Tình hình kinh tế - xã hội tháng 02 năm 2012
___________
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng Hai tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa và rau màu vụ đông xuân. Tính đến trung tuần tháng Hai, cả nước đã gieo cấy được 2401,8 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 93,1% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 514,7 nghìn ha, bằng 76,4%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1887,1 nghìn ha, bằng 99%.
Do lịch thời vụ gieo cấy năm nay chậm và thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của mạ. Ngoài ra, một số diện tích mạ bị chết rét phải gieo bổ sung nên tiến độ gieo cấy lúa đông xuân tại các địa phương phía Bắc chậm hơn so với cùng kỳ năm trước.
Các địa phương phía Nam đã kết thúc việc gieo cấy lúa đông xuân. Tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, trà lúa chính vụ đang làm đòng, chuẩn bị trỗ. Thời gian này là thời kỳ sâu bệnh phát triển mạnh. Hiện toàn vùng đã có 105,9 nghìn ha lúa đông xuân bị nhiễm bệnh, chủ yếu là bệnh rầy nâu, đạo ôn và sâu cuốn lá. Một số địa phương có nhiều diện tích lúa bị nhiễm bệnh là: An Giang 54,5 nghìn ha; Kiên Giang 15,8 nghìn ha; Bạc Liêu 17,5 nghìn ha. Các địa phương đang tích cực triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh nhằm hạn chế sự lây lan ảnh hưởng của sâu bệnh đến kết quả sản xuất.
Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân chính vụ, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long đang bước vào thu hoạch trà lúa đông xuân sớm. Tính đến trung tuần tháng Hai, toàn vùng đã thu hoạch được 211,9 nghìn ha, bằng 57,7% cùng kỳ năm trước.
Tiến độ gieo trồng các loại cây rau màu vụ đông xuân nhìn chung chậm hơn cùng kỳ năm trước. Tính đến thời điểm 15 tháng Hai, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 212,9 nghìn ha ngô, bằng 86,6% cùng kỳ năm trước; 63,9 nghìn ha khoai lang, bằng 100,1%; 75,7 nghìn ha đậu tương, bằng 85%; 94,2 nghìn ha lạc, bằng 99,1%; 329,3 nghìn ha rau đậu, bằng 102,9%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng gặp nhiều khó khăn. Thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài làm khoảng 1500 con gia súc bị chết, trong đó chủ yếu là trâu, bò già và bê, nghé. Chăn nuôi gia cầm cũng bị ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm bùng phát mạnh. Theo báo cáo sơ bộ, tính đến thời điểm 18 tháng Hai, cả nước có khoảng 34 nghìn con gia cầm mắc bệnh, chết và bị tiêu hủy. Hiện nay, dịch cúm gia cầm đang diễn biến rất phức tạp, có nguy cơ lan rộng ở nhiều địa phương trên cả nước do chủng virút đã biến đổi. Do đó công tác kiểm tra, giám sát và quản lý quá trình vận chuyển gia cầm trên cả nước cần được các ngành chức năng phối hợp thực hiện tốt để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.
Chăn nuôi lợn phát triển tương đối ổn định do dịch bệnh tai xanh trên lợn đã được khống chế. Mô hình chăn nuôi lợn siêu nạc đang được triển khai tại một số địa phương. Giá thức ăn chăn nuôi có xu hướng giảm đã khuyến khích người nuôi yên tâm mở rộng quy mô đàn và ổn định sản xuất. Theo báo cáo sơ bộ, trong hai tháng đầu năm, đàn trâu, bò ước tính giảm 7% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm tuy bị ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm nhưng vẫn tăng nhẹ; đàn lợn tăng 3-4%. Tính đến thời điểm 22/02/2012, các dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương là: Dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Thái Bình; dịch cúm gia cầm ở Hải Phòng, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Trị và Quảng Nam.
Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 02 năm 2012
Lâm nghiệp
Hoạt động lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào việc gieo, ươm, chăm sóc cây giống và thực hiện các công việc chuẩn bị cho trồng rừng vụ Xuân 2012. Trong hai tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước tính đạt 1150 ha, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 30,7 triệu cây, tăng 3,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 593 nghìn m3, tăng 11,2%; sản lượng củi khai thác đạt 4934 nghìn ste, tăng 2,3%. Một số địa phương có số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt khá là: Quảng Bình 1490 nghìn cây, Thanh Hóa 1328 nghìn cây, Thừa Thiên - Huế 1132 nghìn cây.
Thời tiết vào mùa khô hạn nên nguy cơ xảy ra cháy rừng cao. Các địa phương đang tích cực triển khai công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng, tập trung hướng dẫn người dân phát nương rẫy đúng quy định; tiếp tục rà soát và củng cố các tổ phòng cháy, chữa cháy; đồng thời tăng cường công tác phòng ngừa cũng như ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp. Số vụ chặt, phá rừng bị phát hiện và xử lý trong hai tháng đầu năm là 83 vụ, diện tích rừng bị chặt, phá là 34 ha.
Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Hai ước tính đạt 375,1 nghìn tấn, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 293,3 nghìn tấn, tăng 5,8%; tôm đạt 29,4 nghìn tấn, tăng 8,1%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Hai ước tính đạt 148,4 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 116 nghìn tấn, tăng 3,6%; tôm đạt 18,2 nghìn tấn, tăng 10,3%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng mặc dù tăng khá do tiêu thụ cá tra có nhiều thuận lợi, đặc biệt giá cá tra nguyên liệu trên thị trường tăng cao, nhưng giá chi phí đầu vào tăng nên người nuôi chưa thật sự yên tâm đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi. Vì vậy trong thời gian tới, nguồn cá tra nguyên liệu vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà máy chế biến. Sản lượng tôm nuôi tăng chủ yếu từ nguồn thu hoạch trên phần diện tích thả nuôi tỉa thưa và thả bù.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Hai ước tính đạt 226,7 nghìn tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 177,3 nghìn tấn, tăng 7,3%; tôm đạt 11,2 nghìn tấn, tăng 4,7%. Tính chung hai tháng đầu năm nay, sản lượng thủy sản ước tính đạt 739,3 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm sản lượng nuôi trồng đạt 320,4 nghìn tấn, tăng 5,2%, sản lượng khai thác đạt 418,9 nghìn tấn, tăng 2,8%.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Hai năm 2012 tăng 10% so với tháng trước và tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2011. Tính chung hai tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ tăng 5%; công nghiệp chế biến tăng 2,4%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 11,7%. Trong ba ngành công nghiệp trên, sản xuất của ngành công nghiệp chế biến vẫn gặp rất nhiều khó khăn, chỉ số sản xuất hai tháng đầu năm của ngành này thấp hơn nhiều so với mức tăng 18,2% của cùng kỳ năm trước.
Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất hai tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Đóng và sửa chữa tàu tăng 203,5%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 18,3%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 18,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 16,9%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 14,5%; sản xuất, tập trung và phân phối điện tăng 12,3%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 11,5%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng khá là: Sản xuất bia tăng 9%; khai thác và thu gom than cứng tăng 6,9%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 6,9%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da, lông thú) tăng 6,3%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm là: Khai thác, lọc và phân phối nước tăng 4,6%; sản xuất thuốc lá tăng 2,2%; sản xuất đường tăng 1,2%; sản xuất đồ uống không cồn giảm 6,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 10,8%; sản xuất xi măng giảm 13,9%; sản xuất sắt, thép giảm 14,3%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 19,9%.
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Một năm nay giảm mạnh, chỉ bằng 76% tháng Mười Hai năm 2011 và bằng 83% cùng kỳ năm 2011. Nguyên nhân chủ yếu một mặt do thời gian nghỉ Tết nguyên đán dài, mặt khác do ảnh hưởng của lạm phát cao dẫn đến tiêu thụ chậm. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm mạnh là: Chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản giảm 10,4%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) giảm 14,8%; sản xuất giày, dép giảm 21,7%; sản xuất đồ uống không cồn giảm 30,4%; sản xuất sắt, thép giảm 34%; sản xuất xi măng giảm 37,8%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 38,8%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 39,3%; sản xuất giấy nhăn và bao bì giảm 39,4%; sản xuất xe có động cơ giảm 44%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 54,8%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/02/2012 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó các ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Chế biến và bảo quản rau quả tăng 80,6%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 71,9%; sản xuất xi măng, vôi, vữa tăng 68,1%; sản xuất sắt, thép tăng 53,4%; sản xuất các sản phẩm thuốc lá, thuốc lào tăng 46,8%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm là: Sản xuất giấy nhăn và bao bì giảm 1,9%; sản xuất đồ uống không cồn giảm 4,9%; sản xuất đường giảm 34,2%; sản xuất các thiết bị gia đình chưa được phân vào đâu giảm 45,4%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Hai năm 2012 ước tính đạt 11335 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 2955 tỷ đồng; vốn địa phương 8380 tỷ đồng. Tính chung hai tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 22030 tỷ đồng, bằng 11,5% kế hoạch năm và tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 5430 tỷ đồng, bằng 10,7% kế hoạch năm và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải đạt 905 tỷ đồng, bằng 12,1% kế hoạch năm và tăng 11% so với cùng kỳ năm trước; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đạt 470 tỷ đồng, bằng 9,7% và tăng 13,3%; Bộ Xây dựng đạt 153 tỷ đồng, bằng 8,4% và tăng 2,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 114 tỷ đồng, bằng 12,2% và giảm 1,3%; Bộ Y tế đạt 113 tỷ đồng, bằng 10,1% và tăng 4,2%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đạt 68 tỷ đồng, bằng 10,7% và giảm 2,9%; Bộ Công Thương đạt 43 tỷ đồng, bằng 9,5% và tăng 1,7%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 16600 tỷ đồng, bằng 11,9% kế hoạch năm và giảm 1% so với cùng kỳ năm 2011. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước hai tháng đầu năm của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 1743 tỷ đồng, bằng 7,3% kế hoạch năm và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2011; Đà Nẵng 978 tỷ đồng, bằng 15,2% và giảm 10,2%; Thành phố Hồ Chí Minh 881 tỷ đồng, bằng 5,8% và giảm 17,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu 637 tỷ đồng, bằng 18,2% và tăng 16,9%; Quảng Ninh 419 tỷ đồng, bằng 10,6% và giảm 10,2%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/02/2012 đạt 1230,9 triệu USD, bằng 45,5% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 65 dự án được cấp phép mới đạt 910,9 triệu USD, bằng 42,2% số dự án và bằng 44,6% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 25 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 320 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện hai tháng đầu năm 2012 ước tính đạt 1 tỷ USD, giảm 9,1% so với cùng kỳ năm 2011.
Trong tổng vốn đăng ký vào các ngành hai tháng đầu năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 994,3 triệu USD, bao gồm: 683,8 triệu USD của 26 dự án cấp phép mới và 310,5 triệu USD vốn tăng thêm; ngành vận tải, kho bãi đạt 180 triệu USD của 01 dự án cấp phép mới.
Cả nước có 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong hai tháng đầu năm, trong đó Hải Phòng có số vốn đăng ký lớn nhất với 605,2 triệu USD, chiếm 66,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Khánh Hòa 180 triệu USD, chiếm 19,8%; Đồng Nai 29,5 triệu USD, chiếm 3,2%; Thành phố Hồ Chí Minh 25,6 triệu USD, chiếm 2,8%; Hưng Yên 20 triệu USD, chiếm 2,2%.
Trong số 19 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 848,7 triệu USD, chiếm 93,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Pháp 19,1 triệu USD, chiếm 2,1%; Xin-ga-po 16 triệu USD, chiếm 1,8%; Hàn Quốc 7,5 triệu USD, chiếm 0,8%...
