Tệp đính kèm:
Tình hình kinh tế - xã hội bảy tháng năm 2010
_______
Mức tăng trưởng 6,16% của 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy xu hướng phát triển khả quan của nền kinh tế nước ta. Phát huy những kết quả tích cực đã đạt được, các ngành, lĩnh vực và các địa phương trên cả nước đang nỗ lực tận dụng cơ hội, khắc phục khó khăn do thiên tai trong nước gây ra, đẩy nhanh tiến độ sản xuất, kinh doanh nhằm tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tình hình kinh tế-xã hội tháng Bảy và bảy tháng năm 2010 cụ thể như sau:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập trung vào gieo cấy lúa mùa, lúa hè thu và thu hoạch lúa hè thu sớm. Tính đến 15/7/2010, cả nước đã gieo cấy được 1024,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 96,2% cùng kỳ năm trước, bao gồm các địa phương phía Bắc gieo cấy 884,8 nghìn ha, bằng 95,4%; các địa phương phía Nam gieo cấy 139,7 nghìn ha, bằng 101,7%.
Cũng đến trung tuần tháng 7/2010, cả nước đã gieo cấy được 2183,5 nghìn ha lúa hè thu, bằng 100,6% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy 1778 nghìn ha, bằng 100,4%. Cùng với việc gieo cấy lúa hè thu, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được 724,7 nghìn ha lúa hè thu sớm, chiếm 40,7% diện tích xuống giống.
Gieo trồng rau màu trong tháng nhìn chung bảo đảm tiến độ. Các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 866,9 nghìn ha ngô, bằng 111,1% cùng kỳ năm trước; 111,5 nghìn ha khoai lang, bằng 98,2%; 155,6 nghìn ha đậu tương, bằng 106,7%; 196,2 nghìn ha lạc, bằng 97,9%; 603,3 nghìn ha rau, đậu, bằng 107,8%.
Tình hình nắng nóng kéo dài ở các tỉnh phía Bắc vào thời điểm đầu vụ đã ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất nông nghiệp của một số địa phương. Một số tỉnh có diện tích gieo cấy lúa mùa đạt thấp so với cùng kỳ năm trước là: Thanh Hóa bằng 94,3%; Thái Nguyên 85,7%; Lạng Sơn 78,5%; Hải Phòng 77%; Bắc Kạn 30%. Tình trạng khô hạn gay gắt cũng đã làm trên 32 nghìn ha lúa và hơn 10 nghìn ha hoa màu bị thiếu nước. Một số địa phương có nhiều diện tích lúa trong tình trạng thiếu nước nặng là: Nghệ An 18,3 nghìn ha; Hà Tĩnh 10 nghìn ha; Quảng Bình 3 nghìn ha; Quảng Trị 2,4 nghìn ha.
Ngoài ra, sâu bệnh xuất hiện và phát triển tại một số địa phương đã làm một số diện tích lúa hè thu và mùa sớm bị nhiễm bệnh. Trong đó hai vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long có gần 300 nghìn ha lúa nhiễm rầy nâu và sâu cuốn lá nhỏ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Long An, An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu.
Hiện nay, tranh thủ thời tiết có mưa, các địa phương phía Bắc đang tập trung đẩy nhanh tiến độ gieo cấy và cấy dặm lại những diện tích lúa bị hạn, đồng thời tích cực chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh trên diện tích lúa mới cấy.
Chăn nuôi trâu, bò thời gian qua gặp khó khăn do thời tiết nắng nóng kéo dài, dẫn đến hiện tượng trâu, bò chết rải rác tại một số địa phương như: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ngãi. Chăn nuôi lợn tuy có xu hướng tăng lên nhưng tốc độ phát triển còn chậm do tâm lý lo ngại dịch tai xanh. Chăn nuôi gia cầm đang được đầu tư mở rộng theo mô hình trang trại, gia trại do dịch cúm gia cầm đã được khống chế. Các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm tiếp tục được các địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện, trong đó công tác tiêm phòng vacin được triển khai tích cực nhằm hạn chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Tính đến ngày 27/7/2010, dịch tai xanh trên lợn chưa qua 21 ngày còn ở 10 tỉnh là: Cao Bằng, Lào Cai, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Long An, Bình Dương, Tiền Giang, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 7/2010 ước tính đạt 21,1 nghìn ha, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2009; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 16,1 triệu cây, tăng 0,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 331,4 nghìn m3, tăng 6,1%. Tính chung bảy tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 97,3 nghìn ha, bằng 104,1% cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 123,7 triệu cây, bằng 100,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2106,4 nghìn m3, tăng 6%.
Công tác bảo vệ rừng trong thời gian qua mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng còn gặp một số khó khăn. Thời tiết khô hanh và nắng nóng kéo dài đã làm một số diện tích rừng bị cháy, tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Tình trạng chặt phá rừng vẫn xảy ra rải rác tại một số địa bàn vùng sâu, vùng xa. Trong bảy tháng năm 2010, diện tích rừng bị thiệt hại là 7732,3 ha, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 6703,9 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 1028,4 ha. Các tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Sơn La 1099 ha; Yên Bái 1060 ha; Hà Giang 818,8 ha; Lào Cai 795,5 ha; Kiên Giang 347,3 ha; Phú Yên 264,4 ha.
Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản tháng 7/2010 ước tính đạt 464,8 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá 346,5 nghìn tấn, tăng 2,9%; tôm 70,5 nghìn tấn, tăng 6,3%. Nuôi trồng thủy sản trong tháng có nhiều thuận lợi do giá thu mua tôm sú nguyên liệu đang ở mức cao. Bên cạnh đó, một số loại thủy sản khác được nuôi kết hợp nhiều hình thức tiếp tục phát triển tại nhiều địa phương nên sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng 7/2010 ước tính đạt 289 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó cá 209 nghìn tấn, tăng 4%; tôm 61,5 nghìn tấn, tăng 7,1%.
Hoạt động khai thác thủy sản trong tháng bị ảnh hưởng của bão nên sản lượng thủy sản khai thác tháng 7/2010 chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2009, ước tính đạt 175,8 nghìn tấn, tăng 1,2%, trong đó khai thác biển đạt 159,1 nghìn tấn, tăng 1,5%.
Tính chung bảy tháng năm 2010, sản lượng thủy sản ước tính đạt 2894,6 nghìn tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước (Cá đạt 2230,4 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm 275,4 nghìn tấn, tăng 5,9%), bao gồm sản lượng nuôi trồng đạt 1495,7 nghìn tấn, tăng 5,1%; sản lượng khai thác đạt 1398,9 nghìn tấn, tăng 4,2%. Vụ khai thác cá ngừ đại dương trong năm đã kết thúc, một số tỉnh đạt sản lượng cao là: Bình Định 3,4 nghìn tấn, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước; Phú Yên 4,8 nghìn tấn, tăng 14,9%.
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 tháng 7/2010 ước tính tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 6,3% (Trung ương quản lý tăng 9,1%; địa phương quản lý giảm 4,6%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 12,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,8% (dầu mỏ và khí đốt giảm 1,8%, các ngành khác tăng 17,8%).
Tính chung bảy tháng năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 434,8 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 8,9% (Trung ương quản lý tăng 12,1%; địa phương quản lý giảm 3,8%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 12,5% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17% (dầu mỏ và khí đốt giảm 5,6%, các ngành khác tăng 20,2%).
Trong bảy tháng năm 2010, nhiều sản phẩm chủ yếu có sản lượng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Khí hóa lỏng tăng 100,4%; sữa bột tăng 35%; xe tải tăng 25,9%; lốp ô tô, máy kéo tăng 24%; kính thủy tinh tăng 23,1%; xe chở khách tăng 22,4%; xe máy tăng 21,8%; giày thể thao tăng 21,4%; bia tăng 21,2%; nước máy thương phẩm tăng 20%; tủ lạnh, tủ đá tăng 19,3%; xi măng tăng 18,6%; quần áo người lớn tăng 18%; khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 16,4%; điện sản xuất tăng 15%; gạch xây bằng đất nung tăng 13,9%. Tuy nhiên, còn nhiều sản phẩm quan trọng có mức tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước như: Thủy hải sản chế biến tăng 13%; giấy, bìa tăng 12,7%; sơn hóa học và điều hòa nhiệt độ cùng tăng 12,3%; gạch lát ceramic tăng 9,5%; phân hóa học tăng 8,4%; xà phòng tăng 5,9%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 3,7%; than đá tăng 2,2%; giày, dép, ủng bằng da giả cho người lớn tăng 2%; vải dệt từ sợi bông tăng 0,8%; thép tròn giảm 0,2%; thuốc lá điếu giảm 1,1%; máy giặt giảm 5,9%; dầu mỏ thô khai thác giảm 14,5%.
Đầu tư
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện tháng 7/2010 ước tính đạt 14,6 nghìn tỷ đồng, bằng 11,7% kế hoạch năm. Tính chung bảy tháng, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện đạt 77,6 nghìn tỷ đồng, bằng 62% kế hoạch năm, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 23,9 nghìn tỷ đồng, bằng 63,6% kế hoạch năm, trong đó: Vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 860,3 tỷ đồng, bằng 84,4% kế hoạch năm; Bộ Giao thông Vận tải 5210 tỷ đồng, bằng 78,3%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2460 tỷ đồng, bằng 77,2%; Bộ Công Thương 1880 tỷ đồng, bằng 46,5%; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch 266,7 tỷ đồng, bằng 45,4%; Bộ Y tế 545,6 tỷ đồng, bằng 43,4%; Bộ Xây dựng 353,5 tỷ đồng, bằng 35,7% kế hoạch năm.
- Vốn địa phương quản lý đạt 53,7 nghìn tỷ đồng, bằng 61,4% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có tiến độ thực hiện nhanh là: Ninh Bình đạt 2234,7 tỷ đồng, bằng 138,6% kế hoạch năm; Thừa Thiên-Huế 1333,5 tỷ đồng, bằng 79%; Hải Phòng 1305,3 tỷ đồng, bằng 78,7%; Hải Dương 674,7 tỷ đồng, bằng 77,6%; Hoà Bình 820,2 tỷ đồng, bằng 77,6%; Bắc Ninh 915,6 tỷ đồng, bằng 75,9%; Hà Tĩnh 1355,4 tỷ đồng, bằng 75%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/7/2010 đạt 9,1 tỷ USD, bằng 68,2% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 533 dự án được cấp phép mới đạt 8,4 tỷ USD (giảm 16,1% về số dự án và tăng 5,4% về số vốn so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 137 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 715 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện bảy tháng năm 2010 ước tính đạt 6,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2009.
Trong bảy tháng năm 2010, cả nước có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Bà Rịa-Vũng Tàu có số vốn đăng ký lớn nhất với 2156,9 triệu USD, chiếm 25,6% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Quảng Ninh 2147 triệu USD, chiếm 25,5%; thành phố Hồ Chí Minh 1077,3 triệu USD, chiếm 12,8%; Nghệ An 1007,7 triệu USD, chiếm 12%; Quảng Ngãi 369 triệu USD, chiếm 4,4%; Hà Tĩnh 206,1 triệu USD, chiếm 2,5%.
Trong số 41 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Hà Lan là nhà đầu tư lớn nhất với 2214,5 triệu USD, chiếm 26,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 1616,7 triệu USD, chiếm 19,2%; Nhật Bản 1261 triệu USD, chiếm 15%; Hoa Kỳ 1007,1 triệu USD, chiếm 12%; Đài Loan 870,5 triệu USD, chiếm 10,3%; Đảo Cay-men 363 triệu USD, chiếm 4,3%; Xin-ga-po 217,5 triệu USD, chiếm 2,6%...
Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2010 ước tính bằng 57,5% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 57%; thu từ dầu thô bằng 50,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 63,9%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 57,6% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 52,4%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 54%; thuế thu nhập cá nhân bằng 58,5%; thu phí xăng dầu bằng 58,4%; thu phí, lệ phí bằng 48%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2010 ước tính bằng 51,3% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 56,3%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 51,4%; chi trả nợ và viện trợ bằng 46,9%.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bảy tháng năm 2010 ước tính đạt 877,5 nghìn tỷ đồng, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2009, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 16,3%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bảy tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 693,6 nghìn tỷ đồng, tăng 27,5%; khách sạn nhà hàng đạt 96 nghìn tỷ đồng, tăng 21,9%; dịch vụ đạt 78,8 nghìn tỷ đồng, tăng 22,1%; du lịch đạt 9,1 nghìn tỷ đồng, tăng 32,5%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 7/2010 ước tính đạt 5,8 tỷ USD, giảm 8,2% so với tháng trước và tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 38,3 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 17,6 tỷ USD, tăng 8,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) đạt 20,7 tỷ USD, tăng 26,7%, nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu khu vực này đạt 17,7 tỷ USD, tăng 40,1%.
Trong bảy tháng năm 2010, nhiều mặt hàng chủ yếu vẫn duy trì được mức kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm 2009 là: Hàng dệt may đạt 5,9 tỷ USD, tăng 17,4%; giày dép đạt 2,8 tỷ USD, tăng 13,8%; thủy sản đạt 2,4 tỷ USD tăng 11,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,8 tỷ USD, tăng 33,5%; điện tử máy tính đạt 1,8 tỷ USD, tăng 29%; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 1,6 tỷ USD, tăng 62,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 923 triệu USD, tăng 100,9%; hạt điều đạt 542 triệu USD, tăng 25,3%. Tuy nhiên, cần lưu ý một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch tăng thấp hoặc lượng giảm như: Gạo có kim ngạch tăng 3,4% và lượng giảm 2,5%; cao su tuy tăng 85,1% về kim ngạch nhưng lượng giảm 3,4%; cà phê giảm 10,4% về kim ngạch và giảm 5,9% về lượng; sắn và sản phẩm của sắn giảm 16,4% về kim ngạch và giảm 52% về lượng.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 7/2010 ước tính đạt trên 6,9 tỷ USD, giảm 1,5% so với tháng trước và tăng 9% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 45,7 tỷ USD, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 26,3 tỷ USD, tăng 13,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 19,4 tỷ USD, tăng 46,4%.
Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 7,4 tỷ USD, tăng 14%; xăng dầu đạt 3,8 tỷ USD, tăng 8,4%; sắt thép đạt 3,3 tỷ USD, tăng 22,9%; vải đạt 3,2 tỷ USD, tăng 34,3%; điện tử máy tính và linh kiện đạt 2,6 tỷ USD, tăng 32,4%; chất dẻo đạt 2 tỷ USD, tăng 38,5%; nguyên, phụ liệu dệt may, giày dép đạt 1,5 tỷ USD, tăng 35,4%; ôtô đạt 1,6 tỷ USD, tăng 19,5%, trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 488 triệu USD, giảm 7,9%; hóa chất đạt 1,1 tỷ USD tăng 24,9%.
Nhập siêu hàng hóa tháng 7/2010 ước tính đạt 1,15 tỷ USD, bằng 19,8% kim ngạch xuất khẩu. Tính chung bảy tháng, nhập siêu hàng hóa đạt 7,4 tỷ USD, bằng 19,4% kim ngạch xuất khẩu.
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2010 tăng nhẹ ở mức 0,06% so với tháng trước. Đây là mức tăng thấp nhất kể từ tháng 4/2009. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng có chỉ số giá tăng là: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,41%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,39%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,35%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,25%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,22%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,21% (lương thực giảm 0,97%; thực phẩm tăng 0,5%); giáo dục tăng 0,11%. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: Giao thông giảm 0,94%; nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,47%; bưu chính viễn thông giảm 0,07%.
Giá tiêu dùng tháng 7/2010 tăng 4,84% so với tháng 12/2009 và tăng 8,19% so với cùng kỳ năm trước. Giá tiêu dùng bình quân bảy tháng năm 2010 tăng 8,67% so với cùng kỳ năm 2009.
Giá vàng tháng 7/2010 tăng 2,15% so với tháng trước, tăng 2,46% so với tháng 12/2009 và tăng 35,86% so với cùng kỳ năm trước. Giá đô la Mỹ tháng 7/2010 tăng 0,38% so với tháng trước, tăng 0,79% so với tháng 12 năm trước và tăng 5,04% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách bảy tháng năm 2010 ước tính đạt 1359,5 triệu lượt khách, tăng 13,8% và 59,3 tỷ lượt khách.km, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 22,5 triệu lượt khách, tăng 11,5% và 15,5 tỷ lượt khách.km, tăng 14,6%; vận tải địa phương đạt 1337 triệu lượt khách, tăng 14,1% và 43,8 tỷ lượt khách.km, tăng 16,7%. Vận tải hành khách đường bộ bảy tháng ước tính đạt 1243,9 triệu lượt khách, tăng 14,6% và 42,6 tỷ lượt khách.km, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 96,8 triệu lượt khách, tăng 3% và 2 tỷ lượt khách.km, tăng 1,7%; đường hàng không đạt 7,9 triệu lượt khách, tăng 29,9% và 11,8 tỷ lượt khách.km, tăng 28,4%; đường biển đạt 3,8 triệu lượt khách, tăng 4% và 239,9 triệu lượt khách.km, tăng 5,2%; đường sắt đạt 7,1 triệu lượt khách, tăng 6,1% và 2,6 tỷ lượt khách.km, tăng 6,7% .
Vận tải hàng hóa bảy tháng năm 2010 ước tính đạt 402,5 triệu tấn, tăng 11,8% và 119,2 tỷ tấn.km, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 375,1 triệu tấn, tăng 12,6% và 32,4 tỷ tấn.km, tăng 10,1% ; vận tải ngoài nước đạt 27,4 triệu tấn, tăng 10,7% và 86,8 tỷ tấn.km, tăng 8,4%. Vận tải hàng hoá đường bộ bảy tháng đạt 299,6 triệu tấn, tăng 12,4% và 16 tỷ tấn.km, tăng 12,7%; đường sông đạt 67,9 triệu tấn, tăng 5% và 10,8 tỷ tấn.km, tăng 1,6%; đường biển đạt 30,5 triệu tấn, tăng 24% và 89,9 tỷ tấn.km, tăng 10,5%; đường sắt đạt 4,4 triệu tấn, giảm 6,1% và 2,2 tỷ tấn.km, bằng cùng kỳ năm trước.
Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới bảy tháng năm 2010 đạt 29,6 triệu thuê bao, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm 729,3 nghìn thuê bao cố định, giảm 70,3% và 28,9 triệu thuê bao di động, tăng 20,1%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 7/2010 ước tính đạt 157,8 triệu thuê bao, tăng 46,3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 17,5 triệu thuê bao cố định, tăng 5,9% và 140,3 triệu thuê bao di động, tăng 53,7%. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông tính đến cuối tháng 7/2010 đạt 82,8 triệu thuê bao, tăng 40,7% so với cùng thời điểm năm 2009, bao gồm 11,6 triệu thuê bao cố định và 71,2 triệu thuê bao di động.
Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến hết tháng 7/2010 ước tính đạt 3,4 triệu thuê bao, tăng 31,6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 2,4 triệu thuê bao, tăng 36,7%. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 7/2010 đạt 25,1 triệu người, tăng 16,2% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông bảy tháng ước tính đạt 68,3 nghìn tỷ đồng, tăng 33,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 45,3 nghìn tỷ đồng, tăng 32,3%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta bảy tháng năm 2010 ước tính đạt 2920,5 nghìn lượt người, tăng 34,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1845,6 nghìn lượt người, tăng 44,4%; đến vì công việc 585,6 nghìn lượt người, tăng 45,7%; thăm thân nhân đạt 347,3 nghìn lượt người, tăng 2%. Khách quốc tế đến nước ta trong bảy tháng bằng đường không là 2344,4 nghìn lượt người, tăng 32,2% so với cùng kỳ năm 2009; đến bằng đường biển 28 nghìn lượt người, giảm 40,9%, đến bằng đường bộ 548,1 nghìn lượt người, tăng 59,4%.
Trong bảy tháng năm 2010, khách quốc tế đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tăng so với cùng kỳ năm 2009, trong đó khách đến từ Trung Quốc là 511,8 nghìn lượt người, tăng 95,4%; Hàn Quốc 289,2 nghìn lượt người, tăng 31,1%; Hoa Kỳ 266,9 nghìn lượt người, tăng 2%; Nhật Bản 240,3 nghìn lượt người, tăng 21,4%; Đài Loan 199,1 nghìn lượt người, tăng 22,5%; Ôx-trây-li-a 166,9 nghìn lượt người, tăng 28,6%; Cam-pu-chia 142,7 nghìn lượt người, tăng 93,1%; Thái Lan 125,8 nghìn lượt người, tăng 32,1%; Pháp 117,6 nghìn lượt người, tăng 12,7%; Ma-lai-xi-a 115,7 nghìn lượt người, tăng 19,4%.
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, trong tháng 7/2010 (tính đến 20/7), cả nước có 26,3 nghìn hộ thiếu đói với 122,3 nghìn nhân khẩu thiếu đói. So với cùng kỳ năm 2009, số hộ thiếu đói giảm 13,5% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 12,3%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành, các đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 23,8 nghìn tấn lương thực và 11,8 tỷ đồng, riêng trong tháng 7 hỗ trợ 1,8 nghìn tấn lương thực và 2,6 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh
Từ 21/6/2010 đến 20/7/2010, cả nước có 4,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 5,7 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 119 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 105 trường hợp mắc bệnh tả; 22 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do mô cầu; 54 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 414 trường hợp ngộ độc thực phẩm. Tính chung bảy tháng năm 2010, cả nước có 20,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 22,7 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 2,9 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 97 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do mô cầu; 262 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 3 nghìn trường hợp ngộ độc thực phẩm. Cũng trong tháng 7/2010, đã có thêm 2,7 nghìn trường hợp nhiễm HIV được phát hiện, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến 20/7/2010 lên 225,5 nghìn người, trong đó 89,4 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 47,7 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra liên tiếp trong tháng 7/2010, đặc biệt là hai cơn bão số 1 và 2 đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư một số địa phương. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 40 người chết và mất tích; gần 13 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng, trong đó gần 782 ha bị mất trắng; 133ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; gần 1,9 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng 7/2010 ước tính 1281,9 tỷ đồng (riêng thiệt hại do cơn bão số 1 gây ra gần 1216 tỷ đồng), trong đó Hải Phòng bị thiệt hại nặng nhất với khoảng 1200 tỷ đồng. Các địa phương đang khẩn trương khắc phục hậu quả sau bão và triển khai công tác cứu trợ nhằm sớm ổn định sản xuất và đời sống dân cư.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 6/2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1089 vụ tai nạn giao thông, làm 936 người chết và 862 người bị thương. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 9,5%; số người chết tăng 0,4%; số người bị thương tăng 33,4%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 6941 vụ tai nạn giao thông, làm 5662 người chết và 5215 người bị thương. So với cùng kỳ năm 2009, số vụ tai nạn giao thông tăng 11,4%; số người chết giảm 2,8%; số người bị thương tăng 31,2%. Bình quân 1 ngày trong 6 tháng đầu năm 2010, cả nước có 38 vụ tai nạn giao thông, làm 31 người chết và 28 người bị thương.
Khái quát lại, sản xuất kinh doanh trong nước 7 tháng năm 2010 tuy gặp một số khó khăn như: Hạn hán kéo dài gây ảnh hưởng đến nguồn cung điện cho sản xuất và sinh hoạt; thiên tai bão lũ xảy ra liên tiếp; sâu bệnh và dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, nhưng nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời và quyết liệt của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, cùng với tinh thần chủ động khắc phục khó khăn của các cấp, các ngành nên kinh tế nước ta tiếp tục phát triển theo hướng tích cực. Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng khá; nhập siêu hàng hóa đã có xu hướng được cải thiện; giá cả ổn định.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế nước ta vẫn phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức: Kinh tế thế giới mặc dù đang hồi phục nhưng chưa ổn định với nhiều yếu tố bất thường, ảnh hưởng đến thị trường hàng hóa và giá cả trong nước. Thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi diễn biến phức tạp, nhất là thời tiết đang vào mùa mưa bão. Do đó, để tiếp tục đạt được những kết quả cao hơn, trong thời gian tới các cấp, các ngành, các địa phương cần triển khai tích cực những công việc đã đề ra trong kế hoạch hành động nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:
Một là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình nguồn và lưới điện để khẩn trương đưa vào hoạt động. Bên cạnh đó, các đơn vị sản xuất và cung ứng điện cần tích cực phối hợp chặt chẽ nhằm huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đảm bảo cung cấp điện an toàn, liên tục và chất lượng, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng.
Hai là, tiếp tục chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp kiểm soát giá cả, đi đôi với việc bảo đảm cung - cầu hàng hóa, không để tình trạng tăng giá bất hợp lý. Trong đó đặc biệt thực hiện thanh tra, kiểm tra thường xuyên và kiểm soát chi phí đầu vào của các sản phẩm hàng hoá, đồng thời thực hiện nghiêm việc đăng ký, kê khai giá đối với một số mặt hàng như: Sữa, sắt thép. Khẩn trương hoàn thiện các văn bản về tăng mức xử phạt đối với những trường hợp vi phạm về giá để giữ ổn định giá thị trường.
Ba là, thực hiện rà soát việc nhập khẩu thiết bị máy móc cần thiết, phục vụ sản xuất ở mức hợp lý. Có chính sách, giải pháp hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp hoặc đã sản xuất được ở trong nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải tiến công nghệ, phát huy thiết bị đã sản xuất được trong nước để giảm chi phí, hạ giá thành và tăng hiệu quả đầu tư, góp phần giảm nhập siêu. Nhanh chóng hoàn thiện việc xây dựng hàng rào kỹ thuật hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Có cơ chế thuế suất đúng mức nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất nhiều sản phẩm và người tiêu dùng ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Bốn là, nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo bão lụt, phối hợp chặt chẽ và chủ động phòng tránh, đồng thời nâng cao khả năng ứng phó kịp thời khi có tình huống xấu do bão, lũ gây ra. Xây dựng các phương án linh hoạt về triển khai lực lượng, cơ sở vật chất, trang thiết bị ứng phó với tình hình diễn biến của bão cũng như cứu hộ, cứu nạn, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản của nhà nước và nhân dân. Các cơ quan có trách nhiệm cần xây dựng phương án cụ thể về chế độ chính sách hỗ trợ thiệt hại do bão lụt gây ra để có căn cứ chủ động hỗ trợ kịp thời cho người dân.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Tệp đính kèm: