Tình hình kinh tế - xã hội 7 tháng đầu năm 2012
_________
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy lúa mùa, lúa hè thu và thu hoạch lúa hè thu sớm. Tính đến 15/7/2012, cả nước đã gieo cấy được 961,3 nghìn ha lúa mùa, bằng 121,9% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gặp thời tiết thuận lợi nên diện tích gieo cấy đạt 769,2 nghìn ha, bằng 135,7%; các địa phương phía Nam gieo cấy 192,1 nghìn ha, bằng 86,6% do ảnh hưởng lũ rút chậm nên gieo cấy muộn so với lịch thời vụ. Các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng gieo cấy 343,3 nghìn ha, tăng 55,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số địa phương có tiến độ gieo cấy nhanh là: Bắc Ninh 11,1 nghìn ha, tăng 238%; Hải Dương 52,8 nghìn ha, tăng 130%; Hải Phòng 15,7 nghìn ha, tăng 350%; Hưng Yên 34,9 nghìn ha, tăng 84%. Các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ gieo cấy đạt 123,8 nghìn ha, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Nét nổi bật trong vụ mùa năm nay là một số địa phương có kế hoạch và chính sách khuyến khích bà con nông dân quy hoạch vùng sản xuất lúa lai, lúa hàng hóa chất lượng và xây dựng mô hình thí điểm “Cánh đồng mẫu lớn” nên nhiều địa phương mở rộng quy mô, tập trung gieo trồng các loại giống lúa cho giá trị kinh tế cao.
Cũng đến trung tuần tháng Bảy, cả nước đã gieo cấy được 2358,3 nghìn ha lúa hè thu, bằng 103,5% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy 1915 nghìn ha, bằng 100,8%. Cùng với việc gieo cấy lúa hè thu, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được 600 nghìn ha lúa hè thu sớm, chiếm 31% diện tích xuống giống và bằng 84,1% cùng kỳ năm trước.
Gieo trồng các loại rau, màu cũng được được đẩy nhanh tiến độ. Tính đến giữa tháng Bảy, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 834,7 nghìn ha ngô, bằng 92,9% cùng kỳ năm trước; 105,7 nghìn ha khoai lang, bằng 86,5%; 77,3 nghìn ha đậu tương, bằng 54,2%; 182,3 nghìn ha lạc, bằng 90,8%; 680,9 nghìn ha rau, đậu, bằng 103%.
Chăn nuôi trong tháng gặp nhiều khó khăn do giá sản phẩm chăn nuôi đang ở mức thấp, ảnh hưởng đến khả năng tái đàn. Bên cạnh đó, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn xảy ra ở một số địa phương, đặc biệt ở hai tỉnh có mật độ chăn nuôi lớn là Đồng Nai và Bình Dương nên có nguy cơ lây lan rộng. Đàn trâu, bò cả nước ước tính giảm 5-7% so với cùng kỳ năm 2011; riêng chăn nuôi bò sữa tiếp tục phát triển thuận lợi, một số doanh nghiệp tập trung mở rộng quy mô đàn và áp dụng công nghệ cao trong chăn nuôi và chế biến sản phẩm. Đàn lợn tăng 1-1,3%; đàn gia cầm tăng 5-6%. Giá thịt gia cầm hiện đang giảm, đặc biệt giá trứng gia cầm giảm mạnh từ 38-40% khiến các hộ chăn nuôi sản xuất cầm chừng.
Tính đến ngày 25/7/2012, dịch lở mồm, long móng trên trâu, bò đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh: Dịch cúm gia cầm ở Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Bình; dịch tai xanh trên lợn ở Nghệ An, Đắk Lắk, Đồng Nai và Bình Dương.
b. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Bảy của cả nước ước tính đạt 34,1 nghìn ha, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2011; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 16,4 triệu cây, tăng 1,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 380 nghìn m3, tăng 11,1%; sản lượng củi khai thác đạt 2,35 triệu ste, tăng 2,2%. Tính chung bảy tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 87,9 nghìn ha, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 125,1 triệu cây, tăng 0,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2628,8 nghìn m3, tăng 11,9%; sản lượng củi khai thác 16,9 triệu ste, tăng 2,7%.
