5 - Khôi phục và phát triển kinh tế, dồn sức chi viện cho miền Nam
5- Khôi phục và phát triển kinh tế, dồn sức chi viện cho miền Nam
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27-1-1973), miền Bắc đứng trước 5 yêu cầu cấp bách:
Một là, đáp ứng yêu cầu khẩn trương và to lớn của cuộc chiến tranh ở giai đoạn cuối.
Hai là, đáp ứng yêu cầu cấp thiết, khắc phục ngay hậu quả của hai cuộc chiến tranh phá hoại đã phá huỷ gần như toàn bộ các thành phố, thị xã, thị trấn, các khu công nghiệp, cầu đường, bến cảng, kho tàng, 1.500 công trình thuỷ lợi, 5 triệu mét vuông nhà ở, 1.300 trường học, 350 bệnh viện, 1.500 trạm y tế, hộ sinh, 1.000 quãng đê.
Ba là, bảo đảm mức sống tối thiểu cho nhân dân miền Bắc đủ sức làm nhiệm vụ trên.
Bốn là, tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia.
Năm là, chuẩn bị xây dựng lại đất nước sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
Ngày 24-1-1973, một ngày sau khi Hiệp định Pari được ký tắt, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị về những công việc trước mắt phải làm ngay trong giai đoạn cách mạng mới. Chỉ thị lưu ý các địa phương, các ngành phải lập tức ổn định sản xuất, bảo đảm giao thông vận tải, cứu giúp đồng bào bị nạn trong chiến tranh, khôi phục các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, giải quyết chỗ ở cho nhân dân thành thị.
Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1973) đã thông qua kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế hai năm (1973-1974). Nhiệm vụ của hai năm đó là:
1- Đưa mức sản xuất của từng ngành kinh tế, từng đơn vị kinh tế lên bằng hoặc cao hơn mức sản xuất đạt được năm 1965 và năm 1971. Phấn đấu để tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đủ cho quỹ tiêu dùng xã hội.
2- Củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả hai khu vực quốc doanh và tập thể, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế và xã hội;
3- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý từ Trung ương đến cơ sở, giải quyết tốt các vấn đề trước mắt, đồng thời chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài phát triển kinh tế và văn hoá;
4- Bảo đảm đầy đủ các yêu cầu tăng viện cho cách mạng miền Nam.
Ngày 1-5-1973, hơn 10 vạn chiến sĩ và đồng bào Thủ đô Hà Nội tham gia mít tinh, diễu binh, diễu hành lớn tại Quảng trường Ba Đình để biểu dương lực lượng dân tộc vĩ đại trong quang vinh của chiến thắng và lao động. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc diễn văn khẳng định: Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi vì lực lượng của dân tộc Việt Nam ở cả hai miền lớn mạnh hơn bao giờ hết.
Ngày 14-6-1973, ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc thành lập Bộ Xây dựng trên cơ sở hợp nhất Bộ Kiến trúc và ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước.
Ngày 3-9-1973, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký Lệnh tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 46 đơn vị và 16 cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân du kích, tự vệ; 29 đơn vị và 5 cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, góp phần cùng toàn dân đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi vẻ vang.
Ngày 31-12-1973, Chủ tịch nước ký lệnh tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 45 đơn vị và 20 cán bộ chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân du kích, tự vệ; 10 đơn vị và 8 cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân; Danh hiệu Anh hùng Lao động cho 18 đơn vị và 11 cán bộ, công nhân viên chức thuộc các ngành kinh tế và giáo dục.
Ngày 25-1-1974, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Tuyên bố nhân dịp kỷ niệm một năm ký Hiệp định Pari về Việt Nam.
Ngày 28-3-1974, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn một số trường hợp phân công và bổ nhiệm mới của Hội đồng Chính phủ:
- Ông Trần Hữu Dực, Phó Thủ tướng phụ trách khối Nội chính.
- Ông Phan Trọng Tuệ, Phó Thủ tướng phụ trách khối Công nghiệp và Giao thông vận tải.
- Ông Đặng Việt Châu, Phó Thủ tướng phụ trách khối Tài chính, Thương nghiệp và Ngân hàng.
Ngày 23-4-1974, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết về tổ chức và chỉ đạo phong trào cách mạng của quần chúng theo ba hướng lớn nhằm đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ba hướng lớn đó là:
- Hăng hái thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm,
- Tham gia xây dựng nền nếp quản lý xí nghiệp,
- Đấu tranh xoá bỏ những tệ nạn xã hội và những hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và đời sống.
Ngày 2-5-1974, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định về việc đăng ký nghĩa vụ lao động và cấp sổ lao động cho công nhân trong độ tuổi lao động nhằm tăng cường quản lý lao động xã hội, nắm chắc nguồn lao động, từng bước sắp xếp việc làm cho người lao động trong độ tuổi lao động, có sức lao động nhằm thực hiện nghĩa vụ lao động và quyền làm việc cho mọi công dân.
Đầu tháng 8-1974, tại Thái Bình, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị nông nghiệp đồng bằng-trung du bàn công tác tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước quản lý nông nghiệp. Sau hội nghị này, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp và cải tiến một bước quản lý nông nghiệp từ cơ sở theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
Tiếp đó, ngày 8-9-1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Tổ chức đại hội đại biểu nông dân tập thể các cấp”. Đại hội đại biểu nông dân tập thể là một cuộc phát động nông dân thi đua lao động sản xuất. Đại hội bầu ra Hội đồng nông dân tập thể các cấp và cử đại biểu đi dự đại hội cấp cao.
Ngày 5-11-1974, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết về việc tinh giản bộ máy quản lý Nhà nước, quản lý các ngành sản xuất kinh doanh, quản lý các xí nghiệp, sắp xếp và sử dụng cán bộ công nhân viên trong khu vực Nhà nước.
Ngày 16-12-1974, ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định phê chuẩn việc thành lập Ban quản lý xây dựng công trình thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà, gọi tắt là Ban quản lý xây dựng công trình sông Đà - một cơ quan ngang Bộ, do Bộ trưởng đặc trách việc xây dựng công trình sông Đà làm Trưởng ban.
Hai năm 1973-1974 công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc tiến hành khẩn trương. Nền kinh tế có bước phát triển tốt.
Năm 1974, hai vụ lúa được mùa. Sản lượng thóc cả năm đạt 5.468.000 tấn (năm 1973 đạt 4.468.800 tấn). Năng suất bình quân một vụ lúa đạt 24,18 tạ/ha. Năm 1974, có 9 tỉnh, 107 huyện và 4.226 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn thóc/ha ruộng hai vụ lúa. Tỉnh Thái Bình, lá cờ đầu về năng suất lúa của miền Bắc, đạt trên 7 tấn thóc/ha. Sản xuất hoa màu phát triển mạnh ở các địa phương. Năng suất ngô đạt trên 16 tấn/ha, sản lượng đạt 232.600 tấn. Khoai tây trở thành một trong những cây trồng chính của vụ đông, diện tích tăng gấp 3 lần, sản lượng tăng 4 lần, năng suất bình quân 100 tạ/ha. Hệ thống thuỷ nông được phục hồi và nâng cấp. Ruộng đất bị bom đạn phá hoại được san lấp. Các trạm trại giống phát triển. Công tác khai hoang, trồng rừng được chăm lo. Nhiều hợp tác xã tăng cường quản lý ruộng đất, thu hồi những ruộng đất bị chiếm dụng trái phép, khắc phục tình trạng lãng phí ruộng đất.
Năm 1974, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp vượt kế hoạch 4%, so với năm 1973 tăng 15%. Than tuy chưa vượt mức năm 1965 nhưng đã vượt kế hoạch 12% về sản lượng và 8% về bóc đất đá. Sản lượng điện vượt kế hoạch 2% và tăng 56% so với năm 1965. Sản lượng cơ khí tăng gấp đôi. Một số nhà máy cơ khí lớn được đưa vào sản xuất, một số nhà máy khác bắt đầu xây dựng. So với năm 1960, số xí nghiệp công nghiệp ở miền Bắc năm 1975 tăng 32%, khu vực kinh tế quốc doanh chiếm 88,4% tổng sản phẩm xã hội và 84,1% thu nhập quốc dân. Nhiều bến cảng, đường giao thông thuỷ bộ được phục hồi nhanh chóng. Nhiều cầu được sửa chữa, xây dựng lại. Quân đội và công nhân hợp sức tháo gỡ mìn và nạo vét luồng lạch ra vào các cảng.
Ngày 5-2-1973, tàu biển trọng tải lớn bắt đầu vào được cảng Hải Phòng, tiếp đó là cảng Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thuỷ, Sông Gianh, Nhật Lệ.
