Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, ngày 20/10/2014
21/10/2014
Báo cáo của Thủ tướng về tình hình KT-XH tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII
(Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, ngày 20/10/2014)
________________
Thưa Quốc hội,
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,
Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ gửi đến Quốc hội 49 báo cáo về các lĩnh vực của đất nước. Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo Quốc hội và đồng bào cả nước những nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2014
Chúng ta thực hiện nhiệm vụ năm 2014 trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Xung đột xảy ra ở nhiều nơi. Căng thẳng trên biển Hoa Đông và biển Đông.
Trong nước, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát. Tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao. Nhu cầu cho phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh rất lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp. Việc Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển của Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Khó khăn thách thức là rất lớn. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ đã triển khai quyết liệt, đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm các giải pháp thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2014 theo Nghị quyết của Quốc hội. Hàng tháng đều có kiểm điểm, đánh giá và điều chỉnh, bổ sung.
Với sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, đồng bào cả nước và cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực. Trên cơ sở kết quả 9 tháng đầu năm và ước thực hiện các tháng cuối năm, Chính phủ xin báo cáo những nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 như sau:
1. Về kinh tế vĩ mô
Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định tốt hơn. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, 9 tháng tăng 2,25%, thấp nhất trong 10 năm qua; dự kiến cả năm tăng dưới 5%. Mặt bằng lãi suất giảm khoảng 2% so với cuối năm 2013. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9 đạt 7,26% (cùng kỳ là 6,87%), dự kiến cả năm tăng 12 - 14% theo kế hoạch. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại tệ tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên.[1]
Xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng khá cao. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tăng 14,4%. Xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng 13% (cùng kỳ tăng 3%). Nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng cao (hạt tiêu tăng 41,5%, cà phê tăng 31%, giầy dép tăng 24,5%, hạt điều tăng 23,7%, thủy sản tăng 23,7%, máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 22,1%, dệt may tăng 19%, điện thoại và các loại linh kiện điện tử tăng 11,3%). Nhập khẩu tăng 11,6%, chủ yếu là máy móc, thiết bị và nguyên nhiên vật liệu. Ước cả năm xuất khẩu khoảng 148 tỷ USD, tăng 12,1%; nhập khẩu khoảng 146,5 tỷ USD, tăng 11%. Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế tổng thể tiếp tục thặng dư.[2]
Thu ngân sách nhà nước 9 tháng tăng 17,2% so với cùng kỳ. Ước thu cả năm vượt 10,6% dự toán. Bảo đảm chi theo kế hoạch và nhu cầu cấp bách phát sinh. Bội chi ngân sách 5,3% GDP. Nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia vẫn trong giới hạn cho phép tại Nghị quyết số 10/2011/QH13 của Quốc hội.[3]
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 9 tháng tăng 10,3% so với cùng kỳ, ước cả năm bằng khoảng 30,1% GDP. Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng 12,8%, ước cả năm tăng 5,45%. Vốn FDI thực hiện đạt 8,9 tỷ, tăng 3,2%, ước cả năm đạt 12,5 tỷ USD, tăng 8,7%. Vốn ODA giải ngân đạt 4,1 tỷ, tăng 10%, ước cả năm đạt 5,5 tỷ USD, tăng 7,1%. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ ước cả năm tăng khoảng 18,3%.[4]
Quản lý thị trường, giá cả được tăng cường; giá sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi có loại giảm đến 34%, giá thuốc chữa bệnh qua đấu thầu giảm bình quân 25 - 30%. Tiếp tục thực hiện giá thị trường theo lộ trình đối với xăng dầu, điện, than, nước sạch, các dịch vụ giáo dục, y tế... đồng thời thực hiện hỗ trợ đối với hộ nghèo và đối tượng chính sách. Phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại được đẩy mạnh.[5]
Kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế chưa vững chắc. Bội chi ngân sách còn cao. Nợ công tăng nhanh. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì khoảng 26,2%.[6] Tổng cầu tăng chậm. Tăng trưởng tín dụng chậm trong những tháng đầu năm. Nợ xấu còn cao, xử lý còn chậm. Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường chứng khoán phát triển chưa vững chắc. Thị trường bất động sản phục hồi chậm. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Quản lý thị trường, phòng chống gian lận thương mại, chuyển giá hiệu quả chưa cao.[7]
2. Về tăng trưởng kinh tế và môi trường đầu tư kinh doanh
Tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp như thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, tín dụng, đất đai, xây dựng, thành lập và giải thể doanh nghiệp, thủ tục đầu tư, tiếp cận điện năng... Môi trường kinh doanh có bước được cải thiện, huy động và sử dụng ngày càng tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới tăng 13,9%, vốn đăng ký bình quân mỗi doanh nghiệp tăng 24,6%; số doanh nghiệp hoạt động trở lại tăng 5,1%.[8]
Kinh tế tiếp tục tăng trưởng; quý I đạt 5,09%, quý II đạt 5,25%, quý III đạt 6,19%, tính chung 9 tháng đạt 5,62%, cao hơn cùng kỳ 2 năm trước; ước cả năm 2014 đạt khoảng 5,8%. Sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 6,7%. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 3,5%. Khu vực dịch vụ tăng gần 6%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,1% (loại trừ yếu tố giá tăng khoảng 6,2%). Khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng đạt trên 6 triệu lượt, tăng 10,4%, ước cả năm đạt khoảng 8 triệu lượt.[9]
Môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh cải thiện còn chậm. Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc. Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Doanh nghiệp còn khó tiếp cận vốn tín dụng. Năng lực tài chính và quản trị của phần lớn doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước giảm.[10]
Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế được tích cực triển khai thực hiện. Tăng cường quản lý, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách và đẩy mạnh tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Trình Quốc hội ban hành Luật Đầu tư công. Đổi mới quản lý đầu tư theo kế hoạch trung hạn. Tập trung vốn cho các công trình quan trọng, cấp thiết, sớm hoàn thành đưa vào sử dụng, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Quyết định đầu tư phải xác định được nguồn và khả năng cân đối vốn. Tăng cường xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, kiểm soát chặt chẽ các dự án khởi công mới. Hoàn thiện cơ chế chính sách, nhất là các hình thức hợp tác công - tư để thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước.
Đẩy mạnh thực hiện Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Cơ bản hoàn thành tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, giảm 7 tổ chức tín dụng, năng lực tài chính của ngân hàng thương mại tăng lên, an toàn hệ thống được bảo đảm. Đã xử lý 53,6% tổng số nợ xấu được xác định trong Đề án bằng thu hồi nợ, tái cơ cấu nợ, sử dụng dự phòng rủi ro và mua lại nợ xấu qua Công ty quản lý tài sản (VAMC).[11]
Tăng cường quản lý và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ban hành các cơ chế chính sách tháo gỡ vướng mắc trong cổ phần hóa và thoái vốn. Trong kế hoạch cổ phần hóa 432 doanh nghiệp giai đoạn 2014 - 2015, qua 9 tháng đã cổ phần hóa 71 doanh nghiệp (gần bằng cả năm 2013 là 74 doanh nghiệp) và đã công bố giá trị 123 doanh nghiệp, dự kiến cả năm sẽ cổ phần hóa khoảng 200 doanh nghiệp. Thoái vốn đầu tư ngoài ngành 9 tháng đạt 3.500 tỷ đồng, gấp 3,6 lần cả năm 2013. Hầu hết các tập đoàn, tổng công ty nhà nước làm ăn có lãi, vốn chủ sở hữu được bảo toàn và phát triển, đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng. Đang triển khai thực hiện tái cơ cấu các công ty nông, lâm nghiệp theo Nghị quyết của Bộ Chính trị.[12]
Đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Thực hiện các chính sách hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển chăn nuôi, khai thác nuôi trồng thủy sản, trồng rừng gỗ lớn và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa nông nghiệp. Nhân rộng các mô hình cánh đồng lớn, dồn điền đổi thửa, liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh. Phong trào xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, đến cuối năm 2014 dự kiến có khoảng 790 xã hoàn thành 19 tiêu chí (chiếm 8,8%).[13]
Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch tích cực; tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo tăng, công nghiệp khai khoáng giảm. Nhiều dự án đầu tư trong các lĩnh vực điện tử, năng lượng, xây dựng hạ tầng... đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, xuất khẩu, việc làm và tăng trưởng. Các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học công nghệ cao như công nghệ thông tin truyền thông, tài chính ngân hàng, y tế, vận tải, logistics, hàng không, du lịch, thương mại... được tập trung phát triển và đạt được nhiều kết quả.[14]
Tái cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp. Tốc độ đổi mới công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm. Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo và tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP còn thấp so với các nước trong khu vực. Doanh nghiệp trong nước chưa tham gia được nhiều vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới chưa đạt mục tiêu đề ra. Tái cơ cấu đầu tư công một số nơi triển khai chậm, nợ đọng xây dựng cơ bản vẫn còn lớn; việc thu hút đầu tư ngoài nhà nước vào phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Vẫn còn một số tổ chức tín dụng yếu kém. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiệu quả chưa cao. Hiệu quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.[15]
4. Về các đột phá chiến lược
Tích cực triển khai Kế hoạch thi hành Hiến pháp, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và Nghị quyết 67/2013/QH13 của Quốc hội. Tập trung ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền dân chủ của người dân.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, nâng cao chất lượng và đã cơ bản khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản. Quan tâm chỉ đạo thực thi pháp luật và các Nghị quyết của Quốc hội. Đã ban hành Quy chế kiểm tra việc chấp hành các nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.[16]
Tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Cải cách hành chính được đẩy mạnh và đạt những kết quả tích cực. Đã hoàn thành việc quy định chức năng nhiệm vụ của các Bộ ngành, khắc phục cơ bản tình trạng chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ trong quản lý nhà nước. Triển khai thực hiện Đề án cải cách chế độ công vụ công chức. Tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công khai chỉ số cải cách hành chính, chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ ngành và địa phương. Đẩy mạnh thực hiện hành chính điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia. Tinh thần trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước có bước được nâng lên.[17]
Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương, chính sách pháp luật của Nhà nước về đổi mới giáo dục đào tạo và phát triển khoa học công nghệ. Nguồn nhân lực có bước phát triển cả số lượng và chất lượng. Quan tâm chỉ đạo hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân; đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông và thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh cao đẳng, đại học. Rà soát, chấn chỉnh việc tổ chức đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học; mở rộng thí điểm một số mô hình giáo dục tiên tiến. Đặc biệt quan tâm phát triển giáo dục đào tạo ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách. Thực hiện cơ chế đặc thù để đào tạo nhân lực cho các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, đẩy mạnh phát triển trường phổ thông dân tộc nội trú và giáo dục đối với đồng bào dân tộc rất ít người. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, học tập suốt đời, hỗ trợ phát triển trường nghề chất lượng cao. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo.
Tiếp tục thực hiện chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao, sản phẩm quốc gia và chương trình chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Các quỹ quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ đi vào hoạt động, bước đầu phát huy hiệu quả. Mở rộng áp dụng cơ chế đặt hàng, cơ chế khoán thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Phát triển thị trường công nghệ, dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định và phản biện. Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ.[18]
Rà soát, hoàn thiện thể chế và quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực và đa dạng hóa hình thức đầu tư. Tập trung chỉ đạo giải phóng mặt bằng, nhất là các công trình trọng điểm quốc gia. Nhiều công trình quan trọng, hiện đại về giao thông, điện, thủy lợi, hạ tầng đô thị, hệ thống thông tin… được đẩy nhanh tiến độ và đưa vào sử dụng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.[19]
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa thật sự là khâu đột phá cho phát triển kinh tế xã hội. Cải cách hành chính và hoàn thiện hệ thống luật pháp chưa theo kịp yêu cầu. Kỷ luật kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Hiệu quả công tác kiểm tra thanh tra còn hạn chế. Chưa có chính sách đủ mạnh để phát triển nhanh và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao. Chất lượng giáo dục đại học và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa đạt chỉ tiêu đề ra, lao động có chứng chỉ, bằng cấp còn thấp. Ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm. Nguồn lực đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước, thiếu vốn đối ứng thực hiện các dự án ODA và dự án hợp tác công - tư. Mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu vận tải đa phương thức. Dịch vụ logistics phát triển chậm, tính đồng bộ chưa cao. Chưa chú trọng và chưa có cơ chế tạo đủ nguồn lực để bảo trì các công trình kết cấu hạ tầng. Nhiều công trình thủy lợi, giao thông xuống cấp trầm trọng. Hạ tầng ở các đô thị chưa đồng bộ, nhiều công trình quá tải, chất lượng thấp.
5. Về văn hóa, xã hội
Trong điều kiện kinh tế có nhiều khó khăn nhưng vẫn bố trí tăng nguồn lực từ ngân sách nhà nước đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển văn hóa, xã hội và bảo đảm an sinh xã hội.
Tổng rà soát chính sách, thực hiện trợ cấp ưu đãi thường xuyên cho trên 1,5 triệu người và hoàn thành việc xây mới, sửa chữa khoảng 48 nghìn căn nhà cho người có công, trong đó có 13.500 căn nhà từ nguồn xã hội hóa. Công tác xác định hài cốt liệt sỹ, giải quyết hồ sơ tồn đọng được quan tâm chỉ đạo. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong xã hội được đẩy mạnh.
Ban hành các quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động, Luật Việc làm. Chú trọng giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là khu vực Nhà nước thu hồi đất, đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Trong 9 tháng đã tạo thêm 1,18 triệu việc làm, trong đó đưa trên 83 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, tăng 32,6% so với cùng kỳ, ước cả năm đạt khoảng 1,58 - 1,6 triệu. Đã chủ động đưa lao động Việt Nam đang làm việc từ Lybia về nước an toàn. Điều kiện lao động và quan hệ lao động có bước được cải thiện. Số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm thất nghiệp.[20]
Thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững, quan tâm hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản và đầu tư phát triển hạ tầng ở những địa bàn đặc biệt khó khăn. Các chính sách nhà ở tránh lũ, nhà ở cho người nghèo, người thu nhập thấp được quan tâm. Thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả năm giảm khoảng 1,8 - 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%. Trên 2,6 triệu người hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên. Trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số và ở vùng khó khăn được hỗ trợ chi phí học tập, sinh hoạt. Triển khai kịp thời các hoạt động cứu trợ đột xuất và khắc phục hậu quả thiên tai.[21]
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Tiếp tục đầu tư xây mới và nâng cấp mở rộng nhiều bệnh viện; riêng tuyến Trung ương tăng thêm 1.200 giường bệnh. Tình trạng quá tải ở nhiều bệnh viện được cải thiện. Tích cực cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian chờ đợi khám và chữa bệnh; xử lý kịp thời hơn phản ánh của người bệnh thông qua đường dây nóng. Chú trọng công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh. Phát triển y tế biển đảo. Khuyến khích phát triển y tế ngoài công lập. Tăng cường quản lý giá, chất lượng thuốc chữa bệnh và kiểm tra các cơ sở y tế. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 72%. Thực hiện tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Từng bước điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo lộ trình.
Hoàn thiện quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả phối hợp trong quản lý và đẩy mạnh truyền thông về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng cường năng lực kiểm nghiệm tại các địa phương, phòng chống ngộ độc và các bệnh truyền qua thực phẩm. Xây dựng các mô hình về bếp ăn tập thể, thức ăn đường phố và vùng nguyên liệu an toàn. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm vi phạm về an toàn thực phẩm.[22]
Quan tâm thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số; tổng rà soát việc thực hiện và đã ban hành Chỉ thị nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Chú trọng nâng cao hiệu quả công tác đối với người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ.[23]
Công tác phòng chống AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm có những chuyển biến tích cực. Triển khai rộng rãi, thường xuyên việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật về phòng chống tệ nạn mại dâm. Đổi mới công tác cai nghiện, thực hiện thí điểm điều trị và quản lý sau cai nghiện tại cộng đồng.[24]
Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tăng cường quản lý nhà nước, quan tâm đầu tư, khuyến khích xã hội hóa trong phát triển sự nghiệp văn hóa, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao và đã đạt được những kết quả tích cực. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế được đẩy mạnh. Gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nhiều di sản văn hóa được công nhận là di sản quốc gia và thế giới. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của pháp luật.
Tăng cường quản lý nhà nước về thông tin truyền thông. Hoạt động của báo chí đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân, góp phần tích cực tạo đồng thuận xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư còn lớn. Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư nông thôn, vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. Số người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn lớn, nhất là trong thanh niên. Nợ và chậm đóng bảo hiểm xã hội còn nhiều. Nguồn lực bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp xã hội còn hạn hẹp. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều khó khăn. Quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, thể thao, thông tin truyền thông nhiều mặt còn hạn chế. Chưa bảo đảm tốt an ninh, an toàn mạng. Tệ nạn xã hội nhiều nơi còn phức tạp.[25]
6. Về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai
Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương, rà soát và hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên được kiểm soát chặt chẽ hơn, thu ngân sách nhà nước từ cấp quyền khai thác khoáng sản tăng. Tích cực triển khai Luật Đất đai, xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quản lý, nhất là về giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; tỷ lệ diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 93,8%. Quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước được tăng cường. Hoàn thành việc ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông.[26]
Tăng cường kiểm tra thanh tra, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và vi phạm pháp luật về môi trường. Các chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, ứng phó với biến đổi khí hậu được tích cực triển khai thực hiện. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn, cảnh báo, dự báo thiên tai, bão, lũ, được tăng cường. Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng tránh thiên tai được triển khai. Ý thức và năng lực phòng tránh thiên tai được nâng lên. Nhiều chỉ tiêu quan trọng về môi trường đạt kết quả tích cực.[27]
Ô nhiễm môi trường vẫn còn gia tăng ở nhiều nơi; tình trạng ô nhiễm môi trường tại các lưu vực sông, khu vực nông thôn, làng nghề cải thiện còn chậm. Nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai còn hạn chế. Thiệt hại do thiên tai còn lớn. Tình trạng ngập lụt ở một số thành phố khắc phục còn chậm. Việc điều tra tài nguyên biển chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quản lý và khai thác khoáng sản, nhất là việc khai thác gắn với bảo vệ môi trường vẫn còn bất cập.
7. Về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động về phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tăng cường quản lý kinh tế, ngân sách nhà nước và tài sản công; cải cách thủ tục hành chính; kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; kê khai và kiểm soát kê khai tài sản; thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được đưa ra xét xử.[28]
Ban hành hướng dẫn thi hành Luật Tiếp công dân, Luật Hòa giải cơ sở. Trách nhiệm và sự phối hợp trong việc tiếp công dân được nâng lên. Hầu hết lãnh đạo Bộ ngành, địa phương đã trực tiếp đối thoại, giải quyết khiếu nại của công dân. Đã xử lý khoảng 85% số vụ khiếu nại tố cáo mới phát sinh và giải quyết 494/528 vụ khiếu nại tồn đọng kéo dài.[29]
Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về phòng chống tham nhũng, lãng phí có mặt còn chậm. Việc thực hiện các giải pháp phòng chống tham nhũng tại nhiều cơ quan chưa hiệu quả. Một số vụ án xử lý chậm. Công tác kiểm tra thanh tra hiệu quả chưa cao. Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp. Công tác giám định tư pháp còn bất cập. Lãng phí thời gian và nguồn lực trong xã hội còn lớn. Trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của một số ngành, địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Khiếu kiện liên quan đến đất đai vẫn còn nhiều.
8. Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tiềm lực quốc phòng an ninh và thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được tăng cường. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng lên. Ngăn chặn kịp thời các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Kiên quyết đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế xã hội.
Trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tăng cường, đã triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm. Kiên quyết ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, khẩn trương ổn định tình hình, thực hiện hỗ trợ phù hợp cho người lao động và các doanh nghiệp bị thiệt hại sớm trở lại sản xuất kinh doanh bình thường trong vụ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển nước ta. Trật tự, an toàn giao thông được tập trung chỉ đạo quyết liệt; số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương tiếp tục giảm.[30]
Các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Thực hiện tốt Chương trình đối ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chương trình hành động về hội nhập quốc tế. Tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện đi vào chiều sâu, hiệu quả. Chủ động đẩy mạnh đàm phán các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế về lập trường chính nghĩa và những biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta. Tích cực hợp tác xây dựng Cộng đồng ASEAN. Tham gia có trách nhiệm tại Liên hợp quốc và các tổ chức, các diễn đàn đa phương. Làm tốt công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài.[31]
Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức. Nhu cầu đầu tư cho quốc phòng an ninh rất lớn nhưng nguồn lực còn rất hạn hẹp. Trật tự an toàn xã hội có mặt còn bức xúc, tình hình tội phạm nhiều nơi còn phức tạp. Tai nạn giao thông còn ở mức cao. Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động và hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế chưa cao. Việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh và tham gia hoạt động khoa học công nghệ kết quả còn hạn chế.
Nhìn chung, trong bối cảnh có nhiều khó khăn thách thức, mặc dù vẫn còn không ít hạn chế yếu kém nhưng hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã đạt được những kết quả tích cực; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; chủ quyền quốc gia được bảo đảm; chính trị xã hội ổn định; vị thế quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng lên. Cơ bản đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội mà Quốc hội đã đề ra. Trong 14 chỉ tiêu kế hoạch năm 2014, dự báo có 13 chỉ tiêu đạt, vượt và 01 chỉ tiêu không đạt[32]. Đây là sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2015
Tình hình thế giới đang diễn biến rất khó lường. Xung đột tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi. Kinh tế thế giới dự báo phục hồi chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Liên kết kinh tế khu vực với nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới được đẩy mạnh trong xu thế toàn cầu hóa. Tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn trong khu vực đang diễn ra quyết liệt và tranh chấp chủ quyền biển đảo vẫn rất phức tạp. Kinh tế nước ta tiếp tục hội nhập sâu rộng và phải cạnh tranh gay gắt hơn. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước tạo ra nhiều cơ hội, thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu cao nhất, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2015.
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn và vững chắc hơn năm 2014. Tiếp tục phát triển văn hóa xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng lãng phí. Tăng cường quốc phòng an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
II. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
1. Về kinh tế:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,2%; Tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 5%; Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức 5%; Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP 5%; Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 30% GDP.
2. Về xã hội:
Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,7% - 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50%; Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 15%; Số giường bệnh trên một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 23,5 giường.
3. Về môi trường:
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 90%; Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 82%; Tỷ lệ che phủ rừng 42%; Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 85%; Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch 82%; Tỷ lệ đô thị loại 3 trở lên có hệ thống thu gom và xử lý nước thải 16%; Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom 85%.
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
1.1. Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô
Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khoá, kiểm soát tốt lạm phát. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp với yêu cầu tăng trưởng gắn với bảo đảm chất lượng tín dụng. Ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối, tăng dự trữ ngoại tệ và bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam. Thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh.
Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước; tập trung chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá; triệt để tiết kiệm chi ngân sách, không tăng chi thường xuyên ngoài lương; bảo đảm bội chi theo kế hoạch. Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo đảm nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn theo quy định.[33]
Đẩy mạnh xuất khẩu. Nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại, bảo đảm chất lượng và xây dựng thương hiệu hàng hóa. Khai thác tốt nhất các cam kết quốc tế và thị trường hiện có. Nỗ lực đàm phán để mở thêm thị trường mới thông qua các Hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực. Đa dạng hóa và không để phụ thuộc vào một thị trường. Sử dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu. Nâng cao hiệu quả xử lý các tranh chấp thương mại.
Tăng cường huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đa dạng hóa các kênh huy động vốn, các hình thức đầu tư. Có cơ chế phù hợp để tăng tính thương mại của các dự án, khuyến khích đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, phòng chống gian lận thương mại, buôn lậu, hàng giả và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tiếp tục thực hiện giá thị trường đối với xăng dầu, điện, nước, dịch vụ y tế, giáo dục... theo lộ trình phù hợp. Đồng thời hỗ trợ thiết thực đối tượng chính sách và hộ nghèo.
1.2. Tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh
Thực hiện các biện pháp phù hợp để tăng tổng cầu và hỗ trợ phát triển thị trường. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư, tập trung vào các công trình quan trọng, cấp bách. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng. Quan tâm phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tập trung chỉ đạo và có biện pháp cụ thể đối với từng Bộ ngành, địa phương để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng nhanh công nghệ thông tin, tạo thuận lợi tối đa, giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp trong các lĩnh vực thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, đất đai, xây dựng, thành lập, giải thể và phá sản doanh nghiệp, thực hiện đầu tư, tiếp cận điện năng...
Thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi để hỗ trợ sản xuất kinh doanh theo ngành, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, khuyến công khuyến nông, sản xuất chế biến tiêu thụ nông sản và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
2. Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tiếp tục thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế và tái cơ cấu ngành, lĩnh vực. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế xanh; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Thực hiện khẩn trương, chặt chẽ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành. Bán phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối[34]. Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Khuyến khích xã hội hóa trong sản xuất kinh doanh; phát triển nhanh doanh nghiệp tư nhân và kinh tế hợp tác.
Triển khai Luật Đầu tư công, thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn. Đổi mới cơ chế chính sách, đa dạng hóa hình thức đầu tư (BOT, BT, PPP), phát triển mạnh thị trường vốn trong nước và chủ động tham gia thị trường vốn quốc tế, huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Tập trung đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, nước, logistics, nhất là các công trình có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế vùng và cả nước. Tăng cường phân cấp và xã hội hóa việc khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng.
Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị và chất lượng tín dụng; giảm thiểu rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống. Hoàn thành Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, phát triển thị trường mua bán nợ. Có cơ chế phù hợp để hoàn thiện chức năng, tăng thêm nguồn lực, nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty quản lý tài sản (VAMC). Bảo đảm đến hết năm 2015 đưa nợ xấu về mức khoảng 3% như kế hoạch đề ra.
Huy động các nguồn lực đầu tư tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Tập trung chuyển đổi cơ cấu, đổi mới tổ chức sản xuất và tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Nhân rộng mô hình liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản; xây dựng cánh đồng lớn; sản xuất theo chuỗi giá trị; hợp tác trong khai thác hải sản và phát triển các hình thức sản xuất kinh doanh hiệu quả. Tăng cường quản lý chất lượng đầu vào, đầu ra trong sản xuất nông nghiệp. Khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế hợp tác. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới phù hợp với điều kiện cụ thể và nguồn lực địa phương. Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Khẩn trương sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các nông, lâm trường.
Phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng và tỷ trọng giá trị nội địa cao. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, sản xuất vật tư và máy móc phục vụ nông nghiệp, vật liệu mới, khai thác chế biến dầu khí, năng lượng tái tạo, môi trường... Tạo thuận lợi phát triển phù hợp, lành mạnh thị trường bất động sản.
Tiếp tục phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như thông tin truyền thông, hàng không, tài chính, ngân hàng, các dịch vụ tư vấn... Phát triển mạnh dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ logistics, thương mại điện tử. Hoàn thiện cơ chế chính sách, thu hút các nguồn lực đầu tư, phát triển nhanh ngành du lịch.
3. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách; thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong quản lý giá, phân bổ nguồn lực, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và vận hành hiệu quả các loại thị trường. Đồng thời có cơ chế chính sách điều tiết phân phối để thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng chính sách, người nghèo và bảo đảm an sinh xã hội.
Tích cực thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp[35]. Ban hành các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành pháp luật, bảo đảm tiến độ và chất lượng. Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện nhà nước pháp quyền, thực hiện vai trò phục vụ, kiến tạo phát triển và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đổi mới cơ chế cung cấp dịch vụ công và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tập trung cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực hiệu quả. Tiếp tục thực hiện Đề án cải cách công vụ công chức. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử, cơ sở dữ liệu quốc gia. Tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính, thanh tra kiểm tra, nâng cao hiệu lực hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật.
4. Phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ
Thực hiện Nghị quyết Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo. Đổi mới chương trình, sách giáo khoa theo Nghị quyết của Quốc hội. Tăng cường giáo dục kỹ năng sống và văn hóa ứng xử. Tổ chức tốt kỳ thi trung học phổ thông quốc gia, tuyển sinh đại học, cao đẳng theo tinh thần đổi mới; tăng cường kiểm định chất lượng. Đẩy mạnh thực hiện thí điểm cơ chế giao quyền tự chủ cho các trường Đại học công lập. Tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực giáo dục đào tạo; đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội. Ưu tiên nguồn lực thực hiện phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi. Rà soát hoàn thiện chính sách hỗ trợ về giáo dục đào tạo cho các địa bàn khó khăn và đối tượng chính sách, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu quả Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên[36].
Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, các chương trình quốc gia và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học công nghệ. Thực hiện đặt hàng, khoán kinh phí và giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nghiên cứu khoa học. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các quỹ về khoa học công nghệ. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu công nghệ cao. Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và phát triển thị trường khoa học công nghệ. Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới công nghệ; thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Khuyến khích tìm kiếm, chuyển giao công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài. Tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Thí điểm xây dựng mô hình tổ chức khoa học công nghệ tiên tiến.
5. Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
Thực hiện tốt các chính sách người có công, dạy nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, các huyện nghèo và các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Tiếp tục thực hiện chính sách phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, hỗ trợ người có công về nhà ở và ưu đãi đối với lực lượng thanh niên xung phong. Có chính sách để giảm nghèo nhanh đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng mức trợ cấp xã hội đối với một số nhóm đối tượng đặc thù. Thực hiện hiệu quả các chương trình dạy nghề, giải quyết việc làm, nhất là cho thanh niên, lao động nông thôn và sinh viên mới tốt nghiệp. Có biện pháp phù hợp để giữ và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc đóng bảo hiểm xã hội và bảo đảm an toàn cho người lao động. Thúc đẩy phát triển nhà ở và các công trình phúc lợi xã hội cho người lao động tại các khu công nghiệp tập trung.
Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và tiếp tục giảm quá tải bệnh viện. Đẩy nhanh việc xây dựng một số bệnh viện Trung ương và tuyến cuối; giảm thời gian điều trị tại bệnh viện; phát triển mô hình bệnh viện, khoa vệ tinh và bác sỹ gia đình. Khuyến khích phát triển y tế ngoài công lập và hình thức hợp tác công - tư. Tăng cường y tế dự phòng, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Thực hiện hiệu quả chương trình phòng chống bệnh lao. Triển khai hiệu quả Luật Bảo hiểm y tế, chiến lược phát triển ngành dược, phát triển hệ thống bệnh viện y học cổ truyền. Tăng cường quản lý thuốc chữa bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm. Nâng cao hiệu quả công tác phòng chống HIV/AIDS.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương về phát triển văn hóa, chú trọng phát triển toàn diện con người Việt Nam. Triển khai hiệu quả các chính sách phát triển văn học nghệ thuật. Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Quan tâm chăm sóc và bảo vệ trẻ em, công tác gia đình, bình đẳng giới, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi. Phát triển thể dục thể thao cho mọi người, thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp.
6. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
Tiếp tục hoàn thiện thể chế. Tích cực thực hiện Luật Đất đai sửa đổi. Rà soát quy hoạch, tăng cường quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản và điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển. Khuyến khích phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm và xử lý nghiêm các vi phạm. Kiên quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đẩy mạnh rà phá, khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh. Bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Nâng cao chất lượng dự báo, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công.
7. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật và thực hiện các giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí. Công khai minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước, tăng cường kiểm tra thanh tra chế độ công chức công vụ. Đề cao trách nhiệm giải trình của cơ quan, người đứng đầu và cán bộ công chức viên chức. Thực hiện đúng quy định về kê khai và kiểm soát kê khai tài sản. Tăng cường hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng phòng chống tham nhũng. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan thông tin truyền thông và nhân dân trong phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo. Tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng kéo dài.
8. Tăng cường quốc phòng an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế
Tiếp tục thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức chiến đấu cao, chủ động ứng phó hiệu quả với mọi tình huống. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Tăng cường tiềm lực, khả năng phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh cho các lực lượng trực tiếp ở cơ sở. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, ma túy, mua bán người; kiên quyết đấu tranh, triệt phá các băng nhóm tội phạm. Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế xã hội. Bảo đảm trật tự an toàn giao thông và tiếp tục giảm tai nạn giao thông.
Tiếp tục làm sâu sắc hơn, đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Tăng cường các hoạt động đối ngoại đa phương, chủ động tham gia và nâng cao vai trò của Việt Nam trong ASEAN, Liên hợp quốc, các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Chủ động đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do. Tăng cường công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ đất nước.
9. Đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông
Chủ động thông tin kịp thời, khách quan về tình hình kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại và những vấn đề xã hội quan tâm. Tăng cường quản lý nhà nước, đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông tin truyền thông. Bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng. Làm tốt công tác thông tin truyền thông về các sự kiện quan trọng của đất nước.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tấn báo chí trong tuyên truyền vận động, tạo đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
*
* *
Thưa đồng chí đồng bào,
Chúng ta cùng nhau nỗ lực phấn đấu để đạt kết quả cao nhất nhiệm vụ của năm 2014. Năm 2015, bên cạnh những kết quả và chuyển biến tích cực, đất nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đoàn kết nhất trí, quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2015. Chính phủ mong nhận được sự ủng hộ, giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí đồng bào.
Xin cảm ơn các vị Đại biểu Quốc hội, các vị khách, đồng chí đồng bào./.
Ghi chú
[1] Lãi suất huy động phổ biến hiện nay đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng là 5-6%/năm; kỳ hạn 6-12 tháng là 6-7,2%/năm; kỳ hạn trên 12 tháng là 7,3-7,8%/năm. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên là 7-8%/năm; cho vay sản xuất kinh doanh thông thường 9-10%/năm đối với ngắn hạn, 10,5-12%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục giảm. Đến 18/9/2014, dư nợ cho vay bằng VNĐ có lãi suất trên 15% chỉ còn chiếm 4,25% tổng số dư nợ cho vay VNĐ (cuối năm 2013 là 6,3%); dư nợ cho vay bằng VNĐ có lãi suất trên 13%/năm chỉ còn chiếm 12,16% tổng dư nợ (cuối năm 2013 là 19,72%).
Đến cuối tháng 9/2014, tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn tăng 6,9% (trong đó đối với lĩnh vực lúa gạo tăng 22,3%); dư nợ cho vay các chương trình tín dụng chính sách ước đạt trên 126,5 nghìn tỷ đồng, tăng 4% so với cuối năm 2013. Đến cuối tháng 8 năm 2014, tín dụng xuất khẩu tăng 4,14%; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 15,78%; công nghiệp hỗ trợ tăng 6,06%, doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 3,81% so với cuối năm 2013. Tín dụng bất động sản có xu hướng phục hồi, tăng 11,5% so với cuối năm 2013.
Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp đã được triển khai trên 63 tỉnh, thành phố trong cả nước; đến cuối tháng 9/2014, các ngân hàng thương mại cam kết hỗ trợ gần 7 nghìn khách hàng với tổng số tiền trên 108 nghìn tỷ đồng.
Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng mức tín nhiệm đối với Việt Nam từ B2 lên B1 và đánh giá triển vọng ổn định. Ngày 9/10/2014, Moody’s có báo cáo đánh giá chất lượng tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đã được cải thiện, quản trị ngân hàng đã được nâng cao.
[2] Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 109,9 tỷ USD, tăng 14,4%; trong đó kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản đạt 16,8 tỷ USD, tăng 15,1%; nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 79,6 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng của các doanh nghiệp trong nước tăng 13% (cùng kỳ năm 2012 giảm 1,1%; năm 2013 tăng 3%), của các doanh nghiệp FDI (tính cả dầu thô) tăng 15,1% (cùng kỳ năm 2012 tăng 34%; năm 2013 tăng 22,4%).
Tổng kim ngạch nhập khẩu 9 tháng ước đạt 107,6 tỷ USD, tăng 11,6%; trong đó nhóm hàng cần nhập khẩu phục vụ sản xuất kinh doanh chiếm 88,4%. Xuất siêu năm 2012 là 748,7 triệu USD; 2013 là 0,3 triệu USD; 2014 ước 1,5 tỷ USD.
[3] Thu ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt 81,3% dự toán (cùng kỳ năm 2012 đạt 67,3%, năm 2013 đạt 66,5%), tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2013.
Dư nợ công cuối năm 2013 bằng 54,2%; dư nợ chính phủ bằng 42,3%; dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến đến hết năm 2014, dư nợ công bằng 60,3%; dư nợ chính phủ 46,9%; dư nợ nước ngoài của quốc gia 39,9% GDP.
[4] Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng qua các quý; trong đó quý I tăng 7,2%; quý II tăng 9,3%; quý III tăng 13,4%; tính chung 9 tháng tăng 10,3%.
[5] Sau khi thực hiện các biện pháp bình ổn, giá sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi đã giảm và ổn định hơn; có mặt hàng giảm đến 34%. Thực hiện cơ chế mới về đấu thầu, giá thuốc chữa bệnh qua đấu thầu giảm bình quân 25-30%.
[6] Trong điều kiện kinh tế phát triển không thuận lợi, thu ngân sách nhà nước có nhiều khó khăn nhưng vẫn phải giảm thu để hỗ trợ doanh nghiệp. Và phải tập trung nguồn vốn ngân sách và huy động trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng. Đồng thời, còn phải dành phần lớn để thực hiện các chính sách xã hội và tiền lương. Mặt khác, cơ cấu vay ưu đãi nước ngoài có xu hướng giảm qua các năm do Việt Nam đã bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình nên tỷ trọng vay trong nước tăng lên và việc huy động trái phiếu Chính phủ chủ yếu là dưới 5 năm dẫn đến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ trong ngắn hạn tăng lên. Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn bảo đảm trả nợ đầy đủ, không để phát sinh nợ quá hạn. Dự kiến năm 2014 tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì khoảng 26,2%.
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ năm 2014 dự kiến khoảng 25,9% (theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia là dưới 25%). Nguyên nhân là do nền kinh tế có bước phục hồi, nhu cầu vốn ngoại tệ để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tăng cao, các tổ chức tín dụng đã tận dụng cơ hội vay vốn nước ngoài ngắn hạn lãi suất thấp (chiếm khoảng 11,32%). Chính phủ sẽ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường quản lý việc vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng để năm 2015 bảo đảm trong giới hạn theo quy định.
[7] Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 45,8% năm 2010 xuống còn khoảng 33% trong 9 tháng năm 2014.
[8] Thủ tướng Chính phủ đã làm việc trực tiếp với các Bộ ngành, địa phương và chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp đơn giản hoá thủ tục hành chính, nhất là về thuế, hải quan, đất đai, xây dựng, thành lập, giải thể doanh nghiệp, thực hiện đầu tư, tiếp cận điện năng... với mục tiêu giảm ngay trong năm 2015 khoảng 50% thời gian thực hiện các thủ tục hành chính. Dự kiến đến cuối năm 2014 sẽ giảm được khoảng 290 giờ thực hiện thủ tục hành chính thuế (giảm 54% so với mức trước đây là 537 giờ) và phấn đấu đến năm 2015 bằng với mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 (171 giờ/năm, trong đó số giờ thực hiện thủ tục hành chính về thuế là 121 giờ/năm và nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là 50 giờ/năm). Về thủ tục thành lập, giải thể doanh nghiệp, dự kiến sẽ giảm 50% thời gian thực hiện thủ tục ngay trong năm 2014.
Trong 9 tháng đầu năm 2014 có 53,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký tăng 13,9%, vốn bình quân 1 doanh nghiệp là 6 tỷ đồng, tăng 24,6%, tạo việc làm cho hơn 795 nghìn lao động và có gần 11,9 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2013.
[9] Năm 2011, tăng trưởng GDP là 6,24%; năm 2012 là 5,25%; năm 2013 là 5,42%; năm 2014 dự kiến đạt trên 5,8%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng 6,7% (cùng kỳ năm 2013 tăng 5,4%). Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 3,5% (cùng kỳ tăng 2,7%); sản lượng lúa cả năm ước đạt 44,6 triệu tấn, tăng 1,1%; diện tích trồng rừng 9 tháng tăng 10,5%; sản lượng thuỷ sản tăng 4,9% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 5,99%; tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,1%, loại trừ yếu tố giá tăng 6,2% (năm 2011 tăng 24%, loại trừ yếu tố giá tăng 4,6%; năm 2012 tăng 12,65%, loại trừ yếu tố giá tăng 6,2%; năm 2013 tăng 12,5%, loại trừ yếu tố giá tăng 5,7%).
Trong quý II, ngành du lịch chịu tác động tiêu cực của vụ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển nước ta, nhưng sau đó đã dần ổn định và số du khách đến Việt Nam đã tăng trở lại khá cao. Trong 9 tháng, khách từ Trung Quốc tăng 13,5%; Hàn Quốc tăng 10%; Nhật Bản tăng 8,1%; Liên bang Nga tăng 28,5%; Hoa Kỳ tăng 5,5%.
[10] Tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 8/2014 là 3,9%, tăng nhẹ so với mức 3,61% vào tháng 12/2013.
Trong 9 tháng đầu năm có trên 48 nghìn doanh nghiệp giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động, tăng 13,8% so với cùng kỳ.
Tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong nước và dân cư giảm từ 37,6% năm 2013 còn dự kiến khoảng 36,2% năm 2014; của doanh nghiệp FDI giảm tương ứng từ 22% xuống còn 21,4%.
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam 2014-2015 xếp thứ 68/144 quốc gia được xếp hạng. Thứ hạng này cao hơn so với năm 2012/2013 (75/144) nhưng lại thấp hơn nhiều so với năm 2010/2011 (59/144) và năm 2011/2012 (65/144). Riêng về thể chế kinh tế, Việt Nam xếp thứ 98 trong năm 2013/2014, tụt 9 bậc so với vị trí 89 trong năm 2012/2013.
[11] Đến hết tháng 9/2014 đã xử lý trên 53,6% tổng số nợ xấu thông qua thu nợ, bán phát mại tài sản đảm bảo, bán nợ, cơ cấu lại nợ và sử dụng dự phòng rủi ro; trong 9 tháng VAMC đã mua trên 50 nghìn tỷ đồng (tổng số nợ xấu đã mua lũy kế đến nay khoảng 90 nghìn tỷ đồng). Số dư quỹ dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng tính đến tháng 8/2014 là 78,5 nghìn tỷ đồng để tiếp tục xử lý nợ xấu. Tính bình quân chung, giá trị tài sản bảo đảm cao gấp hơn 2 lần số nợ vay. Tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống các tổ chức tín dụng tại thời điểm tháng 8/2014 là 12,42% (quy định pháp luật tối thiểu là 9%). Cơ cấu nguồn vốn của các tổ chức tín dụng dịch chuyển theo hướng ổn định hơn và ít phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng; trong đó tỷ lệ huy động trên thị trường liên ngân hàng trong tổng huy động giảm từ 17,9% vào tháng 12/2012 còn 15,6% vào tháng 12/213 và 13,73% vào tháng 9/2014.
[12] Trong 9 tháng đã sắp xếp 92 doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần hóa 71, giải thể 2, bán 1, sáp nhập 15 và đề nghị phá sản 3 doanh nghiệp. Trong kế hoạch cổ phần hóa 432 doanh nghiệp giai đoạn 2014-2015, đã có 368 doanh nghiệp thành lập được Ban chỉ đạo, 257 doanh nghiệp đang xác định giá trị doanh nghiệp, 123 doanh nghiệp đã có quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, 71 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa, trong đó có 35 doanh nghiệp đã bán đấu giá cổ phần lần đầu trên sàn giao dịch chứng khoán.
Năm 2013, tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tăng 10,4% so với năm 2012; vốn chủ sở hữu tăng 15%; doanh thu tăng 5%; 101/108 tập đoàn, tổng công ty nhà nước có lãi; lợi nhuận trước thuế tăng 21%; tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn chủ sở hữu 17,6%; nộp ngân sách nhà nước tăng 25%; hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu là 1,59 lần (theo quy định của pháp luật không quá 3 lần).
Trong 6 tháng đầu năm 2014, tổng doanh thu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đạt 50,5%; tổng lợi nhuận trước thuế đạt 57,1%; tổng số nộp ngân sách nhà nước đạt 54,1% kế hoạch cả năm.
[13] Các địa phương đã xây dựng 9.000 mô hình sản xuất, ngân sách nhà nước hỗ trợ 8.400 tỷ đồng. Năm 2014 các địa phương trồng lúa đã có trên 300 nghìn ha cánh đồng lớn, trong đó khoảng 30 - 40% được các công ty hợp đồng bao tiêu sản phẩm.
Đến tháng 9, tổng hợp 59/63 tỉnh, thành phố báo cáo đã có 512 xã hoàn thành 19 tiêu chí nông thôn mới, chiếm 5,8%; đạt bình quân 9,64 tiêu chí/xã. Dự kiến đến cuối năm khoảng 790 xã hoàn thành, chiếm 8,8%; đạt bình quân 10 tiêu chí/xã.
[14] Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng 6,7%; trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,3%, sản xuất và phân phối điện tăng 11,2%, cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6%, khai khoáng tăng 0,4%. Chỉ số IIP của một số sản phẩm chủ yếu tăng mạnh như: Sản phẩm điện tử, máy tính, quang học tăng 35,9%, dệt tăng 18,8%, giấy và sản phẩm giấy tăng 12,1%, kim loại tăng 9,3%...
Vận tải hàng hóa 9 tháng ước tăng 5,2%; luân chuyển hàng hóa tăng 1,2%; vận chuyển hành khách tăng 7,1%, trong đó qua đường hàng không tăng 8,5%. Doanh số thương mại điện tử bán lẻ tăng 35%. Doanh thu du lịch tăng 17,4%.
Tổng doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin đạt khoảng 27 tỷ USD, tăng khoảng 17%. Số thuê bao điện thoại đạt khoảng 130 triệu, mật độ thuê bao đạt 148 máy/100 dân. Tỷ lệ phủ sóng di động đạt 94% dân số. Số lượng điểm phục vụ bưu chính công cộng đạt trên 13 nghìn điểm.
[15] Theo Ngân hàng Phát triển châu Á, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo và khu vực dịch vụ trong GDP năm 2013 của Việt Nam là 17,5% và 43,3%; Thái Lan là 29,1% và 50,7%; Malaysia là 23,9% và 50,1%; Indonesia là 23,7% và 39,9%; Phillipines là 20,4% và 57,6%; Trung Quốc là 37,0% và 46,1%.
[16] Đến tháng 12/2013, còn nợ 18 văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành của 11 luật đã có hiệu lực; đến nay còn nợ 06 văn bản của Chính phủ quy định chi tiết thi hành của 10 luật đã có hiệu lực, giảm 66,6%. Đến tháng 12/2013, các Bộ, cơ quan ngang Bộ còn nợ 44 thông tư, thông tư liên tịch; đến nay chỉ còn nợ 16 thông tư, thông tư liên tịch, giảm 64%.
[17] Đã ban hành 07 Nghị định và hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Tạm dừng thành lập mới Tổng cục và tương đương, kiểm soát chặt chẽ việc lập các tổ chức mới và tăng biên chế. Hoàn thiện thể chế về tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Tổng kết thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Rà soát, hoàn thiện cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và xây dựng Đề án về Hội quần chúng.
[18] Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49%. Nhiều học sinh Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế và khu vực (năm 2014 có 42/42 lượt học sinh tham dự Olympics quốc tế và khu vực đoạt giải, trong đó có 12 huy chương vàng, 21 huy chương bạc, 8 huy chương đồng và 1 bằng khen).
[19] Về giao thông: Các công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng là: Các tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, Cầu Giẽ - Ninh Bình, Vành đai 3 Hà Nội đoạn Thanh Trì - Mai Dịch, Quốc lộ 51 (mở rộng), Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Hà Nội - Thái Nguyên… (đến nay đã có khoảng 524 km đường cao tốc); các cầu: Rồng, Trần Thị Lý (Đà Nẵng), Rào II, Khuể (Hải Phòng), Bến Thủy II (Nghệ An), Cảng Cái Mép - Thị Vải; Sân bay: Đà Nẵng, Phú Quốc. Các công trình đang triển khai là: Các tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Bến Lức - Long Thành, Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Thái Nguyên - Bắc Kạn (Chợ Mới), Cầu Nhật Tân (Hà Nội), Cảng Lạch Huyện, Nhà ga T2 Nội Bài, Hòa Lạc - Hòa Bình, tuyến nối Hải Phòng - Hạ Long, tuyến Tân Vũ - Lạch Huyện…
Về thủy điện: các công trình Sơn La, Bản Chát, Đồng Nai 4, An Khê Kanak, Bắc Hà, Đắk Rinh, Hủa Na… Về nhiệt điện: Hải Phòng 2, Nghi Sơn 1, Vĩnh Tân 2, Mạo Khê... Về lưới điện: Có 559 công trình lưới điện 110 - 500 KV đã hoàn thành đóng điện giai đoạn 2011 đến tháng 9/2014 (trong đó có 33 công trình 500 KV, 113 công trình 220 KV, 413 công trình 110 KV) với tổng dung lượng trạm biến áp là 37.749 MVA, tổng chiều dài đường dây cải tạo và làm mới trên 7.942km. Tính riêng năm 2014, đã khởi công 28 công trình lưới điện 220 - 500 KV, trong đó có 4 công trình lưới điện 500KV. Đã hoàn thành việc xây dựng đưa vào sử dụng đường cáp ngầm cấp điện cho các huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Phú Quốc (Kiên Giang), Lý Sơn (Quảng Ngãi).
Về dầu khí: Đầu tư và đưa vào vận hành 127 công trình; riêng năm 2014 đưa 9 mỏ, công trình mới vào khai thác.
Về thủy lợi: Đến năm 2013 có trên 900 hệ thống thủy lợi lớn và vừa, đã tưới trên 7 triệu ha diện tích gieo trồng lúa, tăng 80 nghìn ha so với năm 2010, nước phục vụ sinh hoạt và công nghiệp tăng 0,35 tỷ m3 so với năm 2010.
Về hạ tầng đô thị: Các cầu vượt; đường sắt đô thị Hà Nội - Hà Đông, Nhổn - Ga Hà Nội, Bến Thành - Suối Tiên; xe buýt nhanh Kim Mã - Khuất Duy Tiến, các công trình cấp thoát nước…
Về viễn thông: Có 4.104 điểm kết nối, trong đó 2.967 điểm đã được sử dụng (chiếm tỷ lệ 72,3%).
[20] Tính đến hết tháng 9/2014, tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là 11,4 triệu người, trong đó có 188 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
[21] Tổng dư nợ tín dụng cho học sinh sinh viên nghèo là khoảng 30 nghìn tỷ đồng với 1,8 triệu học sinh sinh viên đang vay vốn. Đến nay, đã có trên 3 triệu lượt học sinh sinh viên được vay vốn với tổng doanh số trên 50 nghìn tỷ đồng.
Đã xuất cấp trên 83 nghìn tấn gạo, trị giá khoảng 770 tỷ đồng; trong đó 23 nghìn tấn gạo cứu trợ trong dịp tết nguyên đán và cứu đói giáp hạt; trên 48 nghìn tấn gạo hỗ trợ học sinh vùng khó khăn.
[22] Trong 6 tháng đầu năm đã xử phạt trên 15 nghìn cơ sở vi phạm quy định về an toàn thực phẩm, phạt tiền 11,5 tỷ đồng.
[23] Quyết định số 34/2014/QĐ-TTg về Quy định tiêu chuẩn xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em; Quyết định số 1299/2014/QĐ-TTg về đề án liên thông các thủ tục hành chính đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm cho trẻ em dưới 6 tuổi; Quyết định số 570/QĐ-TTg ngày 22/4/2014 về Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2014 - 2020.
Khoảng 50% người cao tuổi được hưởng trợ cấp ưu đãi có công, trợ cấp xã hội và lương hưu.
[24] Tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng ở mức 0,25%.
[25] Tỷ lệ thu nhập bình quân giữa 20% dân số giàu nhất so với 20% dân số nghèo nhất là 9,23 lần năm 2010 và 9,35 lần năm 2012.
[26] Đã có 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai với khoảng 90 quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính. Đã cấp 40,8 triệu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 93,8% diện tích các loại đất cần cấp giấy chứng nhận. Hoàn thành việc ban hành 11/11 quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông.
[27] Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải nguy hại đạt trên 65%; chất thải rắn y tế đạt trên 75%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 86%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,5%.
[28] Đã thụ lý 415 vụ án, 1.031 bị can phạm tội về tham nhũng, trong đó kỳ trước chuyển sang 156 vụ, 424 bị can; khởi tố mới 256 vụ, 593 bị can.
Đã triển khai 6.877 cuộc thanh tra hành chính, 150.932 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, phát hiện vi phạm 31,5 nghìn tỷ đồng, 3.740 ha đất; kiến nghị thu hồi 30 nghìn tỷ đồng và 2.690 ha đất; kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với 1.552 tập thể, 2.735 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 40 vụ, 47 đối tượng.
[29] Tính đến 15/8/2014, đã giải quyết 494/528 vụ việc, đạt tỷ lệ 93,6%; đang tiếp tục kiểm tra, rà soát 537 vụ theo kế hoạch thanh tra. Đã có 36/63 tỉnh thành có khiếu nại tố cáo giảm; số vụ việc giải quyết theo thẩm quyền đạt tỷ lệ cao; số công dân đến khiếu nại tố cáo giảm 1,8%, số đơn thư giảm 3,9%; số vụ việc giải quyết thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính giảm 9,54%.
[30] Trong 9 tháng năm 2014 đã điều tra, khám phá 33,8 nghìn vụ phạm pháp hình sự, 67,3 nghìn đối tượng; triệt phá 2.142 băng nhóm tội phạm; ngăn chặn gần 1.500 trang web cá độ bóng đá, đánh bạc qua mạng internet, khởi tố 29 vụ, 153 bị can. Tai nạn giao thông giảm so với cùng kỳ trên cả 3 tiêu chí: Số vụ giảm 14,47%; số người chết giảm 4,01%; số người bị thương giảm 18,11%.
[31] Đã tổ chức 10 đoàn lãnh đạo cấp cao, 30 đoàn cấp Phó Thủ tướng và tương đương thăm, làm việc tại nước ngoài; tiếp 28 đoàn lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế đến Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 11 nước. Triển khai thực hiện 8 hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang đàm phán 6 FTA với Liên minh Châu Âu, Liên minh thuế quan Nga - Belarus - Kazakhstan, Hàn Quốc, Khối thương mại mậu dịch tự do (EFTA), Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP). Vận động thêm 10 nước công nhận quy chế thị trường cho Việt Nam, nâng tổng số lên 50 nước; ký kết 99 thỏa thuận song phương, tham gia 25 điều ước/thỏa thuận đa phương. Kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ bà con ta ở Ukraina tránh vùng xung đột, ổn định cuộc sống; sơ tán 1.762 trên tổng số 1.767 người Việt Nam tại Lybia về nước an toàn (5 người ở lại, trong đó 2 người tiếp tục lao động, 3 người bỏ khỏi nơi làm việc từ tháng 7/2014); giải quyết 50 vụ liên quan đến 75 tầu và 690 ngư dân ta bị nước ngoài bắt giữ.
Lượng kiều hối tăng liên tục qua các năm, trong đó năm 2014 ước đạt 12 tỷ USD, năm 2013 đạt 11 tỷ USD (đứng thứ 9 trên thế giới), năm 2012 đạt hơn 10 tỷ USD, năm 2011 đạt 9 tỷ USD và năm 2010 đạt gần 8 tỷ USD.
Cộng đồng quốc tế đã đồng tình ủng hộ Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhất là các tuyên bố tại Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 10, Tuyên bố của Liên minh châu Âu (EU), Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á, Hội nghị Tương lai châu Á, Diễn đàn Hợp tác An ninh khu vực Shangri-La, Hội nghị Thượng đỉnh G7, các Hội nghị về biển Đông và khu vực…; Chính phủ, Quốc hội, Nghị sỹ, Hội hữu nghị, học giả tại các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Đức, Úc, New Zealand, Singapore, Philippines, Indonesia, Venezuela, Mexico…
[32] Các chỉ tiêu dự kiến đạt và vượt Kế hoạch năm 2014 là: Tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nhập siêu, tốc độ tăng giá tiêu dùng, giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi ở khu vực thành thị, tạo việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, số giường bệnh/1 vạn dân, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được xử lý, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, tỷ lệ che phủ rừng. Một chỉ tiêu không đạt là tỷ lệ lao động qua đào tạo (đạt 49% so với kế hoạch 52%).
[33] Dự kiến dư nợ công năm 2015 là 64%, năm 2016 là 64,9%, năm 2017 là 64%, đến năm 2020 giảm còn 60,2% GDP. Dư nợ Chính phủ năm 2015 là 48,9%, năm 2016 là 49,5%, năm 2017 là 49%, đến năm 2020 giảm còn 46,6% GDP. Dư nợ nước ngoài của quốc gia năm 2015 là 42,6%, năm 2016 là 46,9%, năm 2017 là 46,8%, đến năm 2020 giảm còn 46% GDP.
[34] Đến hết năm 2015, sẽ hoàn thành việc cổ phần hóa 432 doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo Đề án đã được phê duyệt.
[35] Dự kiến thông qua 28 luật và 2 pháp lệnh, trong đó có Luật Tổ chức chính phủ sửa đổi, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi, Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi, Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ luật Hình sự sửa đổi, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi, Luật Tố tụng hành chính sửa đổi, Luật Hoạt động giám sát của HĐND, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Biểu tình, Luật Thống kê sửa đổi...
[36] Giai đoạn 2014-2015, theo danh mục đầu tư xây dựng phòng học, nhà công vụ cho giáo viên trường mầm non thuộc các huyện nghèo và huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao được áp dụng cơ chế đầu tư như huyện nghèo nhưng chưa được thực hiện, dự kiến tổng số là 2.627 phòng học và 2.658 phòng làm việc nhà công vụ cho giáo viên./.
| |
Tình hình thực hiện phát triển kinh tế xã hội
Xem thêm
|