Thời tiết khô hanh và nắng nóng kéo dài nhiều ngày trong tháng ở khu vực Trung bộ nên một số địa phương có nguy cơ cháy rừng cao, đặc biệt các tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Khánh Hòa, Phú Yên. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Bảy là 79 ha, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 48 ha; diện tích bị chặt phá là 31 ha. Diện tích rừng bị thiệt hại bảy tháng là 2290 ha bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 1666 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 624 ha.
c. Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản tháng Bảy ước tính đạt 531,3 nghìn tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá 379,2 nghìn tấn, tăng 3,4%; tôm 101,2 nghìn tấn, tăng 7,3%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng Bảy ước tính đạt 344,2 nghìn tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó cá 232,6 nghìn tấn, tăng 3%; tôm 91,8 nghìn tấn, tăng 8%. Nuôi cá tra gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ do nguồn vốn của các doanh nghiệp chế biến bị hạn chế. Vì vậy, giá cá tra nguyên liệu tiếp tục giảm mạnh với mức giá khoảng 18 - 19 nghìn đồng/kg (Giảm gần 10 nghìn đồng/kg so mức giá cao điểm vào tháng Tư năm nay). Sản lượng cá tra thu hoạch trong tháng của một số địa phương trọng điểm như sau: Đồng Tháp 25,7 nghìn tấn; An Giang 20,5 nghìn tấn; Cần Thơ 13 nghìn tấn; Vĩnh Long 4 nghìn tấn; Trà Vinh 1,6 nghìn tấn.
Nuôi tôm tại các địa phương đang vào kỳ thu hoạch vụ chính. Sản lượng tôm thu hoạch trong tháng đạt 91,8 nghìn tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Cà Mau đạt 13 nghìn tấn; Long An 4,9 nghìn tấn; Kiên Giang 3,7 nghìn tấn; Trà Vinh 3,4 nghìn tấn; Bạc Liêu 2,3 nghìn tấn; Bến Tre 1,7 nghìn tấn. Dịch bệnh trên tôm mặc dù cơ bản đã được khống chế nhưng trong tháng phát sinh rải rác một số diện tích tôm nuôi bị bệnh đốm trắng tại một vài địa phương như: Tiền Giang, Quảng Trị.
Hoạt động khai thác hải sản trong tháng tương đối thuận lợi do chưa có bão lớn xảy ra, lại đang vào thời điểm chính vụ cá Nam nên ngư dân tập trung ra khơi bám biển nhiều hơn. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Bảy ước tính đạt 187,1 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó khai thác biển đạt 170,3 nghìn tấn, tăng 4,1%. Tính chung bảy tháng, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 3180,5 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Sản lượng nuôi trồng đạt 1731 nghìn tấn, tăng 6,4%; sản lượng khai thác đạt 1449,5 nghìn tấn, tăng 4% (khai thác biển đạt 1356,2 nghìn tấn, tăng 4,6%). Sản lượng khai thác cá ngừ đại dương đạt khá, một số tỉnh có sản lượng cao là: Phú Yên 6000 tấn, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước; Bình Định 5635 tấn, tăng 49,8%.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7/2012 tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bảy tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong chỉ số sản xuất chung bảy tháng của toàn ngành công nghiệp, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai thác mỏ tăng 3,2%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm vào mức tăng của toàn ngành; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,3%, đóng góp 3,1 điểm phần trăm; ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 13,7%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 9,8%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất bảy tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 156,6%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 74,3% sản xuất phụ tùng xe có động cơ tăng 54,2%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 31,6%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 19,9%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 17,9%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thruy sản tăng 14,4%; sản xuất đường tăng 12,8%; khai thác dầu thô tăng 11,9%;... Các ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá là: Thu gom rác thải không độc hại tăng 10,5%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 10,4%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 9,8%; sản xuất bia tăng 9,7%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,4%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 8%.
Một số ngành có tốc độ tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 5,8%; sản xuất sợi tăng 4,1%; sản xuất thuốc lá tăng 2,7%; khai thác khí đốt tự nhiên giảm 3,2%; khai thác than cứng giảm 3,5%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 3,6%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 4,7%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét, sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn và bao bì từ giấy cùng giảm 6,5%; sản xuất xi măng giảm 8%; sản xuất mô tơ, máy phát, biến thế điện, thiết bị phân phối và điều khiển điện giảm 9,7%; sản xuất xe có động cơ giảm 11,1%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 11,9%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 14,1%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 17,9%; khai thác đá, cát, sỏi, đất sét và cao lanh giảm 22,9%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn bảy tháng năm 2012 so với cùng kỳ năm trước như sau: Bắc Ninh tăng 30%; Bình Dương tăng 8,2%; Đồng Nai tăng 7,1%; Hải Phòng tăng 6,4%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,6%; Đà Nẵng tăng 5,1%; Hà Nội tăng 4,7%; Cần Thơ tăng 2,3%; Hải Dương giảm 1,1%; Vĩnh Phúc giảm 5,6%.
Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến sáu tháng đầu năm tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất xe có động cơ tăng 70,3%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 41,7%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 40,5%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 34,4%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 31,5%; sản xuất đường tăng 31,1%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 29,4%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 24,6%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 20,8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất bê tông và các sản phẩm khác từ xi măng, thạch cao tăng 5,9%; sản xuất mỳ ống, mỳ sợi tăng 5,5%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 3,8%; sản xuất pin và ắc qui tăng 1%; sản xuất bia tăng 0,6%; sản xuất vải dệt thoi giảm 0,8%; sản xuất các cấu kiện kim loại giảm 1,8%; sản xuất sợi giảm 3,6%; sản xuất thiết bị dẫn điện giảm 4,4%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 6,3%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 9,3%; sản xuất giày, dép giảm 12,6%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 13,6%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 18,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 34%; sản xuất dây, cáp điện giảm 59,8%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/7/2012 của ngành công nghiệp chế biến tăng 21% so với cùng thời điểm năm trước, mức tăng tiếp tục giảm so với các tháng trước. Tuy nhiên, một số ngành vẫn có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 103,3%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 98,5%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 74,4%; sản xuất các thiết bị khác bằng kim loại tăng 68,5%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 61,5%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 53,8%; sản xuất xi măng tăng 49,2%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 39,4%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 35%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 33,3%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 20,8%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất bia tăng 15,9%; sản xuất pin và ắc qui tăng 11,3%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 10%; sản xuất xe có động cơ tăng 9,4%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 2,7%; sản xuất sợi tăng 1,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 1,1%; sản xuất các cấu kiện kim loại giảm 4%; sản xuất vải dệt thoi giảm giảm 4,1%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 6,7%; sản xuất mỳ ống, mỳ sợi giảm 11,8%; sản xuất giày, dép giảm 15,8%; sản xuất đường giảm 52,4%.
3. Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước tháng Bảy ước tính đạt 19585 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 4645 tỷ đồng; vốn địa phương 14940 tỷ đồng. Tính chung bảy tháng năm 2012, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước đạt 105,8 nghìn tỷ đồng, bằng 51% kế hoạch năm và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 26,3 nghìn tỷ đồng, bằng 51,8% kế hoạch năm và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 3973 tỷ đồng, bằng 53,2% và tăng 9,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2385 tỷ đồng, bằng 49,3% và tăng 5,8%; Bộ Xây dựng 882 tỷ đồng, bằng 48,4% và tăng 5,4%; Bộ Y tế 586 tỷ đồng, bằng 52,7% và tăng 5,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 492 tỷ đồng, bằng 52,9% và tăng 3,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 343 tỷ đồng, bằng 54,1% và tăng 3,8%; Bộ Công Thương 232 tỷ đồng, bằng 51,5% và tăng 6,7%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 79,5 nghìn tỷ đồng, bằng 50,7% kế hoạch năm và tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2011. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như sau: Hà Nội đạt 9450 tỷ đồng, bằng 39,6% kế hoạch năm và tăng 5% so với cùng kỳ năm 2011; Thành phố Hồ Chí Minh 8075 tỷ đồng, bằng 50,3% và tăng 14,6%; Đà Nẵng 4322 tỷ đồng, bằng 62,7% và tăng 9,3%; Thanh Hóa 2213 tỷ đồng, bằng 59% và tăng 14,6%; Quảng Ninh 2128 tỷ đồng, bằng 51,2% và giảm 4,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1828 tỷ đồng, bằng 48,3% và tăng 19,4%; Lào Cai 1639 tỷ đồng, bằng 50,2% và tăng 11,4%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/7/2012 đạt 8030 triệu USD, bằng 66,9% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 584 dự án được cấp phép mới đạt 5199,3 triệu USD, bằng 83,7% số dự án và bằng 55,9% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 231 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 2830,5 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện bảy tháng năm nay ước tính đạt 6,3 tỷ USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước.
Trong tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành bảy tháng năm 2012, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 5503,3 triệu USD, bao gồm: 3230,9 triệu USD của 258 dự án cấp phép mới và 2272,4 triệu USD vốn tăng thêm; ngành kinh doanh bất động sản đạt 1610 triệu USD, bao gồm: 1233,6 triệu USD của 7 dự án cấp phép mới và 376,4 triệu USD vốn tăng thêm.
Cả nước có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong bảy tháng năm nay, trong đó Bình Dương có số vốn đăng ký lớn nhất với 1451,2 triệu USD, chiếm 27,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 885,1 triệu USD, chiếm 17%; Đồng Nai 630,4 triệu USD, chiếm 12,1%; Quảng Ninh 390,4 triệu USD, chiếm 7,5%; Thành phố Hồ Chí Minh 267,6 triệu USD, chiếm 5,1%; Ninh Bình 186,6 triệu USD, chiếm 3,6%; Khánh Hòa 180,3 triệu USD, chiếm 3,5%.
Trong số 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam bảy tháng, Nhật Bản tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 3582,3 triệu USD, chiếm 68,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 415,7 triệu USD, chiếm 8%; Hàn Quốc 344,6 triệu USD, chiếm 6,6%; CHND Trung Hoa 179,4 triệu USD, chiếm 3,4%; Xin-ga-po 178,6 triệu USD, chiếm 3,4%; Hà Lan 108,2 triệu USD, chiếm 2,1%, v.v.
4. Thu, chi ngân sách nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2012 ước tính đạt 363 nghìn tỷ đồng, bằng 49% dự toán năm, trong đó thu nội địa 234,1 nghìn tỷ đồng, bằng 47,3%; thu từ dầu thô 62 nghìn tỷ đồng, bằng 71,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 64 nghìn tỷ đồng, bằng 41,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước 79,4 nghìn tỷ đồng, bằng 51,1% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 42 nghìn tỷ đồng, bằng 43%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước 48,4 nghìn tỷ đồng, bằng 43,6%; thuế thu nhập cá nhân 27 nghìn tỷ đồng, bằng 58,3%; thuế bảo vệ môi trường 6,7 nghìn tỷ đồng, bằng 50,9%; thu phí, lệ phí 4,2 nghìn tỷ đồng, bằng 46,7%.
Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2012 ước tính đạt 454,4 nghìn tỷ đồng, bằng 50,3% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 89,9 nghìn tỷ đồng, bằng 49,9% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 86,6 nghìn tỷ đồng, bằng 49,8%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 308,2 nghìn tỷ đồng, bằng 51,3%; chi trả nợ và viện trợ 56,3 nghìn tỷ đồng, bằng 56,3%.
5. Thương mại, giá cả và dịch vụ
a. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bảy tháng, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 1327,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 6,7%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bảy tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1027,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,4% tổng mức và tăng 18,2%; khách sạn nhà hàng đạt 155,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,7% và tăng 19,3%; dịch vụ đạt 131,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% và tăng 21,7%; du lịch đạt 13,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 26,6%.
b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Bảy ước tính đạt 9,6 tỷ USD, giảm 2,9% so với tháng trước và tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2011. Tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 62,9 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 23,9 tỷ USD, giảm 1,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 39 tỷ USD, tăng 36,6%.
Trong bảy tháng năm nay, một số mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 6,2 tỷ USD, tăng 151,6%; giày dép đạt 4,2 tỷ USD, tăng 16%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4 tỷ USD, tăng 81,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,1 tỷ USD, tăng 40,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,5 tỷ USD, tăng 50,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,5 tỷ USD, tăng 21,2%; cà phê đạt gần 2,5 tỷ USD, tăng 21,2%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 905 triệu USD, tăng 47,3%; sản phẩm chất dẻo đạt 898 triệu USD, tăng 20,9%. Một số mặt hàng xuất khẩu có mức kim ngạch tăng khá là: Hàng dệt may đạt 8,2 tỷ USD, tăng 8,8%; dầu thô đạt 4,7 tỷ USD, tăng 10,9%; thủy sản đạt 3,4 tỷ USD, tăng 6,6%. Riêng xuất khẩu gạo và than đá tiếp tục giảm cả về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm trước, trong đó gạo xuất khẩu đạt 4,6 triệu tấn, giảm 2% và kim ngạch đạt 2,1 tỷ USD, giảm 9,3%; than đá đạt 8,2 triệu tấn, giảm 18,9% và kim ngạch đạt 719 triệu USD, giảm 25,3%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu bảy tháng, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất với kim ngạch ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2011, chiếm 17,4% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; tiếp đến là EU đạt gần 11 tỷ USD, tăng 24%, chiếm 17,4%; ASEAN đạt 9,4 tỷ USD, tăng 26,1%, chiếm 15%; Nhật Bản đạt 7,6 tỷ USD, tăng 39,6%, chiếm 12,1%; Trung Quốc đạt 7 tỷ USD, tăng 21,9%, chiếm 11,1%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Bảy ước tính đạt 9,5 tỷ USD, xấp xỉ mức nhập khẩu tháng trước và tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 63 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 30 tỷ USD, giảm 7,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 32,9 tỷ USD, tăng 25,3%.
Trong bảy tháng năm nay, một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 9 tỷ USD, tăng 5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,7 tỷ USD, tăng 92,3%; nguyên phụ liệu dệt may giày, dép đạt 1,8 tỷ USD, tăng 1,6%; hóa chất đạt 1,6 tỷ USD, tăng 5,8%; sản phẩm hóa chất đạt 1,4 tỷ USD, tăng 3,4%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,2 tỷ USD, tăng 26,1%; tân dược đạt 989 triệu USD, tăng 19,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 5,4 tỷ USD, giảm 8,7%; kim loại thường đạt 1,4 tỷ USD, giảm 8,7%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,3 tỷ USD, giảm 6,9%; ô tô đạt 1,2 tỷ USD, giảm 34,1%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 334 triệu USD, giảm 52,2%; phân bón đạt 799 triệu USD, giảm 10,1%; sợi dệt đạt 780 triệu USD, giảm 14,9%; bông đạt 524 triệu USD, giảm 25,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 448 triệu USD, giảm 31,6%.
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa bảy tháng năm nay, Trung Quốc là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 15,3 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2011; ASEAN đạt 12 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc đạt 8,6 tỷ USD, tăng 20,7%; Nhật Bản đạt 6,4 tỷ USD, tăng 12,1%; EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 14,9%; Hoa Kỳ đạt 2,7 tỷ USD, tăng 5,1%.
Xuất siêu tháng Bảy ước tính 100 triệu USD, bằng 1,0% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu bảy tháng năm 2012 là 58 triệu USD, bằng 0,09% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
c. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Bảy tiếp tục giảm ở mức 0,29% so với tháng trước. Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá giảm, nhóm giao thông giảm mạnh nhất với mức 2,71%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,47% (Lương thực giảm 1,49%; thực phẩm giảm 0,45%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,51%); nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,93%; bưu chính viễn thông giảm 0,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng là: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 3,36%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,46%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,4%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,33%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,22%; giáo dục tăng 0,11%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2012 tăng 2,22% so với tháng 12/2011 và tăng 5,35% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân bảy tháng năm nay tăng 11,20% so với bình quân cùng kỳ năm 2011.
Chỉ số giá vàng tháng 7/2012 giảm 0,31% so với tháng trước; giảm 7,8% so với tháng 12/2011 và tăng 7,84% so với cùng kỳ năm 2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 7/2012 giảm 0,05% so với tháng trước; giảm 0,85% so với tháng 12/2011 và tăng 1,31% so với cùng kỳ năm 2011.
d. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách bảy tháng năm 2012 ước tính đạt 1942,5 triệu lượt khách, tăng 12,3% và 80 tỷ lượt khách.km, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 26,8 triệu lượt khách, tăng 9,5% và 17,1 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9%; vận tải địa phương đạt 1915,7 triệu lượt khách, tăng 13,2% và 62,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11,1%. Vận tải hành khách đường bộ bảy tháng ước tính đạt 1799,5 triệu lượt khách, tăng 13,3% và 61,6 tỷ lượt khách.km, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 123,9 triệu lượt khách, giảm 0,2% và 2,6 tỷ lượt khách.km, giảm 0,4%; đường hàng không đạt 8,1 triệu lượt khách, tăng 1,8% và 12,8 tỷ lượt khách.km, tăng 8,9%; đường sắt đạt 7,4 triệu lượt khách, tăng 2,4% và 2,7 tỷ lượt khách.km, tăng 0,9%; đường biển đạt 3,5 triệu lượt khách, tăng 1,8% và 199,7 triệu lượt khách.km, tăng 2,3%.
Vận tải hàng hóa bảy tháng ước tính đạt 505 triệu tấn, tăng 9,5% và 107,8 tỷ tấn.km, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 483 triệu tấn, tăng 11,6% và 39,6 tỷ tấn.km, tăng 1,2%; vận tải ngoài nước đạt 22 triệu tấn, giảm 11,9% và 68,1 tỷ tấn.km, giảm 12,7%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 396,8 triệu tấn, tăng 12% và 21,2 tỷ tấn.km, tăng 8,9%; đường sông đạt 78,2 triệu tấn, tăng 5,4% và 8 tỷ tấn.km, tăng 5,8%; đường biển đạt 25,9 triệu tấn, giảm 13,8% và 76 tỷ tấn.km, giảm 14,7%; đường sắt đạt 4 triệu tấn, giảm 5,3% và 2,3 tỷ tấn.km, giảm 4,8%.
e. Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới bảy tháng năm nay ước tính đạt 6453,5 nghìn thuê bao, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 15,2 nghìn thuê bao cố định, bằng 41,6% cùng kỳ và 6438,4 triệu thuê bao di động, tăng 14,8%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 7/2012 ước tính đạt 136,6 triệu thuê bao, tăng 2,1% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,2 triệu thuê bao cố định, giảm 1,9% và 121,4 triệu thuê bao di động, tăng 2,6%.
Số thuê bao internet trên cả nước tính đến cuối tháng 7/2012 ước tính đạt 4,4 triệu thuê bao, tăng 26,6% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông bảy tháng đầu năm nay ước tính đạt 88,5 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2011.
f. Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong bảy tháng năm nay ước tính đạt 3832.4 nghìn lượt người, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2277,2 nghìn lượt người, tăng 9%; đến vì công việc 663,9 nghìn lượt người, tăng 14,8%; thăm thân nhân đạt 676,7 nghìn lượt người, tăng 14,7%.
Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 773 nghìn lượt người, tăng 0,8%; Hàn Quốc 421 nghìn lượt người, tăng 37,9%; Nhật Bản 329,5 nghìn lượt người, tăng 21,4%; Đài Loan 254,9 nghìn lượt người, tăng 16,4%; Ma-lai-xi-a 169 nghìn lượt người, tăng 24%; Pháp 137,5 nghìn lượt người, tăng 9%; Thái Lan 120,9 nghìn lượt người, tăng 22,7%. Một số nước có lượng khách đến nước ta giảm so với cùng kỳ năm trước là: Hoa Kỳ 279,3 nghìn lượt người, giảm 0,3%; Cam-pu-chia 187,4 nghìn lượt người, giảm 21,5%; Ôx-trây-li-a 170,2 nghìn lượt người, giảm 5,1%.
6. Một số vấn đề xã hội
a. Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng Bảy, cả nước có 15,1 nghìn hộ thiếu đói, giảm 48,8% so với tháng trước, tương ứng 66,4 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 49%. So với cùng kỳ năm 2011, số hộ thiếu đói giảm 26,8% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 28,4%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 21,6 nghìn tấn lương thực và 24,4 tỷ đồng, riêng tháng Bảy đã hỗ trợ khoảng 760 tấn lương thực.
b. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Bảy, cả nước có trên 7,5 nghìn trường hợp mắc bệnh tay, chân, miệng (6 trường hợp tử vong); 6,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (8 trường hợp tử vong); 10 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 33 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút và 21 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Tính chung bảy tháng năm 2012, cả nước có 65,4 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (35 trường hợp tử vong); 29,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (20 trường hợp tử vong); 248 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 352 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (5 trường hợp tử vong) và 53 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong).
Trong tháng đã phát hiện thêm 1,3 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng 7/2012 lên 257,7 nghìn người, trong đó 105,3 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 53,5 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Trong tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 16 vụ ngộ độc thực phẩm làm 531 người bị ngộ độc, trong đó 2 trường hợp tử vong. Tính chung bảy tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 74 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 2,4 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 16 trường hợp tử vong.
c. Tai nạn giao thông
Trong tháng Bảy (Từ 16/6 đến 15/7/2012), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 798 vụ tai nạn giao thông, làm chết 716 người và làm bị thương 509 người. Riêng tai nạn giao thông đường bộ chiếm 97,7% về số vụ; 98,3% về số người chết và 99,2% về số người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 27%; số người chết giảm 21,3%; số người bị thương giảm 12,5%. Tính chung bảy tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 6119 vụ tai nạn giao thông, làm chết 5374 người và làm bị thương 4414 người. So với cùng kỳ năm 2011, số vụ tai nạn giao thông giảm 22,1%; số người chết giảm 17,6%; số người bị thương giảm 27,6%. Bình quân một ngày trong bảy tháng năm 2012, trên địa bàn cả nước xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, làm chết 25 người và làm bị thương 21 người.
d. Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra từ cuối tháng trước làm 20 người chết và bị thương; gần 500 ngôi nhà bị sập, sạt lở, tốc mái; hơn 800 ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Hà Giang là địa phương bị thiệt hại nặng nhất với 14 người chết và bị thương; 115 ngôi nhà bị sập, sạt lở, tốc mái; hơn 300 ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính hơn 63,2 tỷ đồng. Riêng Hà Giang thiệt hại nhiều nhất với 52 tỷ đồng.
e. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng Bảy đã phát hiện 366 vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường tại 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó 266 vụ đã bị xử lý với tổng số tiền phạt trên 1,9 tỷ đồng. Đắk Lắk là tỉnh có số vụ vi phạm môi trường được phát hiện và xử lý nhiều nhất với 46 vụ.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