Tệp đính kèm:
Tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2010
____
Kinh tế nước ta quý I/2010 đạt mức tăng trưởng khá, hầu hết các ngành, lĩnh vực đang phục hồi rõ rệt. Tuy nhiên, một số cân đối vĩ mô có biểu hiện chưa ổn định. Trước tình hình đó, ngày 06/4/2010, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 18/NQ-CP về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010. Các ngành, các cấp, các địa phương đã và đang khẩn trương xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện ngay các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng đảm bảo chất lượng và hiệu quả, ngăn ngừa lạm phát cao. Tình hình kinh tế-xã hội tháng Tư và 4 tháng đầu năm cụ thể như sau:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Trọng tâm sản xuất nông nghiệp tháng Tư là chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng vụ đông xuân ở các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa đông xuân và gieo trồng lúa hè thu ở các địa phương phía Nam. Tính đến trung tuần tháng 4/2010, các địa phương phía Bắc đã cơ bản kết thúc gieo cấy lúa đông xuân, diện tích gieo cấy đạt 1123,5 nghìn ha, bằng 98,5% vụ đông xuân năm trước. Mặc dù lúa hiện đang phát triển tốt nhưng sâu bệnh đã và đang xuất hiện tại một số địa phương. Đáng chú ý là dịch bệnh lùn sọc đen phát sinh từ đầu vụ đã gây hại trên 26 nghìn ha lúa, tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Trung du, miền núi phía Bắc. Các địa phương đang tích cực phun thuốc phòng trừ sâu bệnh để ngăn chặn sự lây lan trên diện rộng, đồng thời theo dõi sát diễn biến của dịch bệnh để kịp thời có biện pháp phòng trừ hiệu quả nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng của dịch bệnh đến kết quả sản xuất.
Các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1745,7 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 105,6% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1534,3 nghìn ha, chiếm 96% diện tích xuống giống và bằng 103,7% cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo sơ bộ, diện tích gieo trồng lúa đông xuân năm nay của vùng đồng bằng sông Cửu Long ước tính tăng 15,7 nghìn ha so với vụ đông xuân trước, năng suất đạt 65,2 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha nên sản lượng đạt 10,2 triệu tấn, tăng 350,2 nghìn tấn. Năng suất lúa toàn vùng tăng khá một mặt do diện tích gieo trồng giống lúa năng suất cao IR 50404 tăng mạnh, mặt khác do các địa phương áp dụng có hiệu quả chương trình “Ba giảm, ba tăng”, theo đó, giảm lượng giống gieo sạ, phân bón, thuốc trừ sâu và tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả cây lúa”. Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đang đẩy nhanh tiến độ gieo sạ lúa hè thu, diện tích gieo sạ đạt 699,3 nghìn ha, bằng 158,5% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 670,3 nghìn ha, bằng 161,8%. Một số tỉnh có tiến độ gieo sạ nhanh là: Long An gấp 3,2 lần cùng kỳ năm trước; Đồng Tháp gấp 2,3 lần; Kiên Giang gấp 1,3 lần.
Gieo trồng các loại cây hàng năm khác nhìn chung đảm bảo tiến độ. Tính đến trung tuần tháng Tư, cả nước đã gieo trồng được 432,1 nghìn ha ngô, bằng 98,8% cùng kỳ năm trước; 92,7 nghìn ha khoai lang, bằng 106,9%; 166,6 nghìn ha lạc, bằng 96,7%; 123,9 nghìn ha đậu tương, bằng 121,1% và 445,8 nghìn ha rau đậu, bằng 103,2% cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong 4 tháng đầu năm 2010 phát triển ổn định. Giá cả các loại thịt gia súc, gia cầm trên thị trường có xu hướng tăng đã khuyến khích người dân mở rộng đầu tư tái đàn. Tuy nhiên, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn phát sinh tại một số địa phương. Đặc biệt dịch tai xanh trên lợn đang diễn biến phức tạp, có chiều hướng lây lan rộng. Tính đến 27/4/2010, các dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở một số địa phương là: Dịch cúm gia cầm ở Bắc Kạn, Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Quảng Trị; dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Điện Biên; dịch tai xanh trên lợn tại 9 tỉnh: Hà Nội, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Quảng Nam (Hưng Yên có trên 9700 con bị mắc; Thái Bình trên 6000 con; Hải Dương khoảng 3000 con; Hải Phòng hơn 2000 con).
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung 4 tháng đầu năm ước tính đạt 38,1 nghìn ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Số cây trồng phân tán đạt 76,4 triệu cây, tăng 0,2%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 1091 nghìn m3, tăng 6,1%. Sản lượng củi khai thác đạt 9,4 triệu ste, tăng 2,4%. Các địa phương đang tranh thủ thời tiết thuận lợi, tập trung chăm sóc rừng trồng và triển khai công tác khoanh nuôi tái sinh rừng nhằm phục hồi rừng nghèo và tăng độ che phủ rừng.
Công tác bảo vệ rừng tuy được các địa phương quan tâm nhưng do thời tiết hanh khô kéo dài, lại đang vào mùa đốt nương làm rẫy nên tình trạng cháy rừng vẫn còn xảy ra ở một số địa phương. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng 4/2010 là 1208 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1177 ha, riêng Sơn La bị cháy 816 ha. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng bị thiệt hại của cả nước là 2972 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2699 ha.
Thuỷ sản
Sản lượng thủy sản tháng 4/2010 ước tính đạt 380,3 nghìn tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 291,7 nghìn tấn, tăng 6,3%; tôm đạt 38,6 nghìn tấn, tăng 8,4%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Tư ước tính đạt 175,9 nghìn tấn, tăng 6,2% (cá 141,8 nghìn tấn, tăng 5,8%; tôm 24 nghìn tấn, tăng 9,1%). Sản lượng tôm tăng khá chủ yếu do diện tích thả nuôi được mở rộng từ những tháng trước và đã đến kỳ thu hoạch. Một số địa phương có sản lượng tôm thu hoạch cao là: Cà Mau 8500 tấn, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước; Bạc Liêu 5047 tấn, tăng 41,3%; Kiên Giang 1711 tấn, tăng 43%. Tuy nhiên, thời tiết phía Nam đang nắng nóng gay gắt, gây thiếu nước và làm tăng độ mặn trên diện tích nuôi tôm chưa đến kỳ thu hoạch, dẫn đến dịch bệnh xuất hiện ở một số địa phương. Các tỉnh có tỷ lệ diện tích nuôi tôm bị dịch bệnh cao là: Bạc Liêu 10361 ha, chiếm 9,3% diện tích đang thả nuôi; Kiên Giang 9400 ha, chiếm 13,4%; Quảng Nam 500 ha, chiếm 45%; Phú Yên 400 ha, chiếm 76% diện tích đang thả nuôi.
Nuôi cá tra tiếp tục phát triển theo hình thức nuôi quy mô lớn và liên doanh liên kết với cơ sở tiêu thụ. Một số địa phương có diện tích thả nuôi cá tra tăng trở lại là: Đồng Tháp 979 ha, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2009; Bến Tre 715 ha, tăng 19%; Vĩnh Long 422 ha, tăng 37,9%; Tiền Giang 110 ha, tăng 10%.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Tư ước tính đạt 204,4 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 188,7 nghìn tấn, tăng 7,4%. Một số địa phương có sản lượng đánh bắt tăng cao là: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 59%; Bình Định tăng 42%; Tiền Giang tăng 18%; Bến Tre tăng 13,2%. Sản lượng thủy sản khai thác tăng khá là nhờ chính sách của Chính phủ hỗ trợ vốn cho các địa phương nâng cấp tàu thuyền và ngư dân tranh thủ thời tiết thuận lợi tích cực ra khơi bám biển. Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thuỷ sản của cả nước ước tính đạt 1448 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Sản lượng nuôi trồng đạt 638,9 nghìn tấn, tăng 5,3%; sản lượng khai thác đạt 809,1 nghìn tấn, tăng 4,6%, trong đó khai thác cá ngừ đại dương tiếp tục được mùa và được giá (Phú Yên 3413 tấn, tăng 30,8%; Bình Định 2546 tấn, tăng 17%).
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 4/2010 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 62,7 nghìn tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 236,7 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 10,3% (Trung ương quản lý tăng 14,2%; địa phương quản lý giảm 3,4%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 12,7% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,1% (dầu mỏ và khí đốt giảm 10,4%, các ngành khác tăng 20.1%).
Trong 4 tháng đầu năm, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao so với mức tăng chung toàn ngành như: Khí hoá lỏng tăng 82,3%; điều hoà nhiệt độ tăng 45,4%; xe chở khách tăng 37,7%; kính thủy tinh tăng 37,5%; xe máy tăng 34%; sữa bột tăng 31,2%; xe tải tăng 31%; tủ lạnh, tủ đá tăng 28,9%; gạch lát ceramic tăng 24,3%; xà phòng tăng 23,5%; điện sản xuất tăng 18,9%; xi măng tăng 15,7%; khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 15,4%. Một số sản phẩm có tốc độ tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Giầy dép ủng bằng da giả tăng 12,2%; nước máy thương phẩm tăng 12%; thuỷ hải sản chế biến tăng 11,8%; giầy thể thao tăng 10,7%; ti vi tăng 9,9%; phân hoá học tăng 7,8%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 7,2%; vải dệt từ sợi bông tăng 6%; thép tròn tăng 5,8%; than sạch tăng 5,4%; dầu thực vật tinh luyện giảm 0,4%; đường kính giảm 3,6%.
Một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có qui mô sản xuất công nghiệp lớn có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp cao so với cùng kỳ năm trước như: Vĩnh Phúc tăng 45,3%; Phú Thọ tăng 30%; Đà Nẵng tăng 21,8%; Hải Dương tăng 19,6%; Bình Dương tăng 18,5%; Thanh Hoá tăng 16,5%; Hải Phòng tăng 15,4%. Bên cạnh đó, một số địa phương có tốc độ tăng thấp hơn mức tăng chung cả nước là: Đồng Nai tăng 13,2%; Quảng Ninh tăng 12,6%; Hà Nội tăng 12,3%; Cần Thơ tăng 12,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 9,7%; Khánh Hoà tăng 8,2%.
Đầu tư
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện tháng 4/2010 ước tính đạt 10,4 nghìn tỷ đồng, bằng 8,3% kế hoạch năm, bao gồm: Vốn trung ương đạt 3 nghìn tỷ đồng, bằng 8,1%; vốn địa phương đạt 7,4 nghìn tỷ đồng, bằng 8,4%. Tính chung 4 tháng đầu năm, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện đạt 33,4 nghìn tỷ đồng, bằng 26,7% kế hoạch năm, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 10,1 nghìn tỷ đồng, bằng 27% kế hoạch năm, trong đó: Vốn đầu tư thực hiện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 1208 tỷ đồng, bằng 37,9% kế hoạch năm; Bộ Xây dựng 314 tỷ đồng, bằng 31,7%; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch 152 tỷ đồng, bằng 25,9%; Bộ Công Thương 1040 tỷ đồng, bằng 25,7%; Bộ Giao thông Vận tải 1687 tỷ đồng, bằng 25,4%; Bộ Y tế 285 tỷ đồng, bằng 22,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 218,3 tỷ đồng, bằng 21,4% kế hoạch năm.
- Vốn địa phương quản lý đạt 23,3 nghìn tỷ đồng, bằng 26,6% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có tiến độ thực hiện nhanh là: Ninh Bình đạt 871,7 tỷ đồng, bằng 54,1% kế hoạch năm; Hoà Bình 490 tỷ đồng, bằng 46,3%; Đà Nẵng 1800 tỷ đồng, bằng 43,6%; Hải Phòng 670 tỷ đồng, bằng 40,4%; Bắc Ninh 460 tỷ đồng, bằng 38,1%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/4/2010 đạt 5,9 tỷ USD, bằng 74,3% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 263 dự án được cấp phép mới đạt 5,6 tỷ USD, tuy giảm 19,6% về số dự án nhưng tăng 58,5% về số vốn so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bổ sung của 92 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 325 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đầu năm ước tính đạt 3,4 tỷ USD, tăng 36% so với cùng kỳ năm 2009.
