Tình hình kinh tế-xã hội 9 tháng năm 2014
_____________________
Kinh tế - xã hội nước ta 9 tháng năm 2014 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới hồi phục chậm và không đồng đều giữa các nền kinh tế sau suy thoái toàn cầu. Ngoài ra, tình hình chính trị bất ổn tại một số quốc gia, nhất là khu vực châu Âu dẫn đến kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp cũng như xuất khẩu của khu vực đồng EURO bị ảnh hưởng mạnh bởi các biện pháp trừng phạt kinh tế giữa các nước trong khu vực.
Ở trong nước, kinh tế vĩ mô diễn biến theo hướng tích cực. Tuy nhiên, tổng cầu của nền kinh tế tăng chậm, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn khó khăn, tồn kho hàng hóa vẫn ở mức cao. Sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu. Tình hình biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng phần nào đến động thái phát triển kinh tế - xã hội và đời sống dân cư cả nước.
Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội và Chính phủ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp và địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nhằm từng bước thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả năm. Kết quả hoạt động của các ngành, lĩnh vực trong 9 tháng thể hiện qua những chỉ tiêu cụ thể như sau:
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2014 ước tính tăng 5,62% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó quý I tăng 5,09%; quý II tăng 5,42%; quý III tăng 6,19%. Đây là mức tăng cao so với mức tăng cùng kỳ năm 2012 và 2013[1], cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế. Trong mức tăng 5,62% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,00%, cao hơn mức 2,39% của cùng kỳ năm 2013, đóng góp 0,54 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,42%, cao hơn mức 5,20% của 9 tháng năm 2013, đóng góp 2,46 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,99%, mức tăng của cùng kỳ năm 2013 là 6,25%, đóng góp 2,62 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành thủy sản có mức tăng cao nhất với 6,15%, nhưng chỉ đóng góp 0,21 điểm phần trăm vào mức tăng chung do chiếm tỷ trọng thấp; ngành nông nghiệp mặc dù tăng thấp ở mức 2,10% nhưng quy mô trong khu vực lớn hơn (Khoảng 75%) nên đóng góp 0,29 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 5,88%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 6,44% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo có những chuyển biến tích cực với mức tăng 8,57%, cao hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ một số năm trước [2], góp phần quan trọng đến mức tăng trưởng chung. Ngành khai khoáng giảm 0,61%. Ngành xây dựng tăng 6,30%, cao hơn mức tăng 5,34% của 9 tháng năm 2013.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 6,02% so với cùng kỳ năm 2013; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 7,34%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5,44%. Hoạt động kinh doanh bất động sản được cải thiện nhiều với mức tăng 2,93%, cao hơn mức tăng 1,91% của cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do lãi suất ngân hàng tiếp tục giảm, chính sách của Nhà nước về hỗ trợ ngành bất động sản đã và đang phát huy tác dụng cùng với những điều kiện cho vay mua nhà được nới lỏng.
Về cơ cấu kinh tế 9 tháng năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 17,40%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,04%; khu vực dịch vụ chiếm 44,56% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2013 là: 17,85%; 37,86% và 44,29%).
Xét về góc độ sử dụng GDP của 9 tháng, tiêu dùng cuối cùng tăng 5,28% so với cùng kỳ năm 2013, đóng góp 4,02 điểm phần trăm vào mức tăng chung (Tiêu dùng cuối cùng của dân cư tăng 5,12%, cao hơn mức tăng 5,02% của cùng kỳ năm trước); tích lũy tài sản tăng 4,84%, đóng góp 1,46 điểm phần trăm.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
9 tháng các năm 2012, 2013 và 2014
|
Tốc độ tăng so với
cùng kỳ năm trước (%)
|
Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 9 tháng
năm 2014
(Điểm phần trăm)
|
|
9 tháng năm 2012
|
9 tháng
năm 2013
|
9 tháng năm 2014
|
Tổng số
|
5,10
|
5,14
|
5,62
|
5,62
|
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
|
2,50
|
2,39
|
3,00
|
0,54
|
Công nghiệp và xây dựng
|
5,76
|
5,20
|
6,42
|
2,46
|
Dịch vụ
|
5,66
|
6,25
|
5,99
|
2,62
|
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng năm 2014 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 548,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Nông nghiệp đạt 395,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,4%; lâm nghiệp đạt 18,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,1%; thuỷ sản đạt 134,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,5%.
Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng Chín, cả nước gieo cấy được 1778,2 nghìn ha lúa mùa, bằng 102,5% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 1179,4 nghìn ha, bằng 99,5%; các địa phương phía Nam gieo cấy 598,8 nghìn ha, bằng 109,1%. Diện tích gieo cấy lúa mùa của các địa phương phía Bắc giảm nhẹ (-3,9 nghìn ha) do một số địa phương chuyển đổi một phần diện tích sang trồng cây hàng năm khác hiệu quả hơn hoặc xây dựng các công trình hạ tầng trong Chương trình Nông thôn mới (Sơn La giảm 2,5 nghìn ha; Hà Nội, Hưng Yên và Vĩnh Phúc cùng giảm 1 nghìn ha). Hiện nay trà lúa mùa sớm tại các địa phương phía Bắc đang trong giai đoạn vào chắc và chín, ước tính năng suất tăng 2 - 3 tạ/ha so với vụ mùa năm trước; sản lượng đạt 5,8 triệu tấn, tăng 228,7 nghìn tấn (4,1%). Nếu điều kiện thời tiết những tháng cuối năm thuận và ít bị ảnh hưởng của sâu bệnh thì năng suất lúa mùa cả nước năm nay ước tính đạt 48,7 tạ/ha, tăng 1,7 tạ/ha so với vụ mùa năm trước. Do đó mặc dù diện tích gieo trồng đạt 1965 nghìn ha, giảm 21,1 nghìn ha nhưng sản lượng đạt 9,6 triệu tấn, tăng 228,4 nghìn tấn (2,4%).
Cùng với việc gieo cấy lúa mùa, các địa phương trên cả nước đang bước vào thu hoạch lúa hè thu. Tính đến thời điểm 15/9/2014, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1798,6 nghìn ha lúa hè thu, bằng 94,9% cùng kỳ năm trước, chiếm 92,9% diện tích gieo trồng, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1552 nghìn ha, bằng 93%. Do thời tiết thuận lợi nên ước tính năng suất lúa hè thu cả nước đạt 53,4 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha so với vụ hè thu 2013; sản lượng đạt 11,3 triệu tấn, tăng 53,8 nghìn tấn.
Ước tính diện tích lúa cả năm 2014 đạt 7802,8 nghìn ha, giảm 99,7 nghìn ha so với năm 2013, nhưng do năng suất đạt 57,5 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha nên sản lượng đạt 44,9 triệu tấn, tăng 816 nghìn tấn.
Đến thời điểm 15/9/2014, cả nước đã gieo trồng được 1065,5 nghìn ha ngô, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2013; 129,2 nghìn ha khoai lang, giảm 1,6%; 202,3 nghìn ha lạc, giảm 1,5%; 108,3 nghìn ha đậu tương, giảm 6,1% và 901,4 nghìn ha rau, đậu tăng 4%.
Cây công nghiệp lâu năm phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, sản lượng đạt khá do diện tích đến kỳ cho sản phẩm tăng. Sản lượng cao su 9 tháng ước tính đạt 669,9 nghìn tấn, tăng 1,1% so với năm trước; chè đạt 808,6 nghìn tấn, tăng 4,3%; hồ tiêu 133,5 nghìn tấn, tăng 10,3%; điều 301,9 nghìn tấn, tăng 9,6%. Cây ăn quả cũng cho sản lượng tăng khá: Nho đạt 15,6 nghìn tấn, tăng 4,2%; xoài 612,7 nghìn tấn, tăng 5,1%; cam, quýt 553,3 nghìn tấn, tăng 3,5%.
Chăn nuôi trâu, bò 9 tháng qua nhìn chung ổn định. Tính đến giữa tháng Chín, đàn trâu cả nước giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2013; đàn bò không có nhiều biến động. Riêng đàn bò sữa tiếp tục phát triển khá, tập trung nhiều ở một số địa phương: Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh và Long An. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 9 tháng giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi tăng 2,1%.
Chăn nuôi lợn có nhiều thuận lợi do dịch tai xanh trên lợn đã được khống chế, giá thịt lợn hơi tăng nên người chăn nuôi phần nào yên tâm sản xuất. Tính đến thời điểm trên, đàn lợn tăng 1,5 - 2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt lợn hơi tăng 2,2%. Xu hướng chăn nuôi lợn đang chuyển dần từ chăn nuôi nhỏ lẻ, cho hiệu quả thấp sang hình thức gia trại và trang trại đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Chăn nuôi gia cầm có xu hướng phát triển tốt do dịch cúm gia cầm được khống chế, giá bán các sản phẩm gia cầm có chiều hướng tăng đã kích thích nhiều hộ chăn nuôi tập trung mở rộng quy mô, tái đàn trở lại. Tổng đàn gia cầm tăng 2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt gia cầm tăng 2,8%.
Tính đến thời điểm 22/9/2014, cả nước không còn địa phương nào có dịch lở mồm long móng và dịch lợn tai xanh chưa qua 21 ngày. Dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày còn ở tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp 9 tháng tuy bị ảnh hưởng của thời tiết khô hạn kéo dài, nhất là các tỉnh vùng Trung Bộ nhưng do có mưa sớm nên các địa phương bảo đảm được tiến độ thời vụ. Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước 9 tháng ước tính đạt 168 nghìn ha, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số địa phương có diện tích rừng trồng mới đạt khá: Tuyên Quang 13,3 nghìn ha; Yên Bái 13,2 nghìn ha; Quảng Ninh 12,8 nghìn ha. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 144,9 triệu cây, giảm 1,2%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 3939 nghìn m3, tăng 7,8%, một số tỉnh có sản lượng gỗ khai thác tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Hòa Bình tăng 45,7%; Hà Tĩnh tăng 41,2%; Thừa Thiên Huế tăng 35,6%; Tuyên Quang tăng 26,3%; Quảng Ngãi tăng 23,4%; Nghệ An tăng 21,8%; Bình Định tăng 18,4%. Sản lượng củi khai thác ước tính đạt 23,2 triệu ste, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.
Thời tiết những tháng đầu năm diễn biến bất thường, nắng hạn kéo dài gây ra tình trạng cháy rừng ở một vài nơi, đặc biệt là khu vực miền Trung. Tính chung chín tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 3713 ha, gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 3063 ha, gấp 3,5 lần; diện tích rừng bị phá 651 ha, tăng 12,6%%. Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Yên Bái 692 ha; Bình Định 388 ha; Phú Yên 317 ha; Quảng Trị 235 ha; Lai Châu 211 ha; Nghệ An 175 ha; Đà Nẵng 130 ha.
Thủy sản
Sản lượng thủy sản 9 tháng ước tính đạt 4738,7 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 3440,5 nghìn tấn, tăng 3,2%; tôm đạt 567,1 nghìn tấn, tăng 14,8%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng ước tính đạt 2495,1 nghìn tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1799,1 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 449,4 nghìn tấn, tăng 18%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng cao do các địa phương tiếp tục chuyển nuôi tôm sú sang tôm thẻ chân trắng để có hiệu quả kinh tế cao hơn. Diện tích tôm sú thu hoạch trong 9 tháng ước tính đạt 525,6 nghìn ha, giảm 7,8% so với cùng kỳ năm 2013; sản lượng đạt 192 nghìn tấn, giảm 3,9%. Diện tích thu hoạch tôm thẻ chân trắng 9 tháng đạt 85 nghìn ha, tăng 68,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 246,9 nghìn tấn, tăng 44,9%. Một số địa phương có sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng mạnh: Sóc Trăng đạt 45 nghìn tấn, tăng 28,7%; Bến Tre 34 nghìn tấn, tăng 52,3%; Cà Mau 29,4 nghìn tấn, tăng 169%; Trà Vinh 17 nghìn tấn, tăng 208,9%; Bạc Liêu 15,4 nghìn tấn, tăng 165,5%. Tại các địa phương, người nuôi tôm được hướng dẫn kỹ thuật thả nuôi, chất lượng con giống được kiểm soát chặt chẽ và nhất là kịp thời xử lý mầm bệnh nên kết quả nuôi tôm đạt khá.
Trong khi nuôi tôm có chiều hướng thuận lợi thì nuôi cá tra vẫn gặp nhiều khó khăn với tình trạng thua lỗ kéo dài, tiêu thụ sụt giảm mạnh nên diện tích thả nuôi ngày càng bị thu hẹp. Nguyên nhân một mặt do các quy định về rào cản kỹ thuật, thuế chống bán phá giá, ép giá; mặt khác do khó khăn kéo dài từ những năm trước làm cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng nợ xấu, dẫn đến khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Một số địa phương có diện tích và sản lượng cá tra 9 tháng giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước: Cần Thơ giảm 6,6% về diện tích và giảm 8,5% về sản lượng; Vĩnh Long giảm 14% về diện tích và giảm 13,8% về sản lượng; Trà Vinh giảm 32,3% về diện tích và giảm 38,2% về sản lượng.
Khai thác thủy sản 9 tháng năm nay có thuận lợi về thời tiết, ngư dân tập trung khai thác những sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Được sự hỗ trợ của Nhà nước nên số tàu khai thác hải sản công suất 90 CV trở lên ở các địa phương tăng. Sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng năm nay ước tính đạt 2243,6 nghìn tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 2104,9 nghìn tấn, tăng 5%. Riêng sản lượng cá ngừ đại dương 9 tháng ước tính đạt 13 nghìn tấn, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2013.
Tổng sản lượng thủy sản năm 2014 ước tính đạt 6327,9 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó cá đạt 4531,4 nghìn tấn, tăng 3,6%; tôm 812,1 nghìn tấn, tăng 12,3%; thủy sản khác đạt 984,4 nghìn tấn, tăng 6,7%.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Chín ước tính tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 5,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,6%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 6,8%.
Tính chung 9 tháng năm nay, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2013 (Quý I tăng 5,3%, quý II tăng 6,9%, quý III tăng 7,7%), cao hơn mức tăng 5,3% của cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng chung 9 tháng của toàn ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 8,3%, cao hơn nhiều so với mức tăng 6,7% của 9 tháng năm 2013, đóng góp 5,8 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện tăng 11,2%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 6,0%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai thác tăng 0,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm mức tăng chung.
Trong các ngành sản xuất, một số ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 35,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 20,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 18,9%; dệt tăng 18,8%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 13,5%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 12,1%; sản xuất trang phục tăng 11,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,2%. Một số ngành có mức tăng khá: Sản xuất kim loại tăng 9,3%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 8,0%; sản xuất đồ uống tăng 7,7%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 7,0%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất thiết bị điện tăng 5,5%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 5,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 4,2%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 3,0%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 0,9%; khai thác than cứng và than non tăng 0,6%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 0,1%; sản xuất thuốc lá giảm 12,3%.
Trong các sản phẩm công nghiệp, một số sản phẩm đạt mức tăng 9 tháng cao so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại di động tăng 47,3%; ô tô tăng 27,5%; sữa tươi tăng 20,9%; giày dép da tăng 19,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 16,1%; tivi tăng 15,6%;… Một số sản phẩm tăng khá: Điện sản xuất tăng 12,3%; quần áo mặc thường tăng 9,9%; thủy hải sản chế biến tăng 9,4%; bột giặt và các chế phẩm dùng cho tẩy, rửa tăng 7,8%... Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ: dầu thô giảm 0,5%; bột ngọt giảm 0,9%; sữa bột giảm 6,4%; thuốc lá điếu giảm 12,4%; khí hóa lỏng (LPG) giảm 8,3%; xe máy giảm 11%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 135,2% do doanh nghiệp Samsung Electronic đi vào hoạt động ổn định; Hải Phòng tăng 11,7%; Đà Nẵng tăng 11,2%; Hải Dương tăng 9,8%; Bình Dương tăng 8,4%; Cần Thơ tăng 7,9%; Đồng Nai tăng 7,8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,8%; Quảng Nam tăng 5%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 4,9%; Hà Nội tăng 4,5%; Quảng Ninh tăng 4,4%; Bắc Ninh giảm 5,6%; Vĩnh Phúc giảm 4,2%; Quảng Ngãi tiếp tục giảm mạnh ở mức 16,6%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Tám năm nay tăng 6,4% so với tháng trước và tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng, chỉ số tiêu thụ ngành này tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2013. Các ngành có chỉ số tiêu thụ 8 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2013: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 32,6%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 23,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 16,6%; sản xuất thiết bị điện tăng 15,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 15,0%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ 8 tháng tăng thấp: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 7,3%; sản xuất trang phục tăng 7,2%; sản xuất đồ uống tăng 6,4%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,0%; dệt tăng 5,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 5,2%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 5,0%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 4,8%; sản xuất kim loại tăng 4,5%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/9/2014 tăng 11,6% so với cùng thời điểm năm 2013. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng chung: Sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 21,8%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 16,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 8,0%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 0,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 6,2%; dệt tăng 6,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn nhiều so với mức tăng chung: Sản xuất kim loại tăng 58,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 44,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 41,9%; sản xuất trang phục tăng 39,6%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 36,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 22,5%; sản xuất đồ uống tăng 20,8%.
Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 8 tháng là 76,2%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 157,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 122,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm 98,1%; sản xuất kim loại 88,8%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 87,6%.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2014 tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 4,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước nhìn chung ổn định; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 4,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 5,6%. Tại thời điểm trên, chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp khai khoáng giảm 3,6% so với cùng thời điểm năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,8%; sản xuất, phân phối điện tăng 2,6%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,6%.
Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy mô công nghiệp lớn tại thời điểm 01/9/2014 so với cùng thời điểm năm 2013 như sau: Quảng Nam tăng 5,6%; Đồng Nai tăng 4,5%; Hải Phòng tăng 3,8%; Quảng Ninh tăng 3,6%; Bình Dương tăng 3,0%; Cần Thơ tăng 2,2%; Vĩnh Phúc tăng 2,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 1,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,8%; Đà Nẵng tăng 1,5%; Quảng Ngãi tăng 0,8%; Bắc Ninh tăng 0,7%. Một số tỉnh có chỉ số sử dụng lao động tăng cao: Thái Nguyên tăng 79,7%; Nghệ An tăng 45,5%; Hậu Giang tăng 25,6%; Lào Cai tăng 21,0%, chủ yếu do một số doanh nghiệp mở rộng sản xuất, hoặc đi vào hoạt động chính thức; hoặc số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tăng lên.
Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng Chín, cả nước có 5742 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 30,6 nghìn tỷ đồng, tăng 13,7% về số doanh nghiệp và tăng 11,7% về số vốn đăng ký so với tháng trước. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp trong tháng đạt 5,3 tỷ đồng, giảm 1,7% so với tháng trước. Số lao động của các doanh nghiệp thành lập mới trong tháng là 86,7 nghìn người, tăng 9,2% so với tháng trước.
Trong tháng 9/2014, cả nước có 948 doanh nghiệp ngừng hoạt động, quay trở lại hoạt động, giảm 36,6% so với tháng trước; có 4549 doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoặc chấm dứt hoạt động, giảm 31,9%, bao gồm 662 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể; 977 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 2910 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký.
Trong 9 tháng năm 2014, cả nước có 53192 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 320,3 nghìn tỷ đồng, giảm 8,7% về số doanh nghiệp và tăng 13,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng đạt 6,0 tỷ đồng, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm 2013. Số lao động dự kiến được tạo việc làm của các doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng là 795,2 nghìn người, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước.
Riêng trong quý III/2014, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 15877 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 89,4 nghìn tỷ đồng, so với quý II/2014 giảm 16,3% về số doanh nghiệp và giảm 32,7% về số vốn đăng ký; so với quý I/2014 tương ứng giảm 13,5% và giảm 8,7%; so với quý IV/2013 giảm 15,2% và giảm 23,8% và so với cùng kỳ năm trước giảm 17,8% và tăng 1,9%.
Trong 9 tháng năm nay, cả nước có 48330 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể, hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, hoặc ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký của, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 7027 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể; 8440 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn; 32863 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký. Tổng vốn đăng ký của các doanh nghiệp gặp khó khăn trong 9 tháng là 408146 tỷ đồng, trong đó vốn đăng ký của các doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể là 55,4 nghìn tỷ đồng, đây là vốn đăng ký của doanh nghiệp chắc chắn đã bị loại ra khỏi nền kinh tế; vốn đăng ký của các doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn là 40,0 nghìn tỷ đồng, đây là vốn của các doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời; vốn đăng ký của các doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 312,7 nghìn tỷ đồng, đây là vốn của các doanh nghiệp thực sự khó khăn nhưng chưa hoàn thành thủ tục giải thể, do đó về mặt pháp lý số doanh nghiệp này chưa chính thức bị loại khỏi nền kinh tế. Trong 9 tháng, cả nước có 11872 doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2013.
Trong 9 tháng, tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế của các doanh nghiệp là 741,8 nghìn tỷ đồng, bao gồm 320,3 nghìn tỷ đồng là vốn đăng ký của các doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và 421,5 nghìn tỷ đồng (tương ứng với khoảng 17 nghìn lượt đăng ký thay đổi) là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn. Đây là yếu tố tích cực khi một bộ phận doanh nghiệp sau thời gian hoạt động và khẳng định được vị trí trên thị trường đã linh hoạt, tìm kiếm cơ hội kinh doanh, tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động trong bối cảnh nền kinh tế chưa thực sự thoát khỏi giai đoạn khó khăn.
Trong 9 tháng năm nay, tình hình đăng ký doanh nghiệp theo các ngành như sau: Sản xuất phân phối, điện, nước, gas tăng 14,0% về số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới; giảm 26,1% về số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động. Ngành dịch vụ khác tăng 6,3% và giảm 16,5%. Một số ngành đang có sự tái cơ cấu mạnh mẽ, thể hiện qua sự biến động tăng số lượng doanh nghiệp gia nhập cũng như số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường so với cùng kỳ năm trước: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí (Tăng 55,3% về số doanh nghiệp thành lập mới và tăng 24,2% về số doanh nghiệp dừng hoạt động); nông, lâm nghiệp và thủy sản (Tăng 26,2% và tăng 6,8%); kinh doanh bất động sản (Tăng 23,4% và tăng 9,3%); y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (Tăng 10,8% và tăng 25,4%); thông tin và truyền thông (Tăng 8,3% và tăng 31,3%). Ngược lại với xu hướng trên, một số ngành vẫn gặp nhiều khó khăn: Bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy (Giảm 18,5% và tăng 18,3%); dịch vụ việc làm; du lịch; cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác (Giảm 11,5% và tăng 4,7%); xây dựng (Giảm 10,8% và tăng 14,7%).
Hoạt động dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín đạt 244,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 186,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo nhóm ngành hàng hóa bán lẻ, hàng vật phẩm, văn hóa, giáo dục ước tính đạt 2,9 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với tháng trước và là nhóm hàng có tốc độ tăng cao nhất; hàng may mặc đạt 10,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,8%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) đạt 4,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9%; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy đạt 3,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8%; nhóm hàng lương thực, thực phẩm đạt 51,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8%; xăng, dầu đạt 23 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch tháng Chín ước tính đạt 31,3 nghìn tỷ đồng, giảm 0,9% so tháng trước và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2013, bao gồm: Dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 28,9 nghìn tỷ đồng, giảm 0,8% và tăng 9,9%; dịch vụ lữ hành đạt 2,4 nghìn tỷ đồng, giảm 2,5% và tăng 5,4%. Doanh thu dịch vụ lưu trú ăn uống tháng Chín của Hà Nội tăng 1% so với tháng trước, thành phố Hồ Chí Minh tăng 9%. Doanh thu du lịch lữ hành tháng Chín của Hà Nội giảm 3,8% so với tháng trước, thành phố Hồ Chí Minh giảm 1,2%.
Tính chung 9 tháng năm nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước đạt 2145,5 nghìn tỷ đồng, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2013, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,2%, cao hơn mức tăng 5,4% của cùng kỳ năm 2013. Nhìn chung giá cả thị trường trong những tháng qua khá ổn định, đây là một trong những yếu tố làm cho mức tiêu thụ hàng hóa tiêu dùng trong nước có phần được cải thiện hơn.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng của khu vực kinh tế Nhà nước đạt 216,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng số và tăng 8,4%; kinh tế ngoài Nhà nước đạt 1855,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 86,5%, tăng 11,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 72,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,4%, tăng 21,6%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng, kinh doanh bán lẻ hàng hóa đạt 1617,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 75,4% tổng số và tăng 10,7%; dịch vụ lưu trú ăn uống đạt 259,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1% và tăng 11,9%; dịch vụ khác đạt 246,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,5% và tăng 12,5%; du lịch lữ hành đạt 22,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 17,4%.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách 9 tháng ước tính đạt 2272,5 triệu lượt khách, tăng 7,1% và 102,5 tỷ lượt khách.km, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2013, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 25,3 triệu lượt khách, tăng 4,4% và 25,5 tỷ lượt khách.km, tăng 5,1%; vận tải địa phương đạt 2247,2 triệu lượt khách, tăng 7,1% và 77,1 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9%. Vận tải hành khách đường bộ 9 tháng ước tính đạt 2133,1 triệu lượt khách, tăng 7,3% và 75,1 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; đường hàng không đạt 13,9 triệu lượt khách, tăng 8,5% và 21,3 tỷ lượt khách.km, tăng 6%; đường sắt đạt 9,2 triệu lượt khách, giảm 1,4% và 3,3 tỷ lượt khách.km, tăng 0,6%; đường biển đạt 4 triệu lượt khách, tăng 3,6% và 185,1 triệu lượt khách.km, tăng 2,2%.
Vận tải hàng hóa 9 tháng ước tính đạt 785,7 triệu tấn, tăng 5,2% và 164,1 tỷ tấn.km, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 763,7 triệu tấn, tăng 5,5% và 75,5 tỷ tấn.km, tăng 3,6%; vận tải ngoài nước đạt 21,9 triệu tấn, giảm 4% và 88,6 tỷ tấn.km, giảm 0,8%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 600,8 triệu tấn, tăng 6,7% và 34,6 tỷ tấn.km, tăng 4,5%; đường sông đạt 138,4 triệu tấn, tăng 2,9% và 29,3 tỷ tấn.km, tăng 3%; đường biển đạt 41 triệu tấn, giảm 6,4% và 96,7 tỷ tấn.km, giảm 0,8%; đường sắt đạt 5,4 triệu tấn, tăng 8,1% và 3,2 tỷ tấn.km, tăng 10,4%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong 9 tháng ước tính đạt 6062,1 nghìn lượt người, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 3659,5 nghìn lượt người, tăng 8,8%; đến vì công việc 1017,8 nghìn lượt người, tăng 10,8%; thăm thân nhân đạt 1043,1 nghìn lượt người, tăng 14,2%. Trong 9 tháng năm nay, khách quốc tế đến nước ta qua đường hàng không đạt 4865,9 nghìn lượt người, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2013; khách đến bằng đường bộ đạt 1150,3 nghìn lượt người, tăng 18,3%; khách đến bằng đường biển đạt 45,9 nghìn lượt người, giảm mạnh ở mức 72,9%, chủ yếu do ảnh hưởng của tình hình biển Đông. Lượng khách đến nước ta từ một số quốc gia và vùng lãnh thổ 9 tháng năm nay so với cùng kỳ năm 2013 như sau: Trung Quốc 1542,4 nghìn lượt người, tăng 13,5%; Hàn Quốc 618,5 nghìn lượt người, tăng 10%; Nhật Bản 486,4 nghìn lượt người, tăng 8,1%; Hoa Kỳ 346,4 nghìn lượt người, tăng 5,5%; Đài Loan 306,7 nghìn lượt người, tăng 3%; Cam-pu-chia 291,2 nghìn lượt người, tăng 17,6%; Liên bang Nga 264,8 nghìn lượt người, tăng 28,5%; Ôx-trây-li-a 247,5 nghìn lượt người, tăng 3,7%; Ma-lai-xi-a 243,4 nghìn lượt người, tăng 2,7%; Thái Lan 201,8 nghìn lượt người, tăng 3,5%; Pháp 164,8 nghìn lượt người, tăng 4,5%; Vương quốc Anh 158 nghìn lượt người, tăng 16%; Xin-ga-po 142 nghìn lượt người; tăng 4,2%; Lào 112,7 nghìn lượt người, tăng 17,1%.
ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Xây dựng, đầu tư phát triển
Hoạt động xây dựng
Ngay từ cuối năm 2013, nhiều dự án phát triển giao thông được khởi công xây dựng, đặc biệt là các dự án phát triển đường cao tốc. Các dự án như đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai; cầu Nhật Tân và đường nối đến sân bay Nội Bài; nhà ga T2 Nội Bài… cùng những dự án quy mô lớn khác đã và đang được các chủ đầu tư tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ nhằm sớm đưa vào sử dụng. Cùng với đó là sự khởi sắc của thị trường bất động sản, nhiều dự án phát triển nhà ở được hoàn thành và bàn giao trong 9 tháng qua. Đây là những yếu tố cơ bản và tích cực góp phần thúc đẩy hoạt động xây dựng 9 tháng năm nay đạt mức tăng khá.
Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng theo giá hiện hành ước tính đạt 587,6 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 61,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5%; khu vực ngoài Nhà nước 487,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 83%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 38,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,5%. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 260 nghìn tỷ đồng; công trình nhà không để ở đạt 87,6 nghìn tỷ đồng; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 168,7 nghìn tỷ đồng; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 71,3 nghìn tỷ đồng.
Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 467,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2013, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 50,4 nghìn tỷ đồng, giảm 3,6%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 386 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 30,7 nghìn tỷ đồng, tăng 62,4%. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 206,1 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7%; công trình nhà không để ở đạt 69,6 nghìn tỷ đồng, tăng 0,3%; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 133,7 nghìn tỷ đồng, tăng 8,4%; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 57,7 nghìn tỷ đồng, tăng 14%.
Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9 tháng năm 2014 theo giá hiện hành ước tính đạt 833,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước và bằng 31,2% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 329,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% tổng vốn và tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 315,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,9% và tăng 12,8%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 188,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 22,6% và tăng 5,8%.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
9 tháng các năm 2012, 2013 và 2014 so với cùng kỳ năm trước
(Theo giá hiện hành)
Đơn vị tính: %
|
9 tháng
năm 2012
|
9 tháng
năm 2013
|
9 tháng
năm 2014
|
Tổng số
|
105,4
|
106,1
|
110,3
|
Khu vực Nhà nước
|
108,7
|
104,2
|
110,7
|
Khu vực ngoài Nhà nước
|
104,9
|
108,5
|
112,8
|
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
|
101,6
|
105,6
|
105,8
|
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 9 tháng ước tính đạt 147,1 nghìn tỷ đồng, bằng 76,6% kế hoạch năm và tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2013, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 32485 tỷ đồng, bằng 82,2% kế hoạch năm và tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 4609 tỷ đồng, bằng 101,8% và giảm 6,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2646 tỷ đồng, bằng 76,2% và giảm 6,7%; Bộ Xây dựng 1577 tỷ đồng, bằng 77,4% và tăng 5,8%; Bộ Y tế 698 tỷ đồng, bằng 86,6% và tăng 3,6%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 530 tỷ đồng, bằng 71,8% và tăng 5,8%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 443 tỷ đồng, bằng 70,9% và tăng 2,3%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 372 tỷ đồng, bằng 82,2% và tăng 1,9%; Bộ Công Thương 250 tỷ đồng, bằng 84,7% và tăng 3,3%; Bộ Khoa học và Công nghệ 210 tỷ đồng, bằng 74,7% và giảm 3,9%; Bộ Thông tin và Truyền thông 190 tỷ đồng, bằng 91,5% và giảm 5,9%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 114597 tỷ đồng, bằng 75,1% kế hoạch năm và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 78222 tỷ đồng, bằng 72,1% và giảm 0,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 29453 tỷ đồng, bằng 81,4% và tăng 6,2%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 6922 tỷ đồng, bằng 87,8% và giảm 0,8%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội đạt 17310 tỷ đồng, bằng 73,9% kế hoạch năm và giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 11828 tỷ đồng, bằng 81,6% và tăng 1%; Nghệ An 2986 tỷ đồng, bằng 84,9% và tăng 7,9%; Bà Rịa - Vũng Tàu 2891 tỷ đồng, bằng 64,3% và tăng 18,1%; Bình Dương 2751 tỷ đồng, bằng 61,6% và tăng 13,7%; Vĩnh Phúc 2739 tỷ đồng, bằng 77,2% và giảm 6,6%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/9/2014 thu hút 1152 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 7637,8 triệu USD, tăng 32,1% về số dự án và giảm 17,8% về số vốn so với cùng kỳ năm 2013. Đồng thời có 417 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung với 3544,8 triệu USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 11182,6 triệu USD, giảm 25,5% so với cùng kỳ năm 2013. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng năm nay ước tính đạt 8,9 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 9 tháng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút các nhà đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký đạt 7702,1 triệu USD, chiếm 68,9% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 1224,6 triệu USD, chiếm 10,9%; ngành xây dựng đạt 612,1 triệu USD, chiếm 5,5%; các ngành còn lại đạt 1643,8 triệu USD, chiếm 14,7%.
Cả nước có 47 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong 9 tháng, trong đó Bắc Ninh tiếp tục dẫn đầu với số vốn đăng ký đạt 1270 triệu USD, chiếm 16,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh 1094,8 triệu USD, chiếm 14,3%; Quảng Ninh 570,4 triệu USD, chiếm 7,5%; Hải Phòng 525 triệu USD, chiếm 6,9%; Bình Dương 438,2 triệu USD, chiếm 5,7%; Đồng Nai 411,6 triệu USD, chiếm 5,4%; Hải Dương 343,4 triệu USD, chiếm 4,5%...
Trong số 52 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam trong 9 tháng, Hàn Quốc vẫn là nhà đầu tư lớn nhất với 2572,9 triệu USD, chiếm 33,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) với 1361,6 triệu USD, chiếm 17,8%; Nhật Bản 830 triệu USD, chiếm 10,9%; Xin-ga-po 639,8 triệu USD, chiếm 8,4%; Đài Loan 431,9 triệu USD, chiếm 5,7%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 300,2 triệu USD, chiếm 3,9%; Ca-na-đa 241 triệu USD, chiếm 3,2%...
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2014 ước tính đạt 597,6 nghìn tỷ đồng, bằng 76,3% dự toán năm, trong đó thu nội địa 403,8 nghìn tỷ đồng, bằng 74,9%; thu từ dầu thô 74,2 nghìn tỷ đồng, bằng 87,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 116,9 nghìn tỷ đồng, bằng 75,9%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 135,7 nghìn tỷ đồng, bằng 73,5% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 86,3 nghìn tỷ đồng, bằng 77,3%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 78,9 nghìn tỷ đồng, bằng 73,6%; thuế thu nhập cá nhân 34,8 nghìn tỷ đồng, bằng 73,5%; thuế bảo vệ môi trường 8,3 nghìn tỷ đồng, bằng 65,8%; thu phí, lệ phí 7,6 nghìn tỷ đồng, bằng 74%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2014 ước tính đạt 722 nghìn tỷ đồng, bằng 71,7% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 127,3 nghìn tỷ đồng, bằng 78,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 123,7 nghìn tỷ đồng, bằng 78,2%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể ước tính đạt 505,8 nghìn tỷ đồng, bằng 71,9%; chi trả nợ và viện trợ 88,9 nghìn tỷ đồng, bằng 74,1%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 8/2014 đạt 13,3 tỷ USD, tăng 272 triệu USD so với số ước tính, trong đó gỗ và sản phẩm gỗ tăng 64 triệu USD, thủy sản tăng 63 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 39 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9/2014 ước tính đạt 12,4 tỷ USD, giảm 6,6% so với tháng trước do lượng tờ khai xuất khẩu hải quan bị ảnh hưởng số ngày nghỉ lễ trong tháng, mặt khác xuất khẩu được đẩy mạnh trong những ngày cuối tháng Tám, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước tính đạt 8 tỷ USD, giảm 8,9%; khu vực kinh tế trong nước đạt 4,4 tỷ USD, giảm 2%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Chín tăng 12,3%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 6,3% với một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao: Hàng dệt may tăng 16%; giầy dép tăng 49,7%; cà phê tăng 70,7%.
Tính chung 9 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 109,6 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 36,6 tỷ USD, tăng 14,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 73 tỷ USD, tăng 14,1%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng gia công, lắp ráp tăng so với cùng kỳ: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 17,1 tỷ USD, tăng 10,1%; hàng dệt may đạt 15,5 tỷ USD, tăng 18,9%; giày dép đạt 7,5 tỷ USD, tăng 25,3%. Nhìn chung tỷ trọng xuất khẩu các nhóm hàng trên chủ yếu vẫn thuộc về khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó điện thoại các loại và linh kiện chiếm 99,6% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước; giày dép chiếm 76,3%; hàng dệt may chiếm 59,5%. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực khác đạt mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước, nhất là nhóm hàng nông, lâm, thủy sản: Dầu thô đạt 5,8 tỷ USD, tăng 8,7%; thủy sản đạt 5,7 tỷ USD, tăng 23%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 5,3 tỷ USD, tăng 21,8%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,4 tỷ USD, tăng 14,4%; cà phê đạt 2,8 tỷ USD, tăng 29,2%; túi xách, vali, mũ ô dù đạt 1,9 tỷ USD, tăng 37%; hạt điều đạt 1,5 tỷ USD, tăng 23,6%; rau quả đạt 1,1 tỷ USD, tăng 42,7%; hạt tiêu đạt 1,1 tỷ USD, tăng 43%.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 48,6 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 44,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 17,1 tỷ USD, chiếm 15,6%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ đạt 41,4 tỷ USD, tăng 22,2%, chiếm 37,8%. Nhóm hàng nông sản và lâm sản đạt 13,9 tỷ USD, tăng 15,8%, chiếm 12,7%. Hàng thủy sản đạt 5,7 tỷ USD, chiếm 5,2%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu trong 9 tháng, Hoa Kỳ vẫn đứng đầu với kim ngạch ước tính đạt 21 tỷ USD, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm 2013, chủ yếu do kim ngạch xuất khẩu một số nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn có mức tăng cao: Hàng dệt may tăng 15,3%; giày dép tăng 23,7%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 14,4%. Tiếp đến là thị trường EU đạt 20,1 tỷ USD, tăng 13%; ASEAN đạt 14 tỷ USD, tăng 1,6%; Nhật Bản đạt 11,2 tỷ USD, tăng 13,3%; Trung Quốc đạt 11,1 tỷ USD, tăng 16,5%; Hàn Quốc đạt 5,1 tỷ USD, tăng 7,7%.
Nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 8/2014 đạt 12,2 tỷ USD, thấp hơn 702 triệu USD so với số ước tính, trong đó xăng dầu giảm 193 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác giảm 133 triệu USD, vải giảm 82 triệu USD, sắt, thép và khí đốt hóa lỏng cùng giảm 35 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Chín ước tính đạt 13 tỷ USD, tăng 6,6% so với tháng trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7,5 tỷ USD, tăng 6,6%, khu vực kinh tế trong nước đạt 5,5 tỷ USD, tăng 6,5%. So với cùng kỳ năm 2013, kim ngạch nhập khẩu tháng Chín năm nay tăng 14,5%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 10,1% với kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng cao: Vải tăng 21,5%; sắt thép tăng 25,9%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 21,1%.
Tính chung 9 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 107,2 tỷ USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2013, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 46,9 tỷ USD, tăng 12,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 60,3 tỷ USD, tăng 9,8%.
Trong 9 tháng, kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng đạt mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng đạt 16,2 tỷ USD, tăng 21,2%; vải đạt 6,9 tỷ USD, tăng 15,1%; xăng dầu đạt 6,2 tỷ USD, tăng 20,1%; chất dẻo đạt 4,7 tỷ USD, tăng 12,9%; nguyên phụ liệu dệt may giày dép đạt 3,5 tỷ USD, tăng 25,3%; kim loại thường khác đạt 2,5 tỷ USD, tăng 17%; sản phẩm chất dẻo đạt 2,3 tỷ USD, tăng 23,1%; ô tô đạt 2,4 tỷ USD, tăng 45,4%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 938 triệu USD, tăng 90,2%.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu trong 9 tháng, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 100,2 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ, tiếp tục giữ tỷ trọng lớn với 93,5% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhóm hàng máy móc, thiết bị dụng cụ đạt 39,2 tỷ USD, chiếm 36,6%; nguyên, nhiên vật liệu đạt 61 tỷ USD, chiếm 56,9%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng đạt gần 7 tỷ USD, tăng 12,7%, chiếm tỷ trọng 6,5%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu, Trung Quốc ước tính đạt 31,1 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2013, nhập siêu từ thị trường này vẫn ở mức cao, ước tính khoảng 20 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. ASEAN đạt 17 tỷ USD, tăng 7,5%; Hàn Quốc đạt 15,6 tỷ USD, tăng 3,5%; Nhật Bản đạt 9,1 tỷ USD, tăng 7,4%; EU đạt 6,5 tỷ USD, giảm 7,1%; Hoa Kỳ đạt 4,7 tỷ USD, tăng 20,5%.
Xuất siêu tháng Tám đạt 1,07 tỷ USD, là tháng đạt mức xuất siêu cao nhất so với cùng kỳ một số năm gần đây[3]. Ước tính tháng Chín nhập siêu 600 triệu USD, bằng 4,8% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Tính chung 9 tháng, xuất siêu khoảng 2,5 tỷ USD, bằng 2,3% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 12,7 tỷ USD, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,2 tỷ USD. Xuất siêu ở mức cao cho thấy việc tiếp cận thị trường ngoài nước đối với hàng hóa xuất xứ Việt Nam đã có nhiều cải thiện, góp phần ổn định tỷ giá, cung cầu ngoại tệ trong nước. Tuy nhiên, xuất siêu chủ yếu vẫn thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với hàng gia công lắp ráp từ nguyên liệu nhập khẩu là chính cho thấy hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa của nước ta mang lại hiệu quả chưa cao và thiếu tính bền vững.
Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2014 tăng 0,40% so với tháng trước, mức tăng cao nhất trong các tháng kể từ tháng 6/2014 (Tháng Sáu tăng 0,30%; tháng Bảy tăng 0,23%; tháng Tám tăng 0,22%). CPI tháng Chín tăng chủ yếu do nhóm giáo dục tăng cao ở mức 6,38%, tác động làm chỉ số giá chung tăng 0,39%. Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng chủ yếu do trong tháng có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương điều chỉnh học phí các loại theo lộ trình tăng học phí của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ.
Chỉ số giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có mức tăng thấp hơn: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,32%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,23%, trong đó dịch vụ y tế tăng 0,25%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,22%, trong đó lương thực tăng 0,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,21%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,09%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,08%; bưu chính viễn thông không biến động nhiều. Nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng và nhóm giao thông có giá giảm so với tháng trước, tương ứng giảm 0,38% và giảm 1,85%.
CPI tháng 9/2014 tăng 2,25% so với tháng 12/2013 (Bình quân mỗi tháng tăng 0,25%) và tăng 3,62% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 9 tháng năm nay tăng 4,61% so với bình quân cùng kỳ năm 2013, mức tăng thấp nhất trong 10 năm gần đây[4]. Những yếu tố chủ yếu góp phần giữ ổn định CPI 9 tháng năm nay: (1) Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 được các Bộ, ngành và địa phương triển khai tích cực và hiệu quả; (2) Vụ đông xuân và hè thu năm nay được mùa nên nguồn cung lương thực dồi dào; (3) Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới tương đối ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những yếu tố ảnh hưởng làm tăng giá tiêu dùng: Điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế tại thành phố Hồ Chí Minh và Tiền Giang; tăng học phí các loại ở 43 tỉnh, thành phố; tăng mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở doanh nghiệp từ ngày 01/01/2014 và tăng giá xăng dầu.
Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng tháng 9/2014 giảm 1,66% so với tháng trước; giảm 6,51% so với cùng kỳ năm trước; tăng 0,61% so với tháng 12/2013. Giá vàng bình quân 9 tháng năm 2014 giảm 13,34% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2014 giảm 0,15% so với tháng trước; tăng 0,27% so với tháng 12/2013 và tăng 0,04% so với cùng kỳ năm trước. Giá đô la Mỹ bình quân 9 tháng năm 2014 tăng 0,51% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá sản xuất
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2014 tăng 4,72% so với cùng kỳ năm trước (Quý I tăng 5,14%; quý II tăng 3,92%; quý III tăng 5,10%), trong đó chỉ số giá bán sản phẩm hàng nông nghiệp tăng 3,61%; chỉ số giá bán sản phẩm hàng lâm nghiệp tăng 8,87% và hàng thủy sản tăng 7,86%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp tăng 3,68% so với cùng kỳ năm 2013 (Quý I tăng 5,21%; quý II tăng 3,06%; quý III tăng 2,79%), trong đó chỉ số giá bán sản phẩm khai khoáng tăng 10,20%; chỉ số giá bán sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,06%; chỉ số giá bán điện và phân phối điện tăng 11,81%; chỉ số giá bán nước sạch, nước thải, xử lý nước thải, rác thải tăng 2,9%.
Chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất 9 tháng năm nay tăng 3,37% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tăng cao nhất là khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí với mức tăng 8,33% (Quý I tăng 10,12%; quý II tăng 8,66%; quý III tăng 6,23%); thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 5,75% (Quý I tăng 4,92%; quý II tăng 5,70%; quý III tăng 6,64%); khai khoáng tăng 5,57% (Quý I tăng 6,87%; quý II tăng 4,72%; quý III tăng 5,13%); nước cung cấp và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,50% (Quý I tăng 6,73%; quý II tăng 6,11%; quý III tăng 3,69%); thực phẩm, đồ uống và thuốc lá tăng 4,00% (Quý I tăng 2,60%; quý II tăng 4,93%; quý III tăng 4,47%).
Chỉ số giá cước vận tải kho bãi 9 tháng năm 2014 tăng 3,28% so với cùng kỳ năm 2013, chủ yếu do giá cước dịch vụ vận tải đường sắt, đường bộ tăng cao ở mức 5,58% (Quý I tăng 3,97%; quý II tăng 6,13%; quý III tăng 6,65%); chỉ số giá cước dịch vụ vận tải đường thủy và dịch vụ kho bãi và các dịch vụ liên quan đến hoạt động hỗ trợ cho vận tải ngành đường khác tăng ở mức trên, dưới 2%; giá cước dịch vụ vận tải hàng không không biến động. Xét theo loại hình vận tải, giá cước vận tải hàng hóa tăng cao nhất với mức 4% so với cùng kỳ năm trước (Quý I tăng 1,87%; quý II tăng 4,56%; quý III tăng 5,61%); giá cước vận tải hành khách và giá dịch vụ kho bãi và hỗ trợ cho vận tải tăng thấp hơn, ở mức trên 2%.
Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá 9 tháng năm 2014 (Theo đô la Mỹ) tăng 1,20% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá tăng cao: Rau quả tăng 12,27% so với cùng kỳ năm trước; hạt tiêu tăng 8,79%; thủy sản tăng 8,64%. Một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Cao su giảm 25,61%; sắt, thép giảm 7,61%; than giảm 5,21%; cà phê giảm 4,40%; hạt điều giảm 2,07%.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá 9 tháng năm 2014 (Theo đô la Mỹ) giảm 2,38% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Phân bón giảm 16,24% so với cùng kỳ năm 2013; cao su giảm 12,20%; dây điện và dây cáp điện giảm 7,35%; sản phẩm bằng sắt, thép giảm 5,69%; sợi dệt giảm 3,9%; thức ăn gia súc giảm 2,61%. một số mặt hàng có chỉ số giá tăng cao: Gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 8,9%; nguyên phụ liệu dược phẩm tăng 8,64%; rau quả tăng 8,15%; sản phẩm từ chất dẻo tăng 3,31%.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Lao động, việc làm
Lực lượng lao động cả nước ước tính đến thời điểm 01/10/2014 là 54,4 triệu người, tăng 583,2 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2013, trong đó lao động nam chiếm 51,6%, lao động nữ chiếm 48,4%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính 47,8 triệu người, tăng 121,2 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước.
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế 9 tháng năm nay ước tính 53,4 triệu người, tăng 642,9 nghìn ngýời so với cùng kỳ năm trước, trong đó quý I là 52,5 triệu người, tăng 616,1 nghìn người; quý II là 52,8 triệu người, tăng 436,1 nghìn người. Trong tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế, lao động trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 47,0%; lao động công nghiệp chiếm 21,1%; lao động dịch vụ chiếm 31,9%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 9 tháng năm nay là 2,12% (Quý I là 2,21%; quý II là 1,84%; quý III là 2,29%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,51% (Quý I là 3,72%; quý II là 3,26%; quý III là 3,52%); tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn là 1,56% (Quý I là 1,53%; Quý II là 1,20%; Quý III là 1,66%). Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15 - 24 tuổi trong 9 tháng năm 2014 là 6,31% (Quý I là 6,66%; quý II là 5,09%; quý III là 7,14%), trong đó khu vực thành thị là 11,71%; khu vực nông thôn là 4,51%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên trong 9 tháng là 1,11%, trong đó khu vực thành thị là 2,10%; khu vực nông thôn là 0,67%. Tỷ lệ thiếu việc làm 9 tháng năm nay là 2,38% (Quý I là 2,78%; quý II là 2,25%; quý III là 2,11%), trong đó khu vực thành thị là 1,20%; khu vực nông thôn là 2,90%.
Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Trong tháng Chín, cả nước có 10,5 nghìn hộ thiếu đói, giảm 35,9% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 46 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 34,2%. Tính chung 9 tháng năm nay, cả nước có 303,6 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 21,7% so với cùng kỳ năm 2013, tương ứng với 1291,2 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 20,7%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành, các tổ chức từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 21,4 nghìn tấn lương thực và 19,7 tỷ đồng.
Công tác an sinh xã hội tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong 9 tháng năm 2014 là 3303 tỷ đồng, bao gồm: 1750 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1025 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 528 tỷ đồng dành cho cứu đói, cứu trợ xã hội khác.
Giáo dục, đào tạo
Tính đến 9/2014, cả nước có 18/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi; 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 07 tỉnh/thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.
Trong kỳ thi tuyển sinh đại học và cao đẳng năm học 2014-2015, cả nước có 1,4 triệu hồ sơ đăng ký, trong đó hồ sơ đăng ký dự thi khối đại học chiếm khoảng 80%. Tổng chỉ tiêu tuyển sinh đại học và cao đẳng năm học 2014 - 2015 khoảng 600 nghìn chỉ tiêu. Kỳ thi đại học năm nay được tổ chức làm 3 đợt, đợt 1 và 2 dành cho thí sinh dự thi khối đại học và đợt 3 dành cho thí sinh dự thi khối cao đẳng. Theo báo cáo sơ bộ, đợt 1 có 571,7 nghìn thí sinh tham dự, đạt 74,4% tổng số hồ sơ đăng ký; đợt 2 có 749 nghìn thí sinh tham dự, đạt 99% và đợt 3 có 164 nghìn thí sinh tham dự, đạt 63,9%. Trong kỳ thi năm nay có 226 thí sinh bị xử lý kỷ luật, trong đó 171 thí sinh bị đình chỉ thi.
Công tác đào tạo nghề tiếp tục được các cấp, các ngành và địa phương quan tâm đầu tư. Tính thời điểm hiện nay, cả nước có 1372 cơ sở dạy nghề (864 cơ sở công lập và 508 cơ sở ngoài công lập), bao gồm 162 trường cao đẳng nghề; 306 trường trung cấp nghề; 909 trung tâm dạy nghề. Tính đến thời điểm tháng 8/2014, các cơ sở dạy nghề tuyển mới được 230 nghìn lượt học sinh cao đẳng nghề và trung cấp nghề, tăng 6% so với số tuyển mới trong năm 2013; 1,9 triệu lượt học sinh sơ cấp nghề và học nghề dưới 3 tháng, tăng 27% so với thời điểm giữa năm 2013. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, thường không tuyển đủ chỉ tiêu do những bất cập trong định hướng học nghề cho học sinh.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong 9 tháng năm 2014, cả nước có 51,1 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (5 trường hợp tử vong); 35,1 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó 5,8 nghìn trường hợp mắc sởi (147 trường hợp tử vong do sởi); 18,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (15 trường hợp tử vong); 824 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (36 trường hợp tử vong); 212 trường hợp mắc thương hàn; 24 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp tử vong); 2 trường hợp mắc và tử vong do cúm A (H5N1) và 3 trường hợp mắc hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân.
Điểm đáng lưu ý trong thời gian qua là sự bùng phát dịch bệnh do virut Ebola tại nhiều nước trên thế giới. Với tính chất nguy hiểm và diễn biến phức tạp của dịch bệnh này, ngành Y tế đã phối hợp với các ban ngành liên quan tích cực triển khai công tác phòng chống dịch bệnh, tăng cường kiểm soát tại các cửa khẩu quốc tế, sẵn sàng đối phó trong mọi tình huống.
Trong tháng Chín, trên địa bàn cả nước đã phát hiện thêm 1034 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến thời điểm 17/9/2014 lên 220,8 nghìn người, trong đó 70,2 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 72,7 nghìn người tử vong do AIDS.
Trong tháng, cả nước đã xảy ra 13 vụ ngộ độc thực phẩm làm 134 trường hợp bị ngộ độc. Tính chung 9 tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 100 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 3,1 nghìn trường hợp bị ngộ độc, trong đó 19 người tử vong.
Hoạt động văn hóa, thể thao
Trong 9 tháng năm 2014, ngành Văn hóa tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa nhằm tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ: Biểu diễn văn nghệ phục vụ cán bộ, chiến sỹ ngoài quần đảo Trường Sa, đồn biên phòng thuộc các tỉnh biên giới phía Bắc, Đông Bắc của Tổ quốc. Nhiều sự kiện văn hóa mang tính quốc tế được tổ chức trọng thể: Khai mạc Năm giao lưu chéo Việt Nam tại Pháp; Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Liên bang Nga; các hoạt động trong khuôn khổ Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc -Vesak 2014 tại Tràng An, Ninh Bình... Đáng chú ý là một số di sản văn hóa Việt Nam được vinh danh trên thế giới: Quần thể danh thắng Tràng An được công nhận là Di sản văn hóa - thiên nhiên thế giới; Châu bản Triều Nguyễn được UNESCO vinh danh là Di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Nhiệm vụ trọng tâm của thể thao thành tích cao 9 tháng năm 2014 là tập trung chuẩn bị lực lượng vận động viên tham dự Đại hội thể thao Châu Á lần thứ 17 tại Hàn Quốc, Đại hội thể thao Olympic trẻ lần thứ 2 tại Trung Quốc, Đại hội thể thao Bãi biển Châu Á lần thứ 4 tại Thái Lan, vòng loại Olympic 2016 và các giải thể thao cấp khu vực, châu lục và thế giới trong năm 2014. Tính đến thời điểm 15/9/2014, các đội tuyển Việt Nam đã tham dự 122 giải thể thao quốc tế và Đại hội Olympic trẻ tại Trung Quốc. Tổng số huy chương đoàn Việt Nam giành được trong 9 tháng qua là 201 huy chương vàng; 128 huy chương bạc và 129 huy chương đồng. Một số vận động viên Việt Nam thi đấu thành công, phá kỷ lục thế giới và khu vực, lọt vào danh sách vận động viên đứng đầu thế giới về các nội dung: Bắn súng hơi 10m, thể dục dụng cụ, bơi lội.
Tai nạn giao thông
Trong tháng Chín (từ 16/8 đến 15/9), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1989 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 822 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1167 vụ va chạm giao thông, làm 696 người chết; 549 người bị thương và 1524 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 17,2% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 7,2%; số vụ va chạm giao thông giảm 23,1%); số người chết giảm 2%; số người bị thương giảm 2% và số người bị thương nhẹ giảm 19,7%.
Tính chung 9 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 18697 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 7777 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 10920 vụ va chạm giao thông, làm 6758 người chết; 4417 người bị thương và 13418 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 14,5% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 4,6%; số vụ va chạm giao thông giảm 20,3%); số người chết giảm 4%; số người bị thương giảm 10,4% và số người bị thương nhẹ giảm 20,4%. Bình quân 01 ngày trong 9 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 69 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 29 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 40 vụ va chạm giao thông, làm 25 người chết, 16 người bị thương và 49 người bị thương nhẹ.
Thiệt hại do thiên tai
Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, trong 9 tháng năm nay, thiên tai đã làm 138 người chết và mất tích; 160 người bị thương; gần 1,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 41,7 nghìn ngôi nhà bị ngập nước; 111,3 nghìn ha lúa và 37,3 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Các địa phương bị thiệt hại nhiều do thiên tai: Lạng Sơn 16 người chết và mất tích; 8,7 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, ngập nước; trên 9 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng; Hà Giang 12 người chết và mất tích; hơn 5 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, ngập nước và 5,2 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong 9 tháng ước tính khoảng 2,2 nghìn tỷ đồng, trong đó Lạng Sơn thiệt hại 462 tỷ đồng; Hà Giang 271 tỷ đồng. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai từ đầu năm đến nay là hơn 3,5 tỷ đồng.
Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện 674 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường, trong đó 435 vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt là 8,6 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng, trên địa bàn cả nước đã phát hiện 5,5 nghìn vụ vi phạm về bảo vệ môi trường, trong đó 2,9 nghìn vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt hơn 366,7 tỷ đồng.
Trong 9 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1,9 nghìn vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 87 người chết và 125 người bị thương, thiệt hại do các vụ cháy, nổ gây ra ước tính hơn 542 tỷ đồng. Riêng tháng Chín xảy ra 158 vụ cháy, nổ, làm 10 người chết, 7 người bị thương với giá trị thiệt hại ước tính 33,2 tỷ đồng.
Khái quát lại, tình hình kinh tế - xã hội nước ta 9 tháng năm 2014 về cơ bản có nhiều cải thiện theo hướng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng các khu vực nhìn chung ổn định, sản xuất công nghiệp có những yếu tố tích cực, trong đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo đạt mức tăng khá. Cầu tiêu dùng có chuyển biến tốt. Xuất siêu ở mức cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục đối mặt với những thách thức và khó khăn. Sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mặc dù có những yếu tố thuận lợi hơn nhưng việc giải quyết hàng hóa tồn kho vẫn là vấn đề nan giải. Tổng cầu trong nước tăng chậm. Vì vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm ở mức 5,8%, các Bộ, ngành, các địa phương cần tiếp tục thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp chính sách vĩ mô nhằm tháo gỡ những nút thắt quan trọng, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn trong những tháng cuối năm, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 13/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về điều hành thực hiện nhiệm vụ chính sách tài chính - ngân sách Nhà nước những tháng cuối năm 2014. Theo đó, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ và đặc biệt là lạm phát, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Điều hành tỷ giá linh hoạt góp phần kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Triển khai các giải pháp tín dụng để đáp ứng vốn cho nền kinh tế.
Hai là, triển khai thực hiện nghiêm các nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tiếp tục đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, từng bước giải quyết dứt điểm những nút thắt nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế như: Xử lý nợ xấu, tăng tổng cầu, hỗ trợ thị trường, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nợ đọng ngân sách... Thực hiện nghiêm và đồng bộ Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 25/8/2014 của Chính phủ về một số giải pháp về thuế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp.
Ba là, đẩy mạnh cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng. Cơ chế phân cấp đầu tư phải bảo đảm tính đồng bộ giữa các địa phương, giữa các vùng, tránh sự lãng phí và tạo động lực để các địa phương phát huy thế mạnh kinh tế riêng có của mình. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng, đảm bảo quy hoạch phải mang tính dài hạn, khả thi về nguồn lực đầu tư và lộ trình thực hiện, đồng thời tăng cường giám sát, kiểm tra lĩnh vực đầu tư xây dựng ngay từ khâu đầu của quá trình đầu tư. Thực hiện hiệu quả các giải pháp huy động mọi nguồn lực, qua đó góp phần tăng tổng cầu, hỗ trợ tăng trưởng và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Bốn là, tập trung hoàn thiện quy hoạch phát công nghiệp hỗ trợ theo ngành, sản phẩm cụ thể. Xây dựng, đổi mới và ban hành những chính sách đủ mạnh và có tính ưu đãi cao nhằm khuyến khích các nhà đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Ngoài ra cần tăng cường sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong quá trình phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Năm là, cải tiến hệ thống chính sách an sinh xã hội theo hướng tập trung, đầy đủ, đồng bộ. Tạo việc làm và giảm nghèo phải bảo đảm tính bền vững. Nghiên cứu đổi mới công tác giáo dục và đào tạo cho các bậc học, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Thực hiện lồng ghép các chương trình, kế hoạch giảm nghèo, giải quyết việc làm với các chương trình, dự án khác nhằm tranh thủ sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước để đẩy nhanh tiến độ giải quyết việc làm tại các địa phương. Giảm dần sự chênh lệch về điều kiện sống cũng như thu nhập giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
[1] Mức tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số năm như sau: Năm 2012 tăng 5,10%; năm 2013 tăng 5,14%.
[2] Mức tăng 9 tháng so với cùng kỳ năm trước của ngành CN chế biến, chế tạo một số năm như sau: Năm 2012 tăng 5,50%; năm 2013 tăng 6,80%.
[3] Mức xuất/nhập siêu tháng Tám một số năm như sau: Năm 2010 nhập siêu 485 triệu USD; năm 2011 nhập siêu 676 triệu USD; năm 2012 nhập siêu 77 triệu USD và năm 2013 xuất siêu 508 triệu USD.
[4] CPI bình quân 9 tháng các năm như sau: Năm 2005 tăng 8,22%; năm 2006 tăng 7,69%; năm 2007 tăng 7,53%; năm 2008 tăng 22,87%; năm 2009 tăng 7,77%; năm 2010 tăng 8,65%; năm 2011 tăng 18,23%; năm 2012 tăng 10,06%; năm 2013 tăng 6,83%.