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 20/2/2012
Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/02/2012 ước tính đạt 86,8 nghìn tỷ đồng, bằng 11,7% dự toán năm, trong đó thu nội địa 59,2 nghìn tỷ đồng, bằng 12%; thu từ dầu thô 11,3 nghìn tỷ đồng, bằng 12,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 15,9 nghìn tỷ đồng, bằng 10,3%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước bằng 15,5% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 10,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 11,5%; thuế thu nhập cá nhân bằng 9,7%; thuế bảo vệ môi trường bằng 9,9%; thu phí, lệ phí bằng 7,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/02/2012 ước tính đạt 100,7 nghìn tỷ đồng, bằng 11,1% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 18,4 nghìn tỷ đồng, bằng 10,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 17,8 nghìn tỷ đồng, bằng 10,2%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể 66,5 nghìn tỷ đồng, bằng 11,1%; chi trả nợ và viện trợ 15,8 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8%.
Thương mại, giá cả và dịch vụ
Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng hai tháng đầu năm năm 2012 ước tính đạt 380,3 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 4,4%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng hai tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 297,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,3% tổng mức và tăng 20,6%; khách sạn nhà hàng đạt 42,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,3% và tăng 25,6%; dịch vụ đạt 35,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,4% và tăng 31,7%; du lịch đạt 3,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 17,1%.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai ước tính đạt 8,2 tỷ USD, tăng 15,6% so với tháng trước và tăng 66,3% so với cùng kỳ năm 2011. Tính chung hai tháng đầu năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 15,3 tỷ USD, tăng 24,8% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 5,7 tỷ USD, tăng 4%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 9,6 tỷ USD, tăng 41,5%.
Trong hai tháng đầu năm, một số mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Hàng dệt may đạt 2,2 tỷ USD, tăng 25,4%; giày dép đạt 1 tỷ USD, tăng 21%; hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 856 triệu USD, tăng 62%; thủy sản đạt 783 triệu USD, tăng 15,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 719 triệu USD, tăng 56,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 593 triệu USD, tăng 86,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 589 triệu USD, tăng 19,1%. Một số mặt hàng chủ yếu khác có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2011 là: Dầu thô đạt 1 tỷ USD, giảm 1%; cà phê đạt 591 triệu USD, giảm 17,4%; cao su đạt 506 triệu USD, giảm 6,1%; gạo đạt 297 triệu USD, giảm 43%; sắt thép đạt 201 triệu USD, giảm 23,6%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, trong tháng Một, EU là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 1,3 tỷ USD, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Hoa Kỳ đạt 1,2 tỷ USD, giảm 8,2%; ASEAN đạt 970 triệu USD, tăng 3,2%; Nhật Bản đạt 855 triệu USD, tăng 14,9% và Trung Quốc đạt 658 triệu USD, giảm 15,8%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Hai ước tính đạt 9 tỷ USD, tăng 30% so với tháng trước và tăng 47% so với cùng kỳ năm 2011. Tính chung hai tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 15,9 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 7,7 tỷ USD, giảm 6,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,2 tỷ USD, tăng 36,8%.
Trong hai tháng đầu năm nay, kim ngạch nhập khẩu của nhiều mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 2,3 tỷ USD, tăng 4,2%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,7 tỷ USD, tăng 101,4%; sắt thép đạt 960 triệu USD, tăng 16,6%; vải đạt 882 triệu USD, tăng 4,5%; chất dẻo đạt 707 triệu USD, tăng 9,2%; hóa chất đạt 417 triệu USD, tăng 22,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 387 triệu USD, tăng 9,8%; gỗ và nguyên phụ liệu gỗ đạt 216 triệu USD, tăng 64,7%. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu hai tháng đầu năm tăng chủ yếu do lượng nhập khẩu và đơn giá bình quân một số mặt hàng nhập khẩu tăng, trong đó giá sắt thép tăng 1,4%; giá phân bón tăng 15,4%; giá xăng dầu tăng 18,5%.
Thị trường hàng hóa nhập khẩu trong tháng Một chủ yếu từ Trung Quốc với kim ngạch đạt 1,6 tỷ USD, giảm 8,2% so với cùng kỳ năm 2011; từ ASEAN đạt 1,3 tỷ, giảm 13,3%; Hàn Quốc đạt 1 tỷ USD, tăng 4,6%; Nhật Bản đạt 652 triệu USD, giảm 12,3%; EU đạt 527 triệu USD, giảm 3,9%; Hoa kỳ đạt 318 triệu USD, giảm 0,9%.
Nhập siêu hai tháng đầu năm 2012 ước tính 628 triệu USD, bằng 4,1% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.
Hàng hóa xuất khẩu
Hàng hóa nhập khẩu
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Hai năm 2012 tăng 1,37% so với tháng trước, trong đó các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,47%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,11% (Lương thực giảm 0,41%; thực phẩm tăng 2,73%). Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn 1% hoặc giảm gồm: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,86%; may mặc, mũ nón, giáy dép tăng 0,55%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,52%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,41%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,29%; giao thông tăng 0,23%; giáo dục tăng 0,07%; bưu chính viễn thông giảm 0,16%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Hai năm 2012 tăng 2,38% so với tháng Mười Hai năm 2011 và tăng 16,44% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân hai tháng đầu năm nay tăng 16,85% so với bình quân cùng kỳ năm 2011.
Chỉ số giá vàng tháng Hai năm 2012 tăng 3,27% so với tháng trước; giảm 0,47% so với tháng Mười Hai năm 2011 và tăng 24,01% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Hai năm 2012 giảm 0,41% so với tháng trước; giảm 0,36% so với tháng Mười Hai năm 2011 và tăng 1,24% so với cùng kỳ năm 2011.
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng Hai năm 2012
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách hai tháng đầu năm ước tính đạt 532,9 triệu lượt khách, tăng 13,6% và 22,6 tỷ lượt khách.km, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 7,8 triệu lượt khách, tăng 9,7% và 5,4 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9%; vận tải địa phương đạt 525,1 triệu lượt khách, tăng 14,3% và 17,2 tỷ lượt khách.km, tăng 12,2%. Vận tải hành khách đường bộ hai tháng ước tính đạt 494 triệu lượt khách, tăng 14,4% và 16,9 tỷ lượt khách.km, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 33,5 triệu lượt khách, tăng 2,8% và 707,3 triệu lượt khách.km, tăng 4,9%; đường hàng không đạt 2,5 triệu lượt khách, tăng 10,5% và 4,3 tỷ lượt khách.km, tăng 11%; đường sắt đạt 1,8 triệu lượt khách, tăng 6,5% và 643,3 triệu lượt khách.km, tăng 8,8%; đường biển đạt 1 triệu lượt khách, giảm 1,3% và 56,5 triệu lượt khách.km, giảm 2,7%.
Vận tải hàng hóa hai tháng đầu năm ước tính đạt 143,2 triệu tấn, tăng 8,4% và 32,8 tỷ tấn.km, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 136,8 triệu tấn, tăng 10,3% và 9,9 tỷ tấn.km, tăng 3,8%; vận tải ngoài nước đạt 6,4 triệu tấn, giảm 4,3% và 22,9 tỷ tấn.km, giảm 3,6%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 113,2 triệu tấn, tăng 10,7% và 6 tỷ tấn.km, tăng 11,1%; đường sông đạt 21,3 triệu tấn, tăng 2,8% và 2,3 tỷ tấn.km, tăng 1,8%; đường biển đạt 7,8 triệu tấn, giảm 7,3% và 23,9 tỷ tấn.km, giảm 6,5%; đường sắt đạt 0,9 triệu tấn, giảm 15,9% và 489,4 triệu tấn.km, giảm 13,4%.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới hai tháng đầu năm ước tính đạt 1,94 triệu thuê bao, tăng 34,1% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 4,9 nghìn thuê bao cố định, bằng 24,6% cùng kỳ và hơn 1,93 triệu thuê bao di động, tăng 35,6%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 02/2012 ước tính đạt 134,2 triệu thuê bao, tăng 3,6% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,3 triệu thuê bao cố định, giảm 1,4% và 119 triệu thuê bao di động, tăng 4,3%.
Số thuê bao internet trên cả nước tính đến cuối tháng Hai năm 2012 ước tính đạt 4,3 triệu thuê bao, tăng 18,2% so với cùng thời điểm năm trước. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng Hai năm 2012 ước tính đạt 32,6 triệu người, tăng 18,4% so với cùng thời điểm năm 2011. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông hai tháng đầu năm nay ước tính đạt 22,1 nghìn tỷ đồng, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm 2011.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong hai tháng đầu năm ước tính đạt 1311,8 nghìn lượt người, tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 779 nghìn lượt người, tăng 27,2%; đến vì công việc 223,7 nghìn lượt người, tăng 39,4%; thăm thân nhân đạt 234,2 nghìn lượt người, tăng 19,3%.
Trong hai tháng đầu năm nay, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 290,1 nghìn lượt người, tăng 51,5%; Hàn Quốc 141,8 nghìn lượt người, tăng 38,4%; Nhật Bản 108,3 nghìn lượt người, tăng 16,9%; Hoa Kỳ 97,9 nghìn lượt người, tăng 1,5%; Đài Loan 88,1 nghìn lượt người, tăng 40,5%; Cam-pu-chia 61,7 nghìn lượt người, tăng 32,1%; Pháp 47,6 nghìn lượt người, tăng 18,8%; Ma-lai-xi-a 46,1 nghìn lượt người, tăng 31,9%; Nga 39,1 nghìn lượt người, tăng 55,1%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng Hai năm 2012, cả nước có 53,9 nghìn hộ thiếu đói, giảm 62,4% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 214,7 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 63,4%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 13,6 nghìn tấn lương thực và 22,4 tỷ đồng, riêng tháng Hai đã hỗ trợ khoảng 900 tấn lương thực.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Hai năm 2012, trên địa bàn cả nước đã có gần 4 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, trong đó 4 trường hợp tử vong; 2,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (1 trường hợp tử vong); 21 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 9 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong) và 6 trường hợp mắc bệnh thương hàn. Tính chung hai tháng đầu năm, cả nước có 6,3 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng, bệnh xuất hiện trên phạm vi rộng với 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có người mắc (9 trường hợp tử vong); 4,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (2 trường hợp tử vong); 37 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 11 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong) và 25 trường hợp mắc bệnh thương hàn.
Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn cả nước tiếp tục tăng. Trong tháng đã phát hiện thêm 833 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng Hai năm 2012 lên 250,9 nghìn người, trong đó 101,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 52,4 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Trong tháng Hai đã xảy ra 4 vụ ngộ độc thực phẩm tại các tỉnh: Đồng Nai, Kon Tum, Thái Nguyên và Quảng Ngãi làm 38 người bị ngộ độc. Tính chung hai tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7 vụ ngộ độc thực phẩm làm 194 người bị ngộ độc, trong đó 3 trường hợp tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng Một năm 2012, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1036 vụ tai nạn giao thông, làm chết 930 người và làm bị thương 763 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 17,0%; số người chết giảm 11,0%; số người bị thương giảm 17,8%. Bình quân một ngày trong tháng Một năm nay, cả nước xảy ra 33 vụ tai nạn giao thông, làm chết 30 người và làm bị thương 25 người.
Bảo vệ môi trường và trật tự an toàn xã hội
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước, không khí tại các khu chế biến, khu công nghiệp, cảng cá cần được các cấp, các ngành tập trung quan tâm giải quyết. Theo báo cáo sơ bộ, trong tháng Hai đã phát hiện 92 vụ vi phạm vệ sinh môi trường, trong đó đã xử lý 44 vụ với tổng số tiền phạt gần 860 triệu đồng. Tình trạng cháy, nổ thời gian gần đây xảy ra nhiều tại các địa phương. Trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 95 vụ cháy, nổ với giá trị thiệt hại trên 167 tỷ đồng.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