Trên mặt trận văn hoá, giáo dục, miền Bắc cũng đã có thành tích đáng tự hào. Năm học 1974-1975 có 6.630.900 người đi học, bình quân 4 người dân có 1 người đi học. Học sinh đại học có 55.475 người, với 39 trường; học sinh trung học chuyên nghiệp có 69.813 người với 195 trường. Tất cả trẻ em trong độ tuổi đi học đều được đến trường.
Năm 1974, miền Bắc có 5.513 bác sĩ, 21.035 y sĩ và 43.499 y tá. Tính bình quân 1 vạn dân có 11,7 bác sĩ, y sĩ, 45 giường bệnh.
Những thành tựu văn hoá, giáo dục và y tế của miền Bắc góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, thể hiện tính ưu việt của chế độ mới.
Đánh giá về công cuộc xây dựng miền Bắc để đánh thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam, sau này Đại hội Đảng lần thứ IV nhận định:“Sau 20 năm cải tạo và xây dựng miền Bắc đã bước đầu kiến lập được một hình thái kinh tế-xã hội xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và cơ sở vật chất-kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội, với một nhà nước chuyên chính vô sản được củng cố, cùng với hệ tư tưởng và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa được đặt trên những nền móng vững chắc, đem lại những thay đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực.
Ngày nay trên miền Bắc, người lao động không còn bị bóc lột và khinh rẻ nữa. Tuy số dân tăng gấp đôi so với 20 năm trước, nhưng mọi người đều có ăn, có mặc, con cái mọi người đều được đi học, trình độ văn hoá chung của xã hội đã được nâng lên một cách đáng kể. Lối sống mới đã trở thành phổ biến, người với người sống có tình có nghĩa, đoàn kết, thương yêu nhau. Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, và có ngành, có mặt tiếp tục phát triển. Những nhu cầu thiết yếu về đời sống nhân dân được bảo đảm. Đói rét, dịch bệnh không xảy ra. An ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Mức sống tuy chưa cao và còn nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều hiểu nguyên nhân của những khó khăn đó và vững lòng tin ở tương lai.
Những thành tựu và biến đổi ấy còn thấp so với những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Song, trong hoàn cảnh miền Bắc vừa phải đương đầu với hàng triệu tấn bom đạn của đế quốc Mỹ, vừa không ngừng cung cấp sức người, sức của cùng đồng bào miền Nam đánh giặc, cứu nước, đồng thời gánh vác nghĩa vụ quốc tế, thì những thành tựu đã đạt được là những kỳ tích mà người ta không thể nào tưởng tượng bên ngoài quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Thử thách cực kỳ nghiêm trọng của chiến tranh đã làm ngời sáng tính ưu việt và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội. Đó là cái bảo đảm cho miền Bắc không ngừng phát huy vai trò quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của cả nước”1.
Trong những năm 1973-1975, miền Bắc đã có gần nửa triệu, riêng 2 năm (1973-1974), có 242.023 thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21“Xây dựng phát triển và hoàn thiện các tuyến giao thông vận tải”, ngày 17-1-1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn thiết kế xây dựng hệ thống đường vận tải chiến lược Đông Trường Sơn và nâng cấp đường Tây Trường Sơn. Nhà nước đã đầu tư lớn về vốn và kỹ thuật cho 2 tuyến đường vận tải được coi là công trình trọng tâm số một của Nhà nước trong giai đoạn này. Hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân, thanh niên xung phong đã được điều động vào Trường Sơn cùng tham gia mở và nâng cấp đường với các lực lượng của Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đến đầu năm 1975, các lực lượng trên đường Trường Sơn đã mở được 5.560 km đường mới các loại (gần bằng nửa độ dài các con đường đã mở trong 8 năm trước), đưa chiều dài của hệ thống đường vận tải và hành quân dọc dãy Trường Sơn lên 16.790 km, trong đó có 6.810 km đường trục dọc, 4.980 km đường ngang và 5.000 km đường vòng tránh. Đầu năm 1975, miền Bắc đã đưa vào chiến trường miền Nam hàng chục vạn tấn lương thực, vũ khí, quân trang quân dụng phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 và đáp ứng yêu cầu xây dựng vùng giải phóng miền Nam về mọi mặt.
Từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974, và từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau cuộc họp trên, ngày 9-1-1975, Thường vụ Quân uỷ Trung ương đã họp bàn triển khai cụ thể kế hoạch tác chiến chiến lược trong hai năm 1975-1976.
Ngày 14-1-1975, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 15-CP về việc cải tiến tổ chức y tế địa phương.
Ngày 18-3-1975, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 56-CP ban hành thể lệ về tổ chức việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội để“xây dựng nếp sống mới, bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục”.
Ngày 30-4-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã gửi điện khen ngợi quân và dân Sài Gòn-Gia Định, khen toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội tinh nhuệ, dân quân, tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn-Gia Định, đưa chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đến toàn thắng.
Nhân dân Thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã, thị trấn toàn miền Bắc đổ ra đường đón mừng chiến thắng, tuần hành, rước đuốc, rước cờ, ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, mít tinh và hô vang khẩu hiệu“Hoan hô Sài Gòn giải phóng”, “Hoan hô miền Nam hoàn toàn giải phóng”. ở Hà Nội, nhiều người nước ngoài cũng xuống đường tuần hành chào mừng thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam.
Ngày 30-4 trở thành ngày Hội mừng chiến thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Từ ngày 15 đến ngày 17-5-1975, cả nước mở hội mừng chiến thắng lịch sử vĩ đại của dân tộc: Miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Tại buổi mít tinh sáng ngày 15-5-1975 ở Hà Nội, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn khẳng định: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì 100 năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất. Nhân dân ta đã lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, đánh gục chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp và ngày nay đã đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Bằng những chiến công hiển hách ấy, dân tộc ta đã đứng vào hàng ngũ những dân tộc tiên phong trên thế giới, được cả loài người tiến bộ yêu quý. Một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng đáng được hưởng hoà bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy nhất định có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để khắc phục mọi khó khăn, vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó đế quốc Mỹ đã gieo biết bao tội ác thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông-Nam á”1.
Từ ngày 3 đến ngày 6-6-1975, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa V đã bầu:
Chủ tịch nước: Cụ Tôn Đức Thắng
Phó Chủ tịch: Ông Nguyễn Lương Bằng
Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Ông Trường-Chinh.
Thủ tướng Chính phủ: Ông Phạm Văn Đồng.
Quốc hội đã thông qua bản Tuyên bố nhân dịp giải phóng hoàn toàn miền Nam, biểu dương thành tích vĩ đại của quân và dân cả nước, kêu gọi 45 triệu đồng bào nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, vươn lên mạnh mẽ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Ngày 26-8-1975, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được công nhận là thành viên của Tổ chức các nước Không liên kết.
Ngày 29-8-1975, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức trọng thể lễ khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thủ đô Hà Nội.
Ngày 12-9-1975, Chủ tịch nước ký Quyết định tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 59 đơn vị và 6 cán bộ đã lập được nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam góp phần đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 9-1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, tại thành phố Sài Gòn-Gia Định, đã diễn ra Hội nghị Hiệp thương chính trị bàn về vấn đề thống nhất Việt Nam về mặt Nhà nước. Đoàn đại biểu miền Bắc do ông Trường-Chinh, ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, làm Trưởng đoàn. Đoàn đại biểu miền Nam do ông Phạm Hùng, ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Bí thư Đảng bộ miền Nam, đại diện Đảng trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm Trưởng đoàn, tiến hành Hội nghị Hiệp thương chính trị để bàn vấn đề thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Từ ngày 22 đến ngày 27-12-1975, kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá V, đã phê chuẩn kết quả của Hội nghị Hiệp thương thống nhất Tổ quốc; ra Nghị quyết bãi bỏ cấp Khu trong hệ thống các đơn vị hành chính nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bãi bỏ những quy định trong Hiến pháp về cấp Khu tự trị và quyết định:
- Hợp nhất hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng.
- Hợp nhất hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên.
- Hợp nhất hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình.
- Hợp nhất hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.
- Hợp nhất hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh.
- Hợp nhất ba tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Nghĩa Lộ (trừ huyện Bắc Yên và huyện Phù Yên) thành tỉnh Hoàng Liên Sơn.
- Sáp nhập huyện Bắc Yên và Phù Yên (thuộc Nghĩa Lộ cũ) vào tỉnh Sơn La.
- Giao cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hiệp thương với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam để hợp nhất tỉnh Quảng Bình, khu Vĩnh Linh với các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên theo hướng đã nêu trong Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc.
Ngày 17-2-1976, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Tuyên bố khẳng định chính sách hoà bình và hữu nghị với các nước Đông-Nam á.
Ngày 5-4-1976, Hội đồng Chính phủ raNghị quyết 61-CP về cuộc vận động tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp từ cơ sở theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ngày 3-6-1976, Chủ tịch nước ký lệnh tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang cho 90 đơn vị và 13 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập được nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc về chiến đấu, phục vụ chiến đấu, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.