Kinh tế- Xã hội
Một vài nét về kinh tế-xã hội Việt Nam
Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám (1945)
Trong hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có 45 năm đầu thế kỷ XX, kinh
tế Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu, nhân dân ta phải sống trong
cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90% dân số mù chữ.
Các ngành sản xuất vật chất là nông nghiệp và công nghiệp chịu tác động nặng nề
của chế độ thực dân kiểu cũ nên rất lạc hậu. Trong nông nghiệp, thực dân Pháp
tiếp tục duy trì kiểu bóc lột phong kiến bằng tô tức, sưu cao thuế nặng. Người
nông dân phải chịu cảnh một cổ hai tròng là thực dân và phong kiến. Phần lớn
ruộng đất tập trung vào tay bọn địa chủ và chủ đồn điền người Pháp.
Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nền nông nghiệp nước ta hết sức nghèo nàn
về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật và hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và
phụ thuộc vào thiên nhiên. Năng suất các loại cây trồng đều rất thấp. Năng suất
lúa bình quân 1 ha thời kỳ 1930-1944 là 12 tạ, trong khi đó Thái Lan là 18 tạ và
Nhật Bản là 34 tạ.
Ruộng đất phần lớn tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến và thực dân
Pháp. Nhân dân lao động chiếm 97% số hộ nhưng chỉ sử dụng 36% ruộng đất. Trong
nông thôn có tới 59,2% số hộ không có ruộng đất phải sống bằng cày thuê, cấy rẽ.
Nghịch cảnh sâu sắc diễn ra dưới thời thực dân Pháp chiếm đóng: Hàng năm Việt
Nam xuất khẩu trên 1 triệu tấn gạo trắng, nhưng nông dân Việt Nam, người làm ra
lúa gạo, lại luôn luôn phải chịu cảnh đói nghèo. Năm 1945 có trên 2 triệu người
chết đói. Cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn: cả nước chỉ có 12 công trình thuỷ
nông nhỏ, đảm bảo tưới cho 15% diện tích canh tác, không có công trình tiêu úng
nên lũ lụt thường xuyên xảy ra, bình quân 2 năm 1 lần vỡ đê. Nông nghiệp chủ yếu
là quảng canh, năng suất cây trồng, vật nuôi rất thấp. Năm 1939 được coi là năm
được mùa nhất trước cách mạng nhưng năng suất lúa bình quân cả nước cũng chỉ đạt
hơn 10 tạ/ha.
Sản xuất công nghiệp rất nhỏ bé và què quặt, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ
và một số cơ sở công nghiệp nhẹ nhằm bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt và vơ vét
tài nguyên khoáng sản. Từ năm 1930 đến năm 1945, thực dân Pháp đã khai thác:
2,76 triệu tấn than, 217.300 tấn kẽm, chì; 598.000 tấn sắt, măng gan, 1.384 kg
vàng, 315.500 tấn phốt pho.
Trong hơn 10 năm, từ năm 1930 đến năm 1943, cả nước chỉ có khoảng 200 xí nghiệp
công nghiệp và 90.000 công nhân, trong đó 60% là công nhân khai thác mỏ. Cả nước
không có một cơ sở công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo thiết bị và hoá
chất nào. Công nghiệp hàng tiêu dùng cũng chỉ có một số nhà máy đường, rượu, xay
xát lương thực, dệt may, giấy với máy móc thiết bị cũ. Vào những năm 1938-1939,
tỷ trọng công nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng giá trị sản lượng công nông nghiệp
cả nước. Khu vực tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống bị kìm hãm
và mai một. So với tổng số vốn đầu tư vào công nghiệp toàn Đông Dương thời kỳ
1913-1939, vốn đầu tư cho ngành mỏ chiếm 40%, riêng thời kỳ 1924-1930 là 52%.
Hậu quả về xã hội cũng rất nặng nề: Thực dân Pháp đã thực hiện một nền giáo dục
nô dịch, trên 90% dân số mù chữ. Trung bình 1 vạn dân chỉ có 115 học sinh vỡ
lòng, 210 học sinh tiểu học, 2 học sinh chuyên nghiệp và đại học.
Cơ sở y tế thiếu thốn và chủ yếu phục vụ cho quân đội viễn chinh Pháp và bọn tay
sai phản động. Cả nước chỉ có 213 bác sĩ, 335 y sĩ, 264 nữ hộ sinh, bình quân 1
vạn dân mới có 0,23 bác sĩ và y sĩ.
Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1955
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Cách mạng
ra đời chưa có thời gian củng cố, đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn thách
thức của “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Đảng và Nhà nước ta đã bắt
tay ngay vào giải quyết những khó khăn cấp bách của đời sống nhân dân, tăng
cường thực lực cách mạng trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội... Ngày 6/1/1946, tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp bội ước nổ súng đánh
chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng nghìn quân lên Đà Nẵng (20/11/1946).
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta
đã tiến hành cuộc kháng chiến đầy gian khổ nhưng rất anh hùng. Cùng với nhiệm vụ
thực hiện cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, chúng
ta đã thực hiện chuyển nền kinh tế tàn tích thực dân, phong kiến và thấp kém
thành nền kinh tế dân chủ, độc lập phục vụ nhu cầu kháng chiến và kiến quốc.
Trong thời kỳ này (1946-1954) kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị
trí đặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia
sản xuất, Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất, giảm tô,
giảm tức. Năm 1949, sắc lệnh giảm tô, giảm tức được ban hành, đồng thời tạm cấp
ruộng đất thu được của thực dân Pháp và địa chủ bỏ chạy vào vùng địch tạm chiếm
chia cho nông dân nghèo. Nhờ đó, trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp
phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với
năm 1946, tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp ở miền Bắc trong 9 năm kháng
chiến đạt 10%/năm. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản
xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi phục và mở rộng.
Chỉ tính riêng từ năm 1945 đến tháng 4/1953 ở vùng tự do và đến tháng 7/1954 ở
vùng mới giải phóng, nông dân miền Bắc đã được chia 475.900 ha ruộng đất và ở
Nam Bộ, chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân 410.000 ha. Do lực lượng sản
xuất được giải phóng, sản xuất nông nghiệp vùng giải phóng đạt mức tăng trưởng
khá. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm
1946, trong đó riêng thóc đạt 2,3 triệu tấn tăng 15,9%.
Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công
nghiệp quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng.
Ngoài số lượng lớn về vũ khí đạn dược, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu được sản
xuất ngày càng nhiều. Từ năm 1946-1950 đã sản xuất 20.000 tấn than cốc, 800 kg
ăngtimoan. Từ năm 1950 đến cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc, 43,0 tấn
chì. Những năm 1950-1954 đã sản xuất được 169,3 triệu mét vải, 31.700 tấn giấy.
Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục-chống giặc dốt được coi là
một trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Từ
1946 đến 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kiệt quệ vì sự bóc lột lâu dài của đế
quốc và phong kiến, dân tộc ta đã đứng lên kháng chiến 9 năm gian khổ chống thực
dân Pháp, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta đứng
trước một tình hình mới, cách mạng Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược:
miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, hoàn thành cuộc cách mạng độc lập dân tộc trong cả nước.
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (1954), sản xuất công nghiệp từng bước
được khôi phục và phát triển. Trong 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957) và tiếp
theo là kế hoạch 5 năm 1961-1965 với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản
xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng.
Từ năm 1965 đến 1975, tuy miền Bắc phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ nhưng sản xuất công nghiệp vẫn được duy trì và phát triển. Giá
trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1975 tăng gấp 16,6 lần năm 1955, bình quân
tăng mỗi năm 14,7%. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người
năm 1975 đã đạt mức cao hơn nhiều so với năm 1955, trong đó: điện gấp 13,8 lần,
than 4,8 lần, xi măng 25,2 lần, giấy 14,5 lần, vải 4,8 lần, đường 4 lần. Năm
1975 miền Bắc đã có 1.335 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, tăng 323 xí nghiệp
so với năm 1960. Một số ngành công nghiệp nặng có năng lực sản xuất khá lớn. Vị
trí của công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội tăng từ 32,7% năm 1960 lên 42,6%
năm 1975; thu nhập quốc dân từ 18,2% lên 28,7% trong 15 năm tương ứng.
Sản lượng lương thực qui thóc từ 3,76 triệu tấn năm 1955 tăng lên 5,49 triệu tấn
năm 1975; đàn lợn từ 2,45 triệu con lên 6,75 triệu con.
Hoạt động thương mại được chú trọng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 so
với năm 1955 tăng gấp 7,8 lần; kim ngạch xuất khẩu tăng 21,3 lần; kim ngạch nhập
khẩu tăng 11,8 lần. Tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu tăng từ 9,1% năm 1945 lên
17,0% năm 1955; riêng thời kỳ 1958-1964 đạt tỷ lệ 63,7%.
Để hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh
và tàn dư của chế độ phong kiến, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và
chính sách kinh tế, tài chính tích cực, trong đó nổi bật nhất là cải cách ruộng
đất, thực hiện người cày có ruộng, 810.000 ha đất nông nghiệp của địa chủ được
tịch thu và chia cho nông dân nghèo. Sau 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957),
diện tích gieo trồng tăng 23,5%, năng suất lúa tăng 30,8%, sản lượng lương thực
tăng 57%, lương thực bình quân đầu người tăng 43,6%, đàn trâu tăng 44,2%, đàn bò
tăng 39%, đàn lợn tăng 20% so với năm 1939. Trong hoàn cảnh sau chiến tranh
nhưng kết quả đạt được như trên là rất đáng ghi nhận, trong đó nổi bật nhất là
lương thực bình quân đầu người năm 1957 đã đạt 303 kg. Đến năm 1957, nền kinh tế
miền Bắc được phục hồi vượt mức cao nhất dưới thời Pháp thống trị (1939).
Sau khi thu được những kết quả quan trọng trong khôi phục kinh tế, Hội nghị
Trung ương lần thứ 14 (11/1958) đã vạch ra kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ
nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa. Những năm 1958-1960, nền kinh tế miền Bắc
có những chuyển biến đáng kể.
Trong 5 năm 1961-1965, nhân dân miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng:
Quan hệ sản xuất mới tiếp tục được củng cố, cơ sở vật chất được tăng cường, bước
đầu có sự tìm tòi cải tiến cung cách làm ăn qua các cuộc vận động "ba xây ba
chống" và "cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật", giáo dục văn hóa, y
tế phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1965, có 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác xã sản
xuất nông nghiệp; trong đó 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao. Nền nông nghiệp
hợp tác hóa cùng giai cấp nông dân tập thể đã hình thành và phát triển. Tốc độ
tăng bình quân về giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là 4,1%. Năm 1965 đã có 9
huyện và 125 hợp tác xã đạt năng suất bình quân từ 5 tấn thóc/ha trở lên. Đầu
năm 1965 đã xây dựng được 3.139 điểm cơ khí nhỏ, 7 trạm và 32 đội máy kéo, 33
công trình thuỷ lợi lớn, 1.500 công trình vừa và nhỏ được khôi phục và xây dựng,
bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hơn 500.000 ha diện tích trồng trọt. Nông nghiệp
miền Bắc từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp dần dần trở
thành một nền nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện.
Công nghiệp miền Bắc thời kỳ này đã có bước phát triển khá. Từ những cơ sở sản
xuất công nghiệp nhỏ bé, chủ yếu là khai thác nguyên liệu và sửa chữa nhỏ nay đã
bắt đầu sản xuất một phần tư liệu sản xuất và phần lớn những vật phẩm tiêu dùng
của nhân dân. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân bước
đầu được phát huy. Các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim,
hóa chất, vật liệu xây dựng... đã hình thành và phát triển nhanh, nhất là ngành
điện và ngành cơ khí. Đến năm 1965 đã xây dựng được 1.132 xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh. Nhiều khu công nghiệp phát triển và hình thành ở Hà Nội, Hải Phòng,
Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Vinh, Hồng Quảng.
Cuối năm 1964, miền Bắc hoàn thành những mục tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm
1961-1965. Đánh giá những chuyển biến của miền Bắc, tại Hội nghị Chính trị đặc
biệt (27/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, miền Bắc
nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước,
xã hội và con người đều đổi mới".
Giai đoạn 1965-1970, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, miền Bắc vẫn vững vàng
vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn với tiền tuyến
lớn. Công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất đã thu được kết quả. Sản
lượng lương thực năm 1970, toàn miền Bắc đạt 5.278.900 tấn, tăng hơn năm 1969
hơn nửa triệu tấn. Năng suất lúa cả năm đạt 43,11 tạ trên 1 ha ruộng hai vụ.
Tỉnh Thái Bình và thành phố Hà Nội đạt năng suất bình quân trên 5 tấn thóc/ha.
30 huyện, 2.265 hợp tác xã đạt năng suất bình quân 5 tấn thóc/ha. Thu nhập bình
quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 20% so với năm
1965.
Sản xuất công nghiệp cũng có những chuyển biến tốt. Những cơ sở công nghiệp bị
địch đánh phá phần lớn đã được khôi phục trong năm 1970. Giá trị tổng sản lượng
công nghiệp vượt mức kế hoạch 2,5%, xấp xỉ bằng năm 1965. Phần lớn các sản phẩm
chủ yếu của ngành công nghiệp đều đạt hoặc vượt mức kế hoạch năm.
Sau thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân lần thứ hai của đế quốc Mỹ năm 1972, hai năm 1972-1973, công cuộc khôi
phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc được tiến hành khẩn trương. Năm 1974, hai
vụ lúa được mùa. Sản xuất lúa cả năm đạt 5.468.800 tấn (năm 1973 đạt 4.468.000
tấn). Năng suất bình quân một vụ lúa đạt 24,18 tạ/ha. Năm 1974 có 9 tỉnh, 107
huyện và 4.226 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn thóc/ha ruộng hai vụ lúa. Tỉnh
Thái Bình, lá cờ đầu về năng suất lúa của miền Bắc đạt trên 7 tấn thóc/ha. Hệ
thống thủy nông được phục hồi và nâng cấp. Năm 1974, giá trị tổng sản lượng công
nghiệp và thủ công nghiệp vượt kế hoạch 4%, so với năm 1973 tăng 15%. So với năm
1960, số xí nghiệp công nghiệp ở miền Bắc năm 1975 tăng 32%, khu vực kinh tế
quốc doanh chiếm 88,4% tổng sản phẩm xã hội và 84,1% thu nhập quốc dân. Nhiều
bến cảng, đường giao thông thủy bộ được phục hồi nhanh chóng. Nhiều cầu được sửa
chữa, xây dựng lại.
Có thể nói, miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nền
kinh tế hết sức nghèo nàn lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Song, dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, nhân dân miền Bắc không những làm tròn sứ mệnh là hậu phương lớn đối với
miền Nam ruột thịt, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mà còn
giành được những thắng lợi to lớn trong công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế,
phát triển văn hóa và nâng cao đời sống nhân dân.
Mặc dù trong khoảng thời gian 20 năm thì 11 năm miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến
đấu chống cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của Mỹ, song kinh tế-xã
hội vẫn đạt được bước phát triển nhất định.
Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng
nâng lên. Lấy năm 1957 làm gốc so sánh, Quỹ tiêu dùng của nhân dân tính bình
quân đầu người tăng 82,8%; thu nhập bình quân đầu người của gia đình công nhân
viên chức tăng 48,5%; của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%.
Hoạt động giáo dục, y tế đạt được những thành tựu to lớn. Số người đi học năm
1955 là 1.288.000 người thì đến năm 1975 đạt 6.796.900 người, tăng gấp 5,3 lần,
trong đó trung học chuyên nghiệp là từ 2.800 người lên 83.500 người, tăng gấp
29,8 lần, đại học từ 1.200 và 61.100 người, tăng gấp 50,9 lần. Tính bình quân
cho 1 vạn dân, năm 1955 có 949 người đi học thì đến năm 1975 có 2.769 người,
tăng gấp 2,9 lần, trong đó trung học chuyên nghiệp và đại học là 2,9 người và 59
người, tăng gấp 20,3 lần.
Thời
kỳ 1976-1986
Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ và anh hùng, cách mạng miền Nam từng bước lớn
mạnh và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt
Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong 5 năm 1976-1980, trên mặt trận kinh tế, nhân dân Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến
tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra và của cuộc chiến tranh biên giới; khôi phục
phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng
lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá; củng cố kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ở miền Bắc, bước đầu cải tạo và sắp xếp công thương
nghiệp tư doanh ở miền Nam, đưa một bộ phận nông dân Nam Bộ, nông dân Nam Trung
Bộ vào con đường làm ăn tập thể; bước đầu phân bố lại lực lượng lao động xã hội;
tăng cường một bước cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980 chưa tương xứng với sức lao
động và vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm
trọng; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị trường, vật
giá, tài chính, tiền tệ không ổn định; đời sống của nhân dân lao động còn khó
khăn. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của
Nhà nước giảm sút.
Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985), nhiều Nghị quyết
và Quyết định quan trọng của Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm từng bước sửa
đổi cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tư nhân và
xóa bỏ quan liêu bao cấp. Trước đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982),
bước đầu có cách nhìn mới về nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận miền Bắc
tồn tại 3 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể và cá thể; miền Nam tồn tại
5 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân
và cá thể. Đó là bước khởi đầu thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh doanh,
tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khoá V (6/1986) đã đánh giá tình
hình sau cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9/1985) và khẳng định chính thức đổi
mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với những bước đi đổi mới từng phần theo những chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, những sáng kiến, sự năng động, sáng tạo của nhân dân của
các địa phương, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã làm cho nền kinh tế Việt Nam những
năm 1981-1985 có bước phát triển khá. Sản lượng lương thực bình quân mỗi năm đạt
17 triệu tấn, sản lượng công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm. Thu nhập quốc dân
tăng bình quân hàng năm 6,4%. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng
đáng kể với hàng trăm công trình tự động hóa và hàng nghìn công trình vừa và
nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt,
giao thông. Về năng lực sản xuất, đã tăng thêm 456.000 kW điện, 2,5 triệu tấn
than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33.000 tấn sợi, 58.000 tấn giấy, thêm 309.000 ha
được tưới nước, 186.000 ha được tiêu úng. Tuy vậy, tình hình kinh tế-xã hội và
đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn trầm
trọng mà biểu hiện là: (1) kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát
triển. Nếu tính chung từ năm 1976 đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình
quân hàng năm chỉ tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng
năm chỉ tăng 3,7%, trong khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%; (2)
không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân
sản xuất chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng; (3) siêu lạm phát hoành
hành. Suốt trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm
trước luôn tăng ở mức hai con số và giao động ở mức 19-92%. Năm 1986 lạm phát
đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7% và (4) đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, thiếu thốn.
Thời kỳ 1986-2005
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đổi mới của Đảng
đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ.
Trong công nghiệp, Quyết định 217 HĐBT tháng 11/1987 trao quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu
bù chi, xóa dần bao cấp, giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, khuyến khích các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát triển
công nghiệp. Tháng 12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài với nhiều khoản ưu đãi được
công bố; đồng thời khuyến khích xuất khẩu đã làm cho môi trường đầu tư thông
thoáng hơn, góp phần tăng năng lực sản xuất ngành công nghiệp. Sản xuất của các
ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi và tăng trưởng khá ổn định, hơn hẳn các
thời kỳ trước đó. Bình quân mỗi năm của kế hoạch 5 năm 1986-1990, sản lượng điện
tăng 11,1%, xi măng tăng 11,0%, thép cán tăng 8,0%, thiếc tăng 10%. Đáng chú ý
là xuất hiện ngành sản xuất mới: khai thác dầu thô của công nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI). Sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên
280 nghìn tấn năm 1987; 680 nghìn tấn năm 1988; 1,5 triệu tấn năm 1989 và 2,7
triệu tấn năm 1990.
Tuy nhiên, những thành tựu và khởi sắc của công nghiệp thực sự bắt đầu trong
những năm 90 (thế kỷ XX). Bình quân 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị
sản xuất công nghiệp toàn ngành đạt 13,7%, vượt xa kế hoạch đề ra (7,5%-8,5%);
trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 15%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%.
Trong 5 năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp nước ta tiếp tục phát triển ổn định
và tăng trưởng với nhịp độ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng
14,2%, năm 1997 tăng 13,8%, 1998 tăng 12,1%, 1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng
17,5%. Nếu so với năm 1990, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 tăng gấp 6,5
lần, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 14,3%. 6 tháng đầu năm 2005, giá
trị sản xuất công nghiệp ước đạt 205,3 nghìn tỷ đồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ
năm 2004, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,7%; khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì mức tăng cao 24,7%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 13,9%.
Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều
tăng cả chất lượng và số lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước và
tham gia xuất khẩu. Năm 2004, than khai thác đạt 26,29 triệu tấn, gấp 5,7 lần
năm 1990; điện sản xuất 46,05 tỷ kWh, gấp 5,24 lần; dầu thô khai thác 20,05
triệu tấn, gấp 7,43 lần; xi măng 25,33 triệu tấn, gấp 10 lần; thép cán 2,93
triệu tấn, gấp 29 lần; phân hóa học 1,45 triệu tấn, gấp 4,1 lần ; giấy bìa 78,1
vạn tấn, gấp 10 lần; vải lụa 518,2 triệu mét, gấp 1,63 lần; đường mật 1,37 triệu
tấn, gấp 4,2 lần; lắp ráp ti vi 2,48 triệu chiếc, gấp 17,6 lần; quần áo may sẵn
784,05 triệu chiếc, gấp 6,26 lần ; xà phòng giặt 45,9 vạn tấn, gấp 8,37 lần; ôtô
lắp ráp 42,65 nghìn chiếc (năm 1990 chưa lắp ráp ôtô); xe máy lắp ráp 1,57 triệu
chiếc (năm 1990 chưa lắp ráp xe máy).
Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của thập kỷ 90
đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần
kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI, trong đó công
nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị
trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế
chính sách ngày càng thông thoáng, nên trong những năm qua phát triển khá nhanh
và ổn định hơn hẳn khu vực công nghiệp trong nước. Tính đến nay đã có hơn 5.000
dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 45 tỷ USD.
Các doanh nghiệp này đóng góp gần 15% GDP, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất
khẩu, đóng góp 4,9% tổng thu ngân sách Nhà nước và tạo ra hàng vạn công ăn việc
làm.
Ngoài giá trị về kinh tế, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc làm, góp
phần bổ sung và hoàn thiện các mô hình quản lý và tổ chức sản xuất mới phù hợp
với cơ chế thị trường ở Việt Nam. Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN,
KCX) chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp với các ngành sản phẩm mũi
nhọn, có chất lượng cao, phục vụ xuất khẩu. Đến nay, cả nước có 122 KCN được cấp
giấy phép họat động. Sự tham gia của công nghiệp FDI nói chung và các KCN nói
riêng đã tạo ra sức cạnh tranh cần thiết thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế nước ta đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng
công nghệ hiện đại để giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Do nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm nên tích luỹ của
nền kinh tế ngày càng mở rộng. Năm 1990 tỷ lệ tích luỹ tài sản trong sử dụng
tổng sản phẩm trong nước chiếm 14,36%; đến năm 2004 tỷ lệ này đạt 35,58%.
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản
xuất nông nghiệp mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ
nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đã đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ
đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 10 NQ/TW đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.
Cùng với Nghị quyết 10, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới
khuyến khích nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển theo hướng kinh tế hàng
hoá và đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là 10 năm trong thập kỷ 90.
Thành tựu nổi bật và to lớn nhất của nông nghiệp trong 15 năm đổi mới là đã giải
quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt
Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới
liên tục từ năm 1989 đến nay. Nếu sản lượng lương thực có hạt năm 1990 chỉ đạt
19,90 triệu tấn thì đến năm 2004 đã tăng lên 39,32 triệu tấn. Như vậy, sau 15
năm, sản lượng lương thực có hạt đã tăng thêm 19,4 triệu tấn, bình quân mỗi năm
tăng thêm 1,29 triệu tấn. Do sản xuất lương thực tăng nhanh, nước ta không những
đã bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dành khối lượng khá lớn cho
xuất khẩu. Nếu năm 1989, xuất khẩu được 1,42 triệu tấn gạo thì đến năm 2004 đạt
4,06 triệu tấn, đưa nước ta vào hàng các nước đứng đầu về xuất khẩu gạo trên thế
giới. Ngành chăn nuôi cũng có bước phát triển nhanh. Giá trị sản xuất ngành chăn
nuôi năm 2004 so với năm 1990 tăng gấp 2,28 lần; nhịp độ tăng trưởng bình quân
hàng năm đạt 6,06%.
Với phương châm Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước.
Tính tới tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có
Mỹ, đưa tổng số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta từ 50 nước năm 1990 lên
170 nước năm 2000. Năm 2004, tổng mức lưu chuyển ngoại thương nước ta đạt 54,46
tỷ USD (tăng gấp 11,34 lần so với mức 5,10 tỷ USD năm 1990); trong đó xuất khẩu
26,50 tỷ USD tăng 11,02 lần; nhập khẩu 31,95 tỷ USD, tăng gấp 11,61 lần. Nhịp độ
tăng bình quân hàng năm tổng mức lưu chuyển ngoại thương thời kỳ 1991-2004 đạt
18,94% trong đó xuất khẩu 18,70%; nhập khẩu 19,14%.
Do kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục nhiều năm liền nên đời sống vật
chất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt.
Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết
đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000 nước ta đã
hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Giáo
dục trung học chuyên nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh về quy mô đào tạo.
Năm 1990 nước ta có 105,9 nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp, tính bình quân
cho 1 vạn dân có 16 học sinh; thì đến năm 2004 là 465.300 và 97 học sinh. Năm
2004 so với năm 1990, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 4,39 lần. Giáo
dục đại học, cao đẳng năm 1990 có hơn 93.000 sinh viên đại học, cao đẳng, tính
bình quân 1 vạn dân có 14 sinh viên thì đến năm 2004 là 1.319.800 sinh viên và
161 sinh viên. Năm 2004 so với năm 1990 số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp
14,2 lần.
Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ thống y tế đã
được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình dịch vụ y tế
đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp. Năm 1990,
tính bình quân 1 vạn dân có 3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là 6,1. Tỷ lệ suy dinh
dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ 51,5%; đến năm 2004 còn 26,7%. Chỉ số
về sức khoẻ bà mẹ và trẻ em có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tử vong của trẻ em đã giảm
xuống bằng với mức phổ biến ở những nước có thu nhập đầu người cao gấp 2-3 lần
Việt Nam. Năm 2003 tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 26%. Tuổi thọ
bình quân tăng từ 64 tuổi năm 1990 lên 68 tuổi năm 2000.
Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả
xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ưu tiên phát
triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã thành công trong việc giải
phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn và khuyến khích họ tự mình phấn đấu cải
thiện cuộc sống. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo đã giảm từ trên 70%
năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và 28,9% vào năm 2001-2002. Như vậy so với năm
1990, năm 2000 Việt Nam đã giảm 1/2 tỷ lệ nghèo và về điều này nước ta đã đạt
được mục tiêu phát triển của Thiên niên kỷ do Quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ
lệ đói nghèo trong giai đoạn 1990-2015.
Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia, quan hệ kinh tế thương
mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 80 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta... Chưa bao giờ mối quan hệ ngoại giao và
kinh tế của Việt Nam lại phát triển sâu rộng và đa dạng như ngày nay.
Giai đoạn 2005 đến nay
Nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -
2010 trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn,
đan xen nhau.
Trên thế giới,
hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao
động và vốn ngày càng mở rộng. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát
triển năng động, hợp tác trong khu vực, nhất là ASEAN ngày càng mở rộng tạo thêm
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp,
khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động khủng bố quốc tế
có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các vấn đề mang
tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng lượng
và nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo... sẽ càng trở nên gay gắt hơn.
Ở trong nước,
chúng ta có được thuận lợi rất cơ bản là những thành tựu to lớn và những bài học
kinh nghiệm quan trọng sau 20 năm đổi mới, nhưng cũng còn nhiều yếu kém, khuyết
điểm; trong khi yêu cầu hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng
khẩn trương và sâu rộng hơn.
Năm 2006, tổng sản phẩm trong nước (GDP), theo giá so sánh ước tính tăng 8,17%
so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
3,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%.
Trong 8,17% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp
0,67 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần
trăm và khu vực dịch vụ đóng góp 3,34 điểm phần trăm.
Cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực công
nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm nay; khu vực dịch vụ
tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02%
xuống còn 20,40%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp
tục phát triển. Tính từ đầu năm đến 18/12/2006, cả nước có 797 dự án đầu tư nước
ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 7,57 tỷ USD, bình quân 1 dự án
đạt 9,5 triệu USD, 486 lượt dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm 2,36 tỷ
USD; tính chung cả cấp mới và tăng vốn đến 18/12/2006 đạt 9,9 tỷ USD và như vậy
cả năm 2006 sẽ đạt trên 10 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là
một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006.
Đời sống dân cư nhìn chung ổn định. Đời sống của cán bộ, viên chức và người
hưởng lương đã được cải thiện đáng kể nhờ tăng lương theo các Nghị định của
Chính phủ. Đời sống đại đa số nông dân ổn định và từng bước được cải thiện do
sản xuất phát triển và giá nhiều loại nông sản, thực phẩm tăng. Tỷ lệ hộ nghèo
của cả nước và nhiều địa phương tiếp tục giảm, tình trạng thiếu đói giáp hạt
giảm đáng kể so với năm 2005.
Bước vào năm 2007, thế và lực của nền kinh tế nước ta cũng như những kinh nghiệm
tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đều đã được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu
hơn và rộng hơn vào kinh tế thế giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp nhiều khó
khăn, thách thức: trong khi nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh thấp thì giá của nhiều
loại vật tư nguyên liệu đầu vào quan trọng phải nhập khẩu tăng cao. Những tháng
cuối năm lại xuất hiện một số khó khăn không lường trước được như thiên tai,
dịch bệnh. Tuy nhiên, với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự điều
hành quyết liệt khẩn trương có hiệu quả của Chính phủ, hầu hết các chỉ tiêu kinh
tế xã hội đều đạt và vượt mức Quốc hội đề ra, nền kinh tế tiếp tục phát triển,
chính trị xã hội ổn định.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
8,48% so với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%); khu vực nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản tăng 3,41% (kế hoạch 3,5-3,8%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
10,6% đạt kế hoạch đề ra (10,5-10,7%); khu vực dịch vụ tăng 8,68% vượt kế hoạch
đề ra (8,0-8,5%). Năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao trong khu vực
Khái quát lại, năm
2007 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006-2010, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
chỉ đạo sát sao và khẩn trương của Chính phủ, sự nỗ lực của các ngành, các địa
phương nên hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt đều đạt được những kết quả
vượt trội so với năm 2006 và tạo đà cho những năm tiếp theo phát triển mạnh hơn.
Năm 2007, tổng sản phẩm trong nước tăng 8,48, mức tăng của giá trị sản xuất
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và mức tăng giá trị sản xuất công nghiệp đều đạt
chỉ tiêu Quốc hội đề ra; kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng 21,5% cao hơn mức
Quốc hội đề ra; nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp tăng nhanh;
tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007.