Trong 4 tháng đầu năm, cả nước có 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Quảng Ninh có số vốn đăng ký lớn nhất với 2147 triệu USD, chiếm 38,3% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Nghệ An 1003,7 triệu USD, chiếm 17,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 902,6 triệu USD, chiếm 16,1%; thành phố Hồ Chí Minh 445,2 triệu USD, chiếm 8%; Quảng Ngãi 340 triệu USD, chiếm 6,1%; Hà Tĩnh 157,4 triệu USD, chiếm 2,8%.
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam 4 tháng đầu năm, Hà Lan là nhà đầu tư lớn nhất với 2147 triệu USD, chiếm 38,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Nhật Bản 1047,2 triệu USD, chiếm 18,7%; Hoa Kỳ 961 triệu USD, chiếm 17,2%; Hàn Quốc 692 triệu USD, chiếm 12,4%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 204,5 triệu USD, chiếm 3,7%; Xin-ga-po 147,1 triệu USD, chiếm 2,6%; Đài Loan 146,1 triệu USD, chiếm 2,6%...
Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2010 ước tính bằng 29,2% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 28,6%; thu từ dầu thô bằng 24,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 34,4%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 31,5%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 25,5%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 27,1%; thu thuế thu nhập cá nhân bằng 26,4%; thu phí xăng dầu bằng 23,7%; thu phí, lệ phí bằng 27,9%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2010 ước tính bằng 25,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 27,3%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 28,3%; chi trả nợ và viện trợ bằng 30% dự toán năm.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng đầu năm ước tính đạt 487,5 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2009, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 15%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng đầu năm, kinh doanh thương nghiệp đạt 383,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,7 % tổng số và tăng 25,3%; khách sạn nhà hàng đạt 53,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,1%, tăng 21,8%; dịch vụ đạt 44,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,2 % và tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 4/2010 ước tính đạt 5,7 tỷ USD, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 33% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 20,2 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,9 tỷ USD, giảm 10,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 11,3 tỷ USD, tăng 31,9%, nếu trừ dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9,5 tỷ USD, tăng 44,2%. Trong 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó hàng dệt may đạt 3 tỷ USD, tăng 18,9%; giày dép đạt 1,4 tỷ USD, tăng 5,7%; thủy sản đạt 1,3 tỷ USD; tăng 20,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 1 tỷ USD, tăng 31,6%; điện tử máy tính và linh kiện đạt 985 triệu USD, tăng 39,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 910 triệu USD, tăng 74,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 538 triệu USD, tăng 135,5%; cao su đạt 470 triệu USD, tăng 141,7%; than đá đạt 485 triệu USD, tăng 27,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là: Dầu thô đạt 1,8 tỷ USD, giảm 9,2% (lượng giảm 47,2%); gạo đạt 1,1 tỷ USD, giảm 3,1% (lượng giảm 15,8%); cà phê đạt 655 triệu USD, giảm 22,8% (lượng giảm 16,1%).
Trong quí I/2010, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu vào hầu hết các thị trường đều tăng so với cùng kỳ năm 2009. Kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN đạt 2,6 tỷ USD, tăng 3,4%; EU đạt 2,3 tỷ USD, tăng 3,6%; Mỹ đạt 2,8 tỷ USD, tăng 22,5%; Nhật Bản đạt 1,6 tỷ USD, tăng 28%; Trung Quốc đạt 1,4 tỷ USD, tăng 52%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 4/2010 ước tính đạt gần 7 tỷ USD, tăng 3% so với tháng trước và tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 24,8 tỷ USD, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 14,6 tỷ USD, tăng 24,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,2 tỷ USD, tăng 55,6%. Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng máy móc, nguyên liệu phục vụ sản xuất đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 4 tỷ USD, tăng 14,8%; xăng dầu đạt 2,2 tỷ USD, tăng 19,6%; vải đạt 1,5 tỷ USD, tăng 19%; sắt thép đạt 1,6 tỷ USD, tăng 33,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,4 tỷ USD, tăng 43,7%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 54,7%; ô tô đạt 825 triệu USD, tăng 57%, trong đó ô tô nguyên chiếc 227 triệu USD, giảm 0,3%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 737 triệu USD, tăng 24,8%; hóa chất đạt 584 triệu USD, tăng 44,9%;
Nhập siêu tháng 4/2010 ước tính 1,3 tỷ USD, tăng 8,2% so với tháng trước và bằng 21,9% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Nhập siêu 4 tháng đầu năm đạt 4,7 tỷ USD, bằng 23,1% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2010 tăng 0,14% so với tháng trước. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,63% (lương thực giảm 1,91%; thực phẩm giảm 0,53%); bưu chính viễn thông giảm 0,06%. Tuy nhiên, giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng đã tác động làm chỉ số giá tiêu dùng tháng Tư tăng nhẹ, trong đó nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao nhất với 2,51%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,45%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,37%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,35%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,32%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,25%; giao thông và giáo dục đều tăng 0,12%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2010 so với cùng kỳ năm trước tăng 9,23%; so với tháng 12/2009 tăng 4,27%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm 2009 tăng 8,69%. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng tháng Tư đã tăng chậm lại nhưng bình quân một tháng trong 4 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,07%, đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 0,42% của cùng kỳ năm 2009. Để đạt mục tiêu chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2010 tăng không quá 7% thì bình quân mỗi tháng còn lại, chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 0,34%.
Chỉ số giá vàng tháng 4/2010 giảm 0,8% so với tháng trước, giảm 4,53% so với tháng 12/2009 và tăng 33,89% so với cùng kỳ năm 2009. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2010 giảm 0,28% so với tháng trước, tăng 1,22% so với tháng 12/2009 và tăng 7,86% so với cùng kỳ năm 2009.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận chuyển hành khách 4 tháng đầu năm ước tính đạt 757,7 triệu lượt khách, tăng 13,6% và 32,4 tỷ lượt khách.km, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 11,5 triệu lượt khách, tăng 11,2% và 8 tỷ lượt khách.km, tăng 17,1%; vận tải địa phương đạt 746,1 triệu lượt khách, tăng 13,8% và 24,4 tỷ lượt khách.km, tăng 15,2%. Trong các ngành vận tải, vận tải đường bộ đạt 692,7 triệu lượt khách, tăng 14,4% và 23,6 tỷ lượt khách.km, tăng 15%; vận tải đường sông đạt 55,2 triệu lượt khách, tăng 3,2% và 1,1 tỷ lượt khách.km, tăng 0,5%; vận tải đường biển đạt 2,1 triệu lượt khách, tăng 4,3% và 137,2 triệu lượt khách.km, tăng 5,7%; vận tải đường sắt đạt 3,6 triệu lượt khách, tăng 0,7% và 1,3 tỷ lượt khách.km, tăng 4,6%; vận tải đường không đạt mức tăng cao với 4,1 triệu lượt khách, tăng 28,5% và 6,3 tỷ lượt khách.km, tăng 24,4%.
Vận tải hàng hóa 4 tháng đầu năm ước tính đạt 227,7 triệu tấn, tăng 11,9% và 63,4 tỷ tấn.km, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 212,6 triệu tấn, tăng 13,5% và 18,1 tỷ tấn.km, tăng 8,2%; vận tải ngoài nước đạt 15,1 triệu tấn, tăng 8,3% và 45,3 tỷ tấn.km tăng 6,2%. Trong các ngành vận tải, vận tải hàng hoá đường bộ 4 tháng đầu năm ước tính đạt 170 triệu tấn, tăng 13,3% và 8,7 tỷ tấn.km, tăng 11,9%; đường sông đạt 38,6 triệu tấn, tăng 4,5% và 6,2 tỷ tấn.km, tăng 1,9%; đường biển đạt 16,4 triệu tấn, tăng 17% và 47,1 tỷ tấn.km, tăng 7%; đường sắt đạt 2,6 triệu tấn, giảm 0,6% và 1,3 tỷ tấn.km, tăng 3,9%.
Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới 4 tháng đầu năm ước tính đạt 13,4 triệu thuê bao, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm 815 nghìn thuê bao cố định, giảm 27,3% và 12,6 triệu thuê bao di động, tăng 31,3%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 4/2010 ước tính đạt 143,8 triệu thuê bao, tăng 56,2% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 19,9 triệu thuê bao cố định, tăng 30,4% và 123,9 triệu thuê bao di động, tăng 61,4%. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông tính đến cuối tháng 4/2010 ước tính đạt 71,3 triệu thuê bao, tăng 31,9% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 11,6 triệu thuê bao cố định, tăng 7% và 59,7 triệu thuê bao di động, tăng 38%.
Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến cuối tháng 4/2010 ước tính đạt 3,2 triệu thuê bao, tăng 35,6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 2,3 triệu thuê bao, tăng 49,8%. Số người sử dụng internet tính đến cuối tháng 4/2010 là 24,3 triệu người, tăng 14,8% so với cùng thời điểm năm 2009. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông 4 tháng đầu năm ước tính đạt 35,2 nghìn tỷ đồng, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 23,9 nghìn tỷ đồng, tăng 40,7%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta 4 tháng đầu năm ước tính đạt 1793,2 nghìn lượt người, tăng 35,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1127 nghìn lượt người, tăng 39,5%; đến vì công việc 357,6 nghìn lượt người, tăng 60,4%; thăm thân nhân đạt 215 nghìn lượt người, tăng 6,5%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường không với 1455,1 nghìn lượt người, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm 2009; đến bằng đường biển 16 nghìn lượt người, giảm 36,4%, đến bằng đường bộ 322,1 nghìn lượt người, tăng 83,3%.
Trong 4 tháng đầu năm, khách du lịch đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều có xu hướng tăng trở lại: Trung Quốc 307,6 nghìn lượt người, tăng 106,2% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 178,1 nghìn lượt người, tăng 32,8%; Hoa Kỳ 171,1 nghìn lượt người, tăng 10,4%; Nhật Bản 148,9 nghìn lượt người, tăng 15,8%; Đài Loan 118,1 nghìn lượt người, tăng 25,1%; Ôx-trây-li-a 103,8 nghìn lượt người, tăng 22,6%; Cam-pu-chia 79,9 nghìn lượt người, tăng 130,3%; Pháp 78,2 nghìn lượt người, tăng 15,6%; Thái Lan 71,3 nghìn lượt người, tăng 17,6%; Ma-lai-xi-a 60 nghìn lượt người, tăng 3,1%.
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Theo báo cáo sơ bộ của 20 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, trong tháng 4/2010 (tính từ 19/3/2010 đến 19/4/2010) có khoảng 222 nghìn hộ thiếu đói với 719 nghìn nhân khẩu thiếu đói, chiếm 1,9% tổng số hộ nông nghiệp và 1,4% tổng số nhân khẩu nông nghiệp. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 16,9 nghìn tấn lương thực và 6,3 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh
Trong tháng 4/2010 cả nước có 3 trường hợp mắc cúm A (H5N1), trong đó 1 trường hợp tử vong; 9 trường hợp mắc cúm A (H1N1); 2,1 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 206 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; gần 3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 7 trường hợp mắc bệnh tả và 44 trường hợp mắc thương hàn. Tính chung 4 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước có 8 trường hợp mắc cúm A (H5N1); 24 trường hợp mắc cúm A (H1N1); 9,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 690 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 3,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 12 trường hợp mắc bệnh tả và 121 trường hợp mắc bệnh thương hàn.
Số trường hợp nhiễm HIV được phát hiện thêm trong tháng 4/2010 là 2,1 nghìn trường hợp, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 20/4/2010 lên 210,4 nghìn người, trong đó 83,1 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 45,6 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Cũng trong tháng 4/2010, đã xảy ra 7 vụ ngộ độc thực phẩm tại 6 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm: Hà Giang, Lạng Sơn, Đà Nẵng, Phú Yên, Bà Rịa-Vũng Tàu, An Giang, làm 74 người bị ngộ độc, trong đó 1 người tử vong. Tính từ 17/12/2009 đến 17/4/2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 30 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 812 trường hợp bị ngộ độc, trong đó 13 người tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 3/2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 975 vụ tai nạn giao thông, làm chết 791 người và làm bị thương 666 người. So với cùng kỳ năm 2009, số vụ tai nạn giao thông giảm 7,7%; số người chết giảm 20%; số người bị thương giảm 1,9%. Tính chung 3 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 3495 vụ tai nạn giao thông, làm chết 2861 người và làm bị thương 2643 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 8,6%, số người chết giảm 5,6%, số người bị thương tăng 25,7%. Bình quân 1 ngày trong 3 tháng đầu năm 2010, cả nước có 39 vụ tai nạn giao thông, làm chết 32 người và làm bị thương 29 người.
Thiên tai
Mưa đá kèm theo lốc xoáy xảy ra đầu tháng Tư đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư các tỉnh: Cao Bằng, Yên Bái, Thái Nguyên, Điện Biên, Quảng Nam và Bình Phước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm hơn 800 ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng; hơn 1,5 nghìn ngôi nhà bị hư hại, tốc mái. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng Tư ước tính khoảng 11,8 tỷ đồng, trong đó Quảng Nam bị thiệt hại nhiều nhất với 9 tỷ đồng.
Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta 4 tháng đầu năm tiếp tục phát triển ổn định. Kết quả sản xuất, kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực tăng khá. Chỉ số giá tiêu dùng sau 3 tháng đầu năm tăng cao đã giảm xuống ở mức tăng thấp đối với hầu hết các nhóm hàng hóa và dịch vụ. Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tuy còn ở mức cao nhưng tháng Tư đã có xu hướng giảm so với 3 tháng đầu năm. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và bảo đảm chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, trong những tháng tới, các ngành, các cấp, các địa phương cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 của Chính phủ về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010, tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:
Một là, áp dụng có hiệu quả các biện pháp bình ổn giá khi thị trường có những biến động bất thường. Thực hiện có hiệu quả việc kiểm soát giá hàng hoá, dịch vụ độc quyền. Theo dõi sát diễn biến thị trường thế giới và trong nước nhằm dự báo chính xác để có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả. Bảo đảm các cân đối lớn về thu, chi ngân sách; tín dụng, đầu tư phát triển sản xuất; Chủ động tạo đủ nguồn hàng, tăng cường mạng lưới phân phối, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu như: Lương thực, thực phẩm, xăng dầu, thép, xi măng...để giảm thiểu áp lực tăng giá trong khâu lưu thông.
Hai là, thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt với trọng tâm là chính sách lãi suất và cho vay tín dụng minh bạch để huy động đủ nguồn vốn trong xã hội cung cấp cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất. Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, điều chỉnh tỷ giá đúng thời điểm, tạo thuận lợi cho sản xuất, xuất khẩu, từ đó ngăn ngừa lạm phát cao.
Ba là, cần tiếp tục thực hiện tốt chiến lược thu mua, dự trữ các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu, bảo đảm thu mua hết sản phẩm với giá hợp lý để tăng xuất khẩu, kích thích sản xuất và góp phần giảm nhập siêu. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu với sản phẩm đạt chất lượng cao và phong phú về mẫu mã, quy cách, chủng loại. Đẩy mạnh đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp hàng tiêu dùng để tạo ra nhiều hàng hóa đạt chất lượng thay thế hàng nhập khẩu.
Bốn là, tăng cường công tác phòng chống dịch, bệnh cho cây trồng, vật nuôi, không để lây lan trên diện rộng gây thiệt hại lớn và gây tâm lý hoang mang cho người sản xuất. Thực hiện nghiêm công tác kiểm dịch khâu giết mổ và vận chuyển gia súc, gia cầm để tránh tình trạng lây lan mầm bệnh sang các địa phương không bị dịch bệnh phát sinh. Tiếp tục chính sách hỗ trợ giá xăng dầu cho ngư dân duy trì bám biển đánh bắt hải sản. Có giải pháp hữu hiệu và các chính sách phù hợp hỗ trợ xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng, quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản.
Năm là, tập trung hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo thông qua trợ giúp các điều kiện và dịch vụ sản xuất, đào tạo nghề để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo; quan tâm giáo dục, nâng cao dân trí đối với người nghèo. Tiếp tục ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh, nhân rộng mô hình giảm nghèo, tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội. Tuyên truyền để người nghèo có ý thức vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Tệp đính kèm: