TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 11 VÀ 11 THÁNG NĂM 2002
1. Về các hoạt động sản xuất kinh doanh
Sản xuất công nghiệp tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11 ước tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 15,3% so với tháng 11 năm 2000; tính chung 11 tháng tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2001 (cùng kỳ năm 2001 tăng 14,3%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 11,8% (trung ương tăng 12,7%, địa phương tăng 9,9%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 19,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,5%, cao hơn mức tăng cùng kỳ năm 2001 (12,6%).
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tiếp tục có mức sản xuất và tiêu thụ khá trong 11 tháng là điện tăng 15%, than sạch 18,9%, thép cán 25,3%, xi măng 25,8%, gạch lát 34,4%, xút (NaOH) 32,1%, ắc quy 23,7%, thuỷ sản chế biến 24,8%, quần áo may sẵn 35,5%, động cơ điện 20,7%, máy biến thế 16,1%, quạt điện dân dụng 21,1%, tivi các loại 35,5%, ôtô các loại 34,6%, xe máy các loại 44,5%, xe đạp hoàn chỉnh 27%...
Sản xuất công nghiệp trên một số địa bàn vẫn tiếp tục duy trì phát triển tốt, đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ về giá trị sản xuất trong 11 tháng như: Hà Nội tăng 24,5%, Hải Phòng 25,6%, Hải Dương 37,1%, Hà Tây 22%, Vĩnh Phúc 20,6%, Quảng Ninh 17,5%, Thanh Hoá tăng 17,1%, Đà Nẵng tăng 19,3%, Khánh Hoà 25,8%, Bình Dương 35,4%, Đồng Nai tăng 17%. Riêng thành phố Hồ Chí Minh, do thực hiện tốt các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong các tháng cuối năm, nên giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11 tăng 3,1% so với tháng 10 và tăng 17,1% so với tháng 11 năm ngoái; tính chung 11 tháng tăng 13,8% so với cùng kỳ, đạt xấp xỉ mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp.
Tuy chất lượng nhiều sản phẩm công nghiệp đã được nâng lên một bước, thị trường trong nước đã từng bước chấp nhận, nhưng nhìn chung, so với yêu cầu đặt ra trong tiến trình hội nhập vẫn còn có khoảng cách. Chi phí sản xuất còn cao, năng suất thấp, giá cả một số sản phẩm chưa có nhiều cải thiện, nên tiêu thụ còn có khó khăn, nhất là sản phẩm công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục duy trì khả năng phát triển.
Tính đến giữa tháng 11, cả nước thu hoạch trên 1,4 triệu ha lúa mùa, tăng 1,8% so với cùng kỳ, trong đó các tỉnh miền Bắc trên 1,2 triệu ha, tăng 1,4%; các tỉnh miền Nam gần 300 nghìn ha, tăng 3,5%. Hiện nay, các tỉnh miền Nam đang tiếp tục thu hoạch lúa mùa, đồng thời đang triển khai tích cực vụ Đông Xuân 2002 - 2003 (đến nay, đã gieo cấy được 350 nghìn ha, nhanh hơn cùng kỳ năm trước 30%).
Gieo trồng cây vụ đông tăng khá, tính đến ngày 15 tháng 11, cả nước đã gieo trồng được gần 426 nghìn ha, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Riêng các tỉnh miền Bắc đã trồng được 151 nghìn ha ngô, tăng 18,5% so với vụ đông năm trước; khoai tây tăng trên 61% do có hiệu quả nên được các địa phương quan tâm hơn trước. Riêng diện tích cây khoai lang, cây đậu tương giảm do nhu cầu thấp hơn các cây khác.
Sản lượng thuỷ sản tháng 11 ước đạt 185 nghìn tấn; tính chung 11 tháng đạt gần 2,2 triệu tấn, bằng 96,1% kế hoạch năm và tăng 5% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng khai thác hải sản đạt trên 1,3 triệu tấn, đạt 97,7% kế hoạch và tăng 1,1%; sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 892 nghìn tấn, bằng 94% kế hoạch và tăng 11,4%. Nhìn chung, khai thác hải sản ổn định; nuôi trồng thuỷ sản đang phát triển mạnh và đạt kết quả tốt.
Trong tháng 11, một số tỉnh miền Trung bị úng lụt và sạt lở, đặc biệt triều cường tại Bình Định đã làm trên 4.000 căn nhà bị ngập, 550 ha lúa bị mất trắng, một số cầu bị hư hỏng, nhiều đoạn đê bị sạt lở. Ở một số tỉnh miền núi và trung du phía Bắc, mực nước trên các dòng sông lớn, chảy xiết đã làm sạt lở một số vùng.
Tại đồng bằng sông Cửu Long, nước đang rút. Các địa phương đã tập trung mọi lực lượng để khắc phục lũ lụt, hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, bảo đảm các hoạt động sản xuất theo mùa vụ.
Các lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển.
Nhìn chung, thị trường trong nước tháng 11 tiếp tục ổn định, lưu thông hàng hoá tăng hầu hết ở các địa phương. Sức mua của dân cư nhìn chung có nhiều cải thiện. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 11 tăng 1,2% so với tháng trước và tính chung 11 tháng tăng 12% so với cùng kỳ.
Hoạt động vận tải 11 tháng đã đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống dân cư. Khối lượng hàng hoá vận chuyển 11 tháng tăng 5,4%, khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 6,1%. Vận chuyển hành khách tăng 3,4%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 6,6%. Riêng ngành đường sắt do cải tiến phương thức và chất lượng phục vụ nên khối lượng hành khách vận chuyển đã tăng đáng kể. Tổng công ty Hàng không đã nghiên cứu mở thêm đường bay mới trong và ngoài nước, đồng thời tăng cường chuyến bay nên kết quả vận tải tăng khá, tăng 16,5% về khối lượng hành khách vận chuyển và tăng 15,8% về lượt hành khách luân chuyển.
Tháng 11, ngành du lịch phát triển khá. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 11 tháng đạt khoảng 2,4 triệu lượt người, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2001; số khách nội địa tăng 4,2%; công suất sử dụng phòng của hầu hết các khách sạn đạt khoảng 80%.
Hoạt động xuất, nhập khẩu tiếp tục có những chuyển biến tích cực, kim ngạch xuất khẩu tháng 10 và tháng 11 đạt mức trên 1,5 tỷ USD, tạo đà thực hiện mục tiêu xuất khẩu tăng 10% năm 2002.
Kim ngạch xuất khẩu tháng 11 ước đạt 1.520 triệu USD, tăng 0,3% so với tháng trước. Các mặt hàng xuất khẩu tăng so với tháng 10 năm 2002 là cà phê 27,1%, rau quả 9,1%, giày dép 15,4%, hàng thủ công mỹ nghệ 11,1%, hàng điện tử 17,6%.
Tính chung kim ngạch xuất khẩu 11 tháng ước đạt 14.963 triệu USD, bằng 90,5% kế hoạch năm và tăng 8,3% so với cùng kỳ; trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4.029 triệu USD, tăng 19,5%.
Các mặt hàng có khối lượng xuất khẩu 11 tháng tăng cao so với cùng kỳ là lạc nhân 32%, cao su 45%, chè 23%, than đá 39%. Các mặt hàng tăng về kim ngạch là thuỷ sản 14%, dệt may 34%, giày dép 18%, hàng thủ công mỹ nghệ 42%, hạt điều 38%, hạt tiêu 23%. Tuy nhiên, còn có một số mặt hàng giảm về khối lượng xuất khẩu là gạo giảm 11%, cà phê 17%, dầu thô gần 2% và một số mặt hàng giảm về kim ngạch là rau quả giảm 40,3%, máy vi tính và linh kiện giảm 30%.
Nguyên nhân xuất khẩu tăng khá là do Chính phủ tập trung chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai mạnh mẽ, có hiệu quả những biện pháp nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu trong các tháng cuối năm, nhờ đó đạt được mức kim ngạch trên 1,5 tỷ USD đề ra liên tiếp trong 2 tháng qua.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 11 ước đạt 1.750 triệu USD, giảm 5,7% so với tháng trước, trong đó khu vực đầu tư nước ngoài đạt 600 triệu USD, giảm 2%. Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với tháng trước là linh kiện xe máy tăng 104%, urê 9,3%, nguyên, phụ liệu dệt may, da 5,6%, linh kiện điện tử 5%.
Kim ngạch nhập khẩu 11 tháng ước đạt 17.267 triệu USD, tăng 18,6% so với cùng kỳ; trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5.867 triệu USD, tăng 28,6%.
Nhập khẩu trong tháng 11