Các lĩnh vực xã hội khác như giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá thông tin, thể dục
thể thao cũng có những tiến bộ lớn, quan trọng.
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều biến động phức tạp, khó lường: giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu,
hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo
theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra
tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền
kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; ở trong nước thiên tai, dịch
bệnh xảy ra liên tiếp ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống dân cư.
Năm 2008, GDP theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong
đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng chung của
nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm;
công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm
phần trăm. Trong bối cảnh khó khăn gay gắt thì đây là một cố gắng rất lớn.
Năm 2008 có 8 nhóm hàng/mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD là: Dầu
thô 10,5 tỷ USD; hàng dệt may 9,1 tỷ USD; giày, dép 4,7 tỷ USD; thuỷ sản 4,6 tỷ
USD; gạo 2,9 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD; điện tử, máy tính 2,7 tỷ USD; cà
phê 2 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2007 là gạo và cà phê.
Để đảm bảo an sinh xã hội, ngân sách Nhà nước đã chi 42,3 nghìn tỷ đồng, gồm các
khoản chính sau: Chi trợ giá dầu hoả cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng chưa có
điện thắp sáng; trợ giá dầu cho ngư dân đánh bắt xa bờ; chi bảo trợ xã hội; mua
thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo; cấp học bổng cho học sinh dân tộc
nội trú, bán trú; điều chỉnh tăng 15% mức lương hưu, trợ cấp đối với người về
hưu, người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, người có công với cách mạng; hỗ trợ
đồng bào bị thiên tai lũ lụt; thực hiện miễn giảm các khoản đóng góp của người
dân; miễn thủy lợi phí, không thu phí dự thi, dự tuyển vào các trường trung học
cơ sở, trung học phổ thông; miễn lệ phí trước bạ đối với nhà ở, đất ở của các hộ
nghèo; thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với đồng bào thiểu số đặc biệt
khó khăn, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Nhờ có các chính sách an
sinh xã hội như trên và đặc biệt sản xuất nông nghiệp tuy bị ảnh hưởng của biến
động giá cả dẫn đến chi phí tăng cao nhưng do chỉ đạo kịp thời của các cấp, các
ngành khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định sản xuất nên kết quả đạt khá, đời
sống nông dân vì thế cũng đỡ khó khăn hơn những tháng đầu năm. Do vậy, tỷ lệ hộ
nghèo chung của cả nước năm 2008 ước tính 13,5%, thấp hơn với mức 14,8% của năm
2007.
Khái quát lại, năm 2008 là năm kinh tế-xã hội nước ta phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức, nhất là khủng hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát tăng cao,
thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra trong nước. Tuy nhiên, Đảng, Chính phủ đã
kịp thời đề ra 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững; đồng thời chỉ đạo quyết liệt các
cấp, các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm và đồng bộ các nhóm giải pháp
đó. Những kết quả quan trọng mà chúng ta đạt được trong năm 2008 đã khẳng định
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ là kịp thời và phù hợp với thực tế.
Vì vậy, lạm phát đã được kiềm chế; xuất khẩu ổn định; nhập siêu chuyển biến tích
cực; thu ngân sách nhà nước tiếp tục tăng; thu hút đầu tư nước ngoài phát triển
tốt; sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao; đời sống dân cư ổn định.
Trong 7 tháng đầu năm 2009, kinh tế- xã hội nước ta tuy bị ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế, tài chính thế giới nhưng với tinh thần chủ động sáng tạo của các
doanh nghiệp, cơ sở kinh tế và nhờ việc thực hiện đồng bộ các chính sách, giải
pháp đúng đắn và kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ nên đang phát triển
theo hướng tích cực và đang có dấu hiệu phục hồi. Sản xuất công nghiệp từng bước
ổn định và tiếp tục tăng, nhiều sản phẩm quan trọng vẫn giữ được mức tăng cao.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng về lượng. Chỉ số giá tiêu dùng tăng ở
mức hợp lý. Đời sống nhân dân tiếp tục được quan tâm và cải thiện.
***
Trong hành trình 64 năm, kể từ mùa thu năm 1945, thì Việt Nam đã có 30 năm trải
qua chiến tranh vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến công cuộc đổi
mới ở Việt Nam như một bằng chứng về sự thành công chuyển đổi kinh tế trong lịch
sử đương đại. Tuy vẫn là một nước nghèo, nhưng qua 20 năm tiến hành công cuộc
đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an
ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý
luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Tổng hợp từ Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại
hội Đảng lần thứ X; Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X
tại Đại hội Đảng lần thứ XI; TTX VN và các nguồn khác