất trên khô để trồng lúa nương, trồng ngô, bước đầu trồng các cây công
nghiệp lâu năm (cây hồi, cây quế...), thay thế cho rừng tự nhiên. Họ sống trên
những nếp nhà sàn, mặc quần, váy, áo màu chàm với nhiều mô típ hoa văn mô phỏng
hoa rừng, thú rừng. Đồng bào có tục uống rượu cần thể hiện tình cảm cộng đồng
sâu sắc. Người uống ngây ngất bởi hơi men và đắm say bởi tình người.
Ở vùng cao Việt Bắc, Tây Nguyên, đồng bào chọn phương thức phát
rừng làm rẫy - là cách ứng xử thiên nhiên của thời đại tiền công nghiệp. Vùng
cao, khí hậu á nhiệt đới, việc trồng trọt chủ yếu thực hiện trong vụ hè thu. Để
tranh thủ thời tiết và quay vòng đất, từ ngàn xưa người vùng cao đã phát triển
xen canh gối vụ, vừa tăng thu nhập vừa bảo vệ đất khỏi bị xói mòn bởi những cơn
mưa rào mùa hạ. Bàn tay khéo léo và tâm hồn thẩm mỹ của các cô gái đã tạo ra
những bộ trang phục: váy, áo với những hoa văn sặc sỡ hài hoà về mầu sắc, đa
dạng về mô típ, mềm mại về kiểu dáng, thuận cho lao động trên nương, tiện cho
việc đi lại trên đường đèo, dốc. Núi rừng hoang sơ cùng với phương thức canh tác
lạc hậu là mảnh đất phát sinh và phát triển các lễ nghi đầy tính huyền bí, huyền
ảo. Hầu hết các cư dân Tây Nguyên đều có tục đâm trâu làm lễ cúng Giàng (trời),
cầu xin sự phù hộ của Giàng cho người sức khoẻ, cho gia súc và cho mùa màng bội
thu. Đây cũng là vùng tiềm ẩn nhiều truyện thần thoại, nhiều sử thi anh hùng mà
giá trị của nó có thể sánh được với các truyện thần thoại của Trung Quốc, ấn Độ
nhưng chưa được sưu tầm và nghiên cứu đầy đủ. Đồng bào là chủ nhân sáng tạo ra
những bộ đàn đá, đàn T'rưng, đàn Krông pút... những bộ cồng chiêng và những điệu
múa tập thể dân dã, khỏe khoắn kết bó cộng đồng.
Dọc theo bờ biển từ Bắc vào Nam, các dân tộc sống bằng nghề chài
lưới. Cứ sáng sáng đoàn thuyền của ngư dân giăng buồm ra khơi, chiều lại quay về
lộng. Cuộc sống ở đây cũng nhộn nhịp, khẩn trương như nông dân trên đồng ruộng
ngày mùa.
Ở khắp nơi, con người hoà nhập vào thiên nhiên, thiên nhiên cũng
biết chiều lòng người, không phụ công sức người.
Sống trên mảnh đất Đông Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục
địa với Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hoá trong
khu vực. ở đây có đủ 3 ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á, ngữ hệ Nam đảo, và
ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác
nhau:
- Nhóm
Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường,
Thổ.
- Nhóm
Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự,
Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
- Nhóm
Môn - Khmer có 21 dân tộc là: Ba na, Brâu,
Bru-Vân kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ mú,
Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ-đu, Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
- Nhóm
Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn.
- Nhóm
Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu
péo.
- Nhóm
Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê đê,
Gia-rai, Ra-glai.
- Nhóm
Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.
- Nhóm
Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô,
Phù lá, Si la.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác
nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết
tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn
hoá với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân
tộc mình. Ở đây cái đa dạng của văn hoá dân tộc được thống nhất trong quy luật
chung - quy luật phát triển đi lên của đất nước, như cái riêng thống nhất trong
cái chung của cặp phạm trù triết học.
Thời đại Hồ Chí Minh mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng tháng
8/1945 đã đổi đời các dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta nhất
quán từ đầu là bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng đất
nước theo mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, văn hoá đậm
đà bản sắc dân tộc.
Thực hiện chính sách dân tộc đúng đắn và sáng tạo trong các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất to lớn, rất mới
mẻ, rất hiện đại. Cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông đường bộ, thuỷ lợi, viễn
thông đã phát triển đến tuyến huyện và đang chuyển dần về xã, bản, nhanh, chậm
tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng. Với tư cách là người làm chủ đất
nước, các dân tộc tham gia vào cơ quan quyền lực Nhà nước ngày càng nhiều, cao
hơn. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật được Đảng và Nhà nước quan tâm đào tạo.
Số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học ngày càng tăng trong các dân tộc.
Vốn văn hoá, nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc được sưu tầm, bảo tồn, nghiên
cứu, phát huy.
Thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng, các dân tộc vốn
gắn bó với nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nay lại càng gắn bó đoàn
kết với nhau hơn trong công cuộc xây dựng đất nước. Những thành tựu đạt được
trên là cơ sở vững chắc góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao dân
trí, nâng cao đời sống, phát triển các dân tộc.
Danh mục CỘNG ĐỒNG 54 DÂN TỘC VIỆT NAM
(Nguồn: Ủy ban Dân tộc)