Tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm 2012
____________
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng Mười Một, cả nước đã thu hoạch được 1411,2 nghìn ha lúa mùa, bằng 99,7% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc thu hoạch được 1110,6 nghìn ha, bằng 101,1%; các địa phương phía Nam thu hoạch được 300,6 nghìn ha, bằng 94,8%.
Mặc dù bão số 8 đã ảnh hưởng đến năng suất lúa mùa của một số địa phương phía Bắc, nhất là các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, nhưng năng suất lúa mùa toàn miền Bắc ước tính vẫn đạt 47,7 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha so với vụ mùa trước; sản lượng ước tính đạt 5,8 triệu tấn, tăng 36 nghìn tấn. Ở phía Nam, thời tiết cơ bản thuận lợi nên ước tính năng suất lúa mùa đạt 45 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha so với vụ mùa trước, trong đó một số tỉnh có năng suất lúa mùa đạt cao như: Tây Ninh đạt 46,9 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha; Bình Định đạt 45,9 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Nam ước tính đạt 3,5 triệu tấn, tăng 140 nghìn tấn so với vụ mùa năm 2011.
Đến giữa tháng 11/2012, các địa phương phía Nam cũng gieo sạ được 218,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 90,3% cùng kỳ năm trước, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó Đồng Tháp đạt 70,6 nghìn ha, Long An đạt 61,5 nghìn ha; Kiên Giang đạt 40 nghìn ha; Tiền Giang 14,5 nghìn ha...
Cùng với việc thu hoạch lúa mùa, các địa phương phía Bắc đang tập trung chăm sóc và gieo trồng cây vụ đông. Nhìn chung tiến độ gieo trồng cây vụ đông đạt khá do thời tiết thuận lợi và thu hoạch vụ mùa năm nay kết thúc nhanh. Tính đến ngày 15/11/2012, các địa phương phía Bắc gieo trồng được 153,1 nghìn ha ngô, tăng 40,3% so với cùng kỳ năm trước; 42,2 nghìn ha khoai lang, tăng 11,3%; 7,6 nghìn ha lạc, tăng 68,9%; 49,7 nghìn ha đậu tương, bằng 90,9%; 143,8 nghìn ha rau đậu, tăng 4,3%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng tiếp tục gặp khó khăn do giá thịt hơi vẫn ở mức thấp trong khi giá nguyên liệu đầu vào ở mức cao. Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2012, đàn trâu cả nước có 2,6 triệu con, bằng 96,9% cùng thời điểm năm 2011; đàn bò có 5,2 triệu con, bằng 95,5%; đàn lợn có 26,5 triệu con, bằng 97,9%; đàn gia cầm có 308,3 triệu con, bằng 95,6%. Tính đến ngày 25/11/2012, dịch lở mồm long móng và dịch cúm gia cầm đã được khống chế trên phạm vi cả nước; dịch tai xanh trên lợn chưa qua 21 ngày còn ở 4 tỉnh là: Khánh Hòa, Kon Tum, Long An và Sóc Trăng.
b. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung tháng Mười Một ước tính đạt 34,4 nghìn ha, giảm 33,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 5,9 triệu cây, tăng 1,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 582 nghìn m3, tăng 32,9%; sản lượng củi khai thác đạt 2,6 triệu ste, tăng 0,8%. Tính chung mười một tháng, diện tích rừng trồng tập trung cả nước đạt 176 nghìn ha, bằng 87,2% cùng kỳ năm 2011; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 176,9 triệu cây, tăng 0,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4509,5 nghìn m3, tăng 13,6%; sản lượng củi khai thác đạt 27,5 triệu ste, tăng 2,4%.
Thời tiết có mưa nhiều nên nguy cơ cháy rừng đã giảm bớt. Trong tháng chỉ xảy ra 3 vụ cháy rừng với 4,1 ha diện tích rừng bị cháy; diện tích rừng bị chặt phá là 10,8 ha. Tính chung mười một tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 3197,6 ha, tăng 56,9% so với cùng kỳ năm 2011; trong đó diện tích rừng bị cháy là 2091,5 ha, gấp hơn 2 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 1106,1 ha, tăng 5,9%. Ngoài ra, do ảnh hưởng trực tiếp của cơn bão số 8, tại Nam Định đã có 205 ha rừng phòng hộ ven biển bị gãy, đổ.
c. Thuỷ sản
Sản lượng thủy sản tháng Mười Một ước tính đạt 497,5 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 383,4 nghìn tấn, tăng 4,2%; tôm đạt 53,8 nghìn tấn, giảm 4,8%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 282,7 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 230,7 nghìn tấn, tăng 4,4%; tôm đạt 37,3 nghìn tấn, giảm 7,9%. Nuôi cá tra còn gặp nhiều khó khăn do giá bán ở mức thấp, trong khi chi phí đầu vào tăng cao nên diện tích nuôi bị thu hẹp. Nuôi tôm cũng gặp khó khăn do dịch bệnh lan rộng từ những tháng trước đó làm cho phần lớn tôm nuôi phải thu hoạch sớm, năng suất và sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Mười Một ước tính đạt 214,8 nghìn tấn, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó khai thác biển đạt 198,4 nghìn tấn, tăng 4,1%.
Tính chung mười một tháng năm nay, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 5333,8 nghìn tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2881,8 nghìn tấn, tăng 5,4%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2452 nghìn tấn, tăng 4,6%, trong đó khai thác biển đạt 2274,9 nghìn tấn, tăng 5,2%.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11/2012 ước tính tăng 4,8% so với tháng trước và tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung của toàn ngành; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,9%, đóng góp 2,8 điểm phần trăm; sản xuất, phân phối điện, khí đốt tăng 12,4%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,1%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất mười một tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 141,9%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 50,4%; sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ tăng 37%; sản xuất đường tăng 18,9%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 18,3%; sản xuất pin và ắc quy tăng 17,9%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 15,3%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 12,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 11,2%; khai thác dầu thô tăng 11%; sản xuất bia tăng 10,3%; sản xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng 10,2%. Một số ngành có mức tăng khá như: Sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm tăng 9,3%, sản xuất mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 9,3%; khai thác khí đốt tự nhiên tăng 9,1%; sản xuất sợi tăng 8,7%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 8,5%; chế biến và bảo quản thuỷ sản tăng 8,5%; sản xuất các sản phẩm từ plastic tăng 6,3%.
Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất thiết bị dây dẫn điện tăng 5,2%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 3,4%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 1,9%; sản xuất giày, dép giảm 0,6%; sản xuất vải dệt thoi giảm 2,3%; sản xuất sơn, vec ni giảm 2,9%; sản xuất dây cáp, dây điện giảm 3,5%; sản xuất vật liệu từ đất sét giảm 5,6%; sản xuất xi măng giảm 6,2%; sản xuất sản phẩm điện tử gia dụng giảm 7,5%; sản xuất hàng may sẵn giảm 8,3%; khai thác và thu gom than cứng giảm 9,3%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa giảm 9,7%; sản xuất xe có động cơ giảm 14,4%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 16,4%; khai thác đá, cát, sỏi giảm 20%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp mười một tháng của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy mô công nghiệp lớn như sau: TP Hồ Chí Minh tăng 4,5%; Đồng Nai tăng 6,9%; Bình Dương tăng 8,2%; Hà Nội tăng 5%; Hải Phòng tăng 3,7%; Bắc Ninh tăng 20,6%; Vĩnh Phúc giảm 4,5%; Cần Thơ tăng 4,2%; Hải Dương giảm 1,5%; Đà Nẵng tăng 5,7%.
Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười tháng năm 2012 so với cùng kỳ năm trước tăng 3,3%. Các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất đường tăng 107,7%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 37,9%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 31,8%; chế biến và bảo quản thủy sản tăng 25,7%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm tăng 21,9%; sản xuất cấu kiện kim loại tăng 12,2%; sản xuất mì ống, mì sợi tăng 6,8%; may trang phục tăng 6,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ mười tháng tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 3,5%; sản xuất sợi tăng 3,4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,3%; sản xuất giày, dép giảm 2,8%; sản xuất sắt, thép giảm 3,1%; sản xuất bia giảm 7,3%; sản xuất giường, tủ bàn, ghế giảm 7,8%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 10,2%; sản xuất sản phẩm từ plastic giảm 12,2%; sản xuất thiết bị dẫn điện giảm 16,3%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa giảm 17,8%; sản xuất xi măng giảm 18,1%; sản xuất xe có động cơ giảm 19,5%; chế biến sữa và sản phẩm từ sữa giảm 20,5%; sản xuất vải dệt thoi giảm 22,3%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 25,2%; sản xuất dây, cáp điện giảm 42,5%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/11/2012 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 20,9% so với cùng thời điểm năm trước, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với chỉ số tồn kho của thời điểm 01/10/2012. Nguyên nhân do có sự tăng trưởng đột biến sản xuất điện thoại di động cao cấp (Smart phone) là những sản phẩm đang ăn khách, dẫn tới chỉ số sản xuất, tiêu thụ và tồn kho sản phẩm này đều tăng cao. Đồng thời, đây là thời điểm các doanh nghiệp tập trung sản xuất và dự trữ hàng hóa cho tiêu thụ từ nay đến Tết Nguyên đán. Nếu loại trừ sự tăng cao đột biến về tồn kho của sản phẩm điện thoại di động thì chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở mức dưới 20% (trong khi chỉ số tồn kho của cùng thời điểm năm 2011 là 21,5%). Một số ngành có chỉ số tồn kho cao so với cùng thời điểm năm trước là: Sản xuất thiết bị truyền thông tăng 425,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 96,5%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 95%; sản xuất bia tăng 57,6%; may trang phục tăng 48,5%; sản xuất thuốc lá tăng 45%; sản xuất pin, ắc quy tăng 39,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 35,7%; sản xuất xi măng tăng 33%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 26,3%; chế biến và bảo quản thuỷ sản tăng 24,9%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 21,7%. Một số ngành có chỉ số tồn kho thấp hoặc giảm là: Sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét tăng 9,3%; sản xuất dây, cáp điện tăng 5,9%; sản xuất vải dệt thoi tăng 5,1%; sản xuất sợi tăng 1,2%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 2,2%; sản xuất giày, dép giảm 3,8%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 7%; sản xuất thiết bị dẫn điện giảm 27,1%; sản xuất đường giảm 48,2%.
Tỷ lệ giá trị hàng tồn kho tại thời điểm 01/11/2012 so với giá trị sản xuất dự kiến cả năm 2012 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 6,5%, trong đó một số ngành có tỷ lệ giá trị hàng tồn kho khá cao như: Sản xuất xe có động cơ 15,4%; chế biến và bảo quản thuỷ sản 10,8%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 9,8%, sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ 8,3%.
Biến động lao động ngành công nghiệp tháng Mười Một so với tháng Mười của một số địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn như sau: Vĩnh Phúc tăng 2,8%; Đồng Nai tăng 0,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 0,6%; Cần Thơ tăng 0,5%; Bình Dương tăng 0,4%; Hải Dương tăng 0,2%; Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Hải phòng cùng tăng 0,1%; Đà Nẵng giảm 0,3%; Bắc Ninh giảm 1,5%.
3. Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước tháng Mười Một ước tính đạt 22,4 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 5,2 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương 17,2 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười một tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước đạt 186,8 nghìn tỷ đồng, bằng 90% kế hoạch năm và tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 46,3 nghìn tỷ đồng, bằng 91% kế hoạch năm và tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 6877 tỷ đồng, bằng 92,2% và tăng 9,4%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 4256 tỷ đồng, bằng 88,1% và tăng 6,7%; Bộ Xây dựng 1618 tỷ đồng, bằng 88,8% và tăng 9,5%; Bộ Y tế 1005 tỷ đồng, bằng 90,3% và tăng 7,1%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 855 tỷ đồng, bằng 91,9% và tăng 4,3%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 581 tỷ đồng, bằng 91,8% và tăng 5%; Bộ Công Thương 416 tỷ đồng, bằng 92,5% và tăng 8,6%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 140,5 nghìn tỷ đồng, bằng 89,7% kế hoạch năm và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2011. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 19174 tỷ đồng, bằng 80,4% kế hoạch năm và tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2011; Thành phố Hồ Chí Minh 13922 tỷ đồng, bằng 86,6% và tăng 3%; Đà Nẵng 6810 tỷ đồng, bằng 98,8% và tăng 7,8%; Thanh Hóa 3708 tỷ đồng, bằng 98,8% và tăng 9,4%; Quảng Ninh 3508 tỷ đồng, bằng 84,4% và giảm 16%; Bình Dương 3172 tỷ đồng, bằng 85,8% và giảm 3,9%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/11/2012 đạt 12,2 tỷ USD, bằng 78,6% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 980 dự án được cấp phép mới đạt 7,3 tỷ USD, bằng 87,3% số dự án và bằng 60,4% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 406 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 4,9 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện mười một tháng năm 2012 ước tính đạt 10 tỷ USD, bằng 99,5% cùng kỳ năm 2011.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mười một tháng năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 8,5 tỷ USD, chiếm 69,8% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 15,1%; các ngành còn lại đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 15,1%.
Trong mười một tháng cả nước có 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới, trong đó Bình Dương có số vốn đăng ký lớn nhất với 1532,3 triệu USD, chiếm 21,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 1050,6 triệu USD, chiếm 14,5%; Hà Nội 640,6 triệu USD, chiếm 8,8%; Đồng Nai 618,8 triệu USD, chiếm 8,5%; Thành phố Hồ Chí Minh 503,6 triệu USD, chiếm 6,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 433,3 triệu USD, chiếm 6%; Quảng Ninh 390,4 triệu USD, chiếm 5,4%; Long An 224 triệu USD, chiếm 3,1%.
Trong số 51 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam mười một tháng, Nhật Bản tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 3931,5 triệu USD, chiếm 54,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 693,1 triệu USD, chiếm 9,6%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 516,6 triệu USD, chiếm 7,1%; Xin-ga-po 476,5 triệu USD, chiếm 6,6%; Síp 375,6 triệu USD, chiếm 5,2%; CHLB Đức 179,9 triệu USD, chiếm 2,5%; CHND Trung Hoa 176,8 triệu USD, chiếm 2,4%; Đài Loan 168,9 triệu USD, chiếm 2,3%.
4. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/11/2012 ước tính đạt 593,4 nghìn tỷ đồng, bằng 80,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa 380,2 nghìn tỷ đồng, bằng 76,9%; thu từ dầu thô 99,4 nghìn tỷ đồng, bằng 114,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 107,6 nghìn tỷ đồng, bằng 69,9%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước 123,9 nghìn tỷ đồng, bằng 79,8% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 71,8 nghìn tỷ đồng, bằng 73,4%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước 78 nghìn tỷ đồng, bằng 70,1%; thu thuế thu nhập cá nhân 39,8 nghìn tỷ đồng, bằng 86%; thu thuế bảo vệ môi trường 10,9 nghìn tỷ đồng, bằng 82,3%; thu phí, lệ phí 6,8 nghìn tỷ đồng, bằng 75,4%.
Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/11/2012 ước tính đạt 747,2 nghìn tỷ đồng, bằng 82,7% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 144,2 nghìn tỷ đồng, bằng 80,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 138,9 nghìn tỷ đồng, bằng 79,8%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 517,4 nghìn tỷ đồng, bằng 86,1%; chi trả nợ và viện trợ 85,6 nghìn tỷ đồng, bằng 85,6%.
5. Thương mại, giá cả, du lịch
a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Một tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 11% so với cùng kỳ năm 2011. Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười một tháng năm nay ước tính đạt 2117,9 nghìn tỷ đồng, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2011, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 6,4%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười một tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1632,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,1% tổng mức và tăng 15,6%; khách sạn nhà hàng đạt 250,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8% và tăng 18,6%; dịch vụ đạt 212,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 10% và tăng 18,7%; du lịch đạt 22,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,1% và tăng 31,3%.
b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười Một ước tính đạt 10,2 tỷ USD, giảm 1,2% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 104 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 38,4 tỷ USD, tăng 0,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 65,6 tỷ USD, tăng 31,8%.
Trong mười một tháng năm nay, một số mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 11,4 tỷ USD, tăng 101,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,9 tỷ USD, tăng 67,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 5,1 tỷ USD, tăng 29,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,1 tỷ USD, tăng 31%; cà phê đạt 3,3 tỷ USD, tăng 37,1%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng khá là: Dầu thô đạt 7,8 tỷ USD, tăng 15%; giày dép đạt 6,5 tỷ USD, tăng 11%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,2 tỷ USD, tăng 18,3%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,4 tỷ USD, tăng 18%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 1,4 tỷ USD, tăng 17,9%. Riêng kim ngạch xuất khẩu gạo và than đá giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó gạo đạt 3,4 tỷ USD, giảm 1,8%; than đá đạt 1,1 tỷ USD, giảm 27,2% về kim ngạch và giảm 16,1% về lượng.
Trong mười một tháng năm nay, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta với kim ngạch ước tính đạt 18 tỷ USD, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm 2011. Tiếp đến là thị trường Hoa Kỳ đạt 17,9 tỷ USD, tăng 17%; ASEAN đạt 15,8 tỷ USD, tăng 28%; Nhật Bản đạt 11,9 tỷ USD, tăng 23,3%; Trung Quốc đạt 11,2 tỷ USD, tăng 11,1%; Hàn Quốc đạt 5 tỷ USD, tăng 16,3%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Một ước tính đạt gần 10,3 tỷ USD, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt gần 104 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 49 tỷ USD, giảm 7,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 55 tỷ USD, tăng 24,3%.
Trong mười một tháng năm nay, một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 14,6 tỷ USD, tăng 3,4%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 12,1 tỷ USD, tăng 74,4%; vải đạt 6,4 tỷ USD, tăng 3,7%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 4,4 tỷ USD, tăng 82,4%; chất dẻo đạt 4,4 tỷ USD, tăng 0,6%; nguyên phụ liệu dệt, may giày, dép đạt 2,9 tỷ USD, tăng 5,5%; hóa chất đạt 2,6 tỷ USD, tăng 3,8%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 2,3 tỷ USD, tăng 9,2%; sản phẩm hóa chất đạt 2,2 tỷ USD, tăng 3,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,9 tỷ USD, tăng 23,2%; tân dược đạt 1,6 tỷ USD, tăng 20,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,4 tỷ USD, tăng 22,5%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 8,4 tỷ USD, giảm 9,3%; sắt thép đạt 5,5 tỷ USD, giảm 6,2%; kim loại thường đạt 2,4 tỷ USD, giảm 3,3%; ô tô đạt 1,9 tỷ USD, giảm 34,3%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 537 triệu USD, giảm 43,9%; phân bón đạt 1,5 tỷ USD, giảm 8,6%; sợi dệt đạt 1,3 tỷ USD, giảm 10,6%; bông đạt 819 triệu USD, giảm 17,5%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu mười một tháng năm 2012, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch ước tính đạt 26,2 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2011. Tiếp đến là ASEAN đạt 19,3 tỷ USD, giảm 0,5%; Hàn Quốc đạt 14,2 tỷ USD, tăng 18,4%; Nhật Bản đạt 10,7 tỷ USD, tăng 13,8%; EU đạt 8 tỷ USD, tăng 14,6%; Hoa Kỳ đạt 4,3 tỷ USD, tăng 5,6%.
Nhập siêu tháng Mười Một ước tính 50 triệu USD, bằng 0,5% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Tính chung mười một tháng xuất siêu 14 triệu USD, bằng 0,01% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
c. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2012 tăng 0,47% so với tháng trước, thấp hơn so với mức tăng 0,85% của tháng Mười, trong đó: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 5,16% (riêng dịch vụ y tế tăng 6,66% do trong tháng còn hai tỉnh thực hiện tăng giá dịch vụ y tế theo Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC ngày 29/02/2012 của Bộ Y tế - Bộ Tài chính); may mặc, giày dép và mũ nón tăng 0,83%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,56%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,53%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại tăng 0,03-0,42%; riêng hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,08% (lương thực tăng 0,05%; thực phẩm giảm 0,21%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,2%); bưu chính viễn thông giảm 0,01%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2012 tăng 6,52% so với tháng 12/2011 và tăng 7,08% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân mười một tháng năm 2012 tăng 9,43% so với bình quân cùng kỳ năm 2011.
Chỉ số giá vàng tháng 11/2012 giảm 1,98% so với tháng trước; giảm 0,06% so với tháng 12/2011 và giảm 1,03% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2012 giảm 0,11% so với tháng trước; giảm 0,99% so với tháng 12/2011 và giảm 0,97% so với cùng kỳ năm 2011.
d. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách mười một tháng năm 2012 ước tính đạt 2612 triệu lượt khách, tăng 12,5% và 112,3 tỷ lượt khách.km, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 38,4 triệu lượt khách, tăng 7,6% và 26,7 tỷ lượt khách.km, tăng 6,8%; vận tải địa phương đạt 2573,6 triệu lượt khách, tăng 12,5% và 85,5 tỷ lượt khách.km, tăng 10,4%. Vận tải hành khách đường bộ mười một tháng ước tính đạt 2415,3 triệu lượt khách, tăng 13,7% và 83,6 tỷ lượt khách.km, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 167,7 triệu lượt khách, giảm 3% và 3,7 tỷ lượt khách.km, giảm 3,3%; đường hàng không đạt 12,5 triệu lượt khách, tăng 0,3% và 20,6 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9%; đường sắt đạt 11 triệu lượt khách, tăng 0,5% và 4 tỷ lượt khách.km, giảm 3,2%; đường biển đạt 5,6 triệu lượt khách, giảm 1,3% và 319 triệu lượt khách.km, giảm 0,8%.
Vận tải hàng hóa mười một tháng ước tính đạt 865,9 triệu tấn, tăng 9,4% và 169,5 tỷ tấn.km, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 831,2 triệu tấn, tăng 10,5% và 58,9 tỷ tấn.km, tăng 0,7%; vận tải ngoài nước đạt 34,7 triệu tấn, giảm 15% và 110,5 tỷ tấn.km, giảm 18,7%. Vận tải hàng hoá đường bộ mười một tháng đạt 677,1 triệu tấn, tăng 11,7% và 35,5 tỷ tấn.km, tăng 9,3%; đường sông đạt 141,6 triệu tấn, tăng 6,3% và 14,2 tỷ tấn.km, tăng 5,4%; đường biển đạt 40,5 triệu tấn, giảm 18% và 115,6 tỷ tấn.km, giảm 20%; đường sắt đạt 6,5 triệu tấn, giảm 2% và 3,7 tỷ tấn.km, giảm 3%.
đ. Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới mười một tháng năm 2012 đạt trên 11,2 triệu thuê bao, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 16,5 nghìn thuê bao cố định, bằng 34,8% cùng kỳ và 11,1 triệu thuê bao di động, tăng 6,6%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 11/2012 ước tính đạt 135,9 triệu thuê bao, tăng 3,1% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm: 14,9 triệu thuê bao cố định, giảm 3% và 120,9 triệu thuê bao di động, tăng 3,9%.
Số thuê bao internet cả nước tính đến cuối tháng 11/2012 ước tính đạt 4,4 triệu thuê bao, tăng 8,6% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông mười một tháng ước tính đạt 159,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2011.
e. Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta mười một tháng ước tính đạt 6035,9 nghìn lượt người, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 3600,4 nghìn lượt người, tăng 9,4%; đến vì công việc 1058,4 nghìn lượt người, tăng 17,1%; thăm thân nhân đạt 1048,4 nghìn lượt người, tăng 15,5%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 5059,2 nghìn lượt người, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2011; bằng đường biển 73,5 nghìn lượt người, tăng 94,2%; bằng đường bộ 903,2 nghìn lượt người, tăng 6,9%.
Trong mười một tháng qua, hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta lớn đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Trung Quốc là 1287,6 nghìn lượt người, tăng 0,8%; Hàn Quốc 635,9 nghìn lượt người, tăng 31,5%; Nhật Bản 524,5 nghìn lượt người, tăng 20,8%; Hoa Kỳ 407,3 nghìn lượt người, tăng 2,7%; Đài Loan 380,8 nghìn lượt người, tăng 17%; Ma-lai-xi-a 264 nghìn lượt người, tăng 25,6%; Ôx-trây-li-a 261,6 nghìn lượt người, tăng 0,2%; Thái Lan 204,2 nghìn lượt người, tăng 24,6%; Pháp 202,9 nghìn lượt người, tăng 6,5%. Riêng khách đến từ Căm-pu-chia đạt 299,4 nghìn lượt người, giảm 21,6%.
6. Một số vấn đề xã hội
a. Thiếu đói trong nông dân
Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, trong tháng Mười Một cả nước có 13,1 nghìn hộ thiếu đói, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 59,2 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 7,9%. Tình trạng thiếu đói xảy ra chủ yếu ở các tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, trong tháng Mười Một, các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói gần 900 tấn lương thực.
b. Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Mười Một, trên địa bàn cả nước có 11,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (12 trường hợp tử vong); 136 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 56 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 22 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng (2 trường hợp tử vong) và 4 vụ ngộ độc thực phẩm với 243 nghìn người bị ngộ độc. Tính chung mười một tháng, cả nước có 71,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (61 trường hợp tử vong); 758 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (17 trường hợp tử vong); 125 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (5 trường hợp tử vong); 564 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 138,4 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng (44 trường hợp tử vong) và 120 vụ ngộ độc thực phẩm với 4,9 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 20 trường hợp tử vong.
Trong tháng cả nước đã phát hiện thêm 1,3 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước đến ngày 17/11/2012 lên 261,4 nghìn người, trong đó 107,1 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 54 nghìn người tử vong do AIDS.
c. Tai nạn giao thông
Trong tháng (từ 16/10 đến 15/11/2012), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1138 vụ tai nạn giao thông, làm chết 875 người và làm bị thương 848 người. Riêng tai nạn giao thông đường bộ chiếm 98,1% về số vụ; 97,7% về số người chết và 99,2% về số người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 4,7%; số người chết tăng 1,3%; số người bị thương giảm 6,6%. Tính chung mười một tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 9727 vụ tai nạn giao thông, làm chết 8558 người và làm bị thương 7022 người. So với cùng kỳ năm 2011, số vụ tai nạn giao thông mười một tháng giảm 19,8%; số người chết giảm 15,5%; số người bị thương giảm 24,4%. Bình quân một ngày trong mười một tháng năm 2012, trên địa bàn cả nước xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, làm chết 26 người và làm bị thương 21 người.
d. Thiệt hại do thiên tai gây ra
Trong tháng (từ 21/10 đến 20/11) thiên tai xảy ra tại một số địa phương, đặc biệt là cơn bão số 8 xảy ra cuối tháng Mười gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai (chủ yếu là do cơn bão số 8 gây ra) đã làm 18 người chết, mất tích và 82 người bị thương; gần 370 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 48,6 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở và tốc mái; 28,9 nghìn ha lúa và 83,3 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Hải Dương, Nam Định và Thái Bình là các địa phương bị thiệt hại nặng nhất với tổng số 8 người chết, mất tích và 73 người bị thương; 280 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 27,6 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở và tốc mái; 68,3 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính 3830,1 tỷ đồng, trong đó Thái Bình thiệt hại lớn nhất với 1400 tỷ đồng; Nam Định 872 tỷ đồng; Hải Dương 805 tỷ đồng.
đ. Tình hình cháy, nổ
Tình hình cháy, nổ diễn ra tương đối phức tạp. Trong tháng Mười Một, cả nước đã xảy ra 159 vụ cháy, nổ, trong đó có 151 vụ cháy làm 4 người chết và 8 vụ nổ làm 3 người chết. So với tháng trước, số vụ cháy tăng 12,7% và số vụ nổ tăng 60%. Tổng giá trị thiệt hại ước tính trên 119 tỷ đồng.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Hai tỉnh Nghệ An và Sơn La thực hiện tăng giá dịch vụ y tế theo các Nghị quyết của HĐND tỉnh và Quyết định của UBND tỉnh ban hành trước khi có Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 26/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá những tháng cuối năm 2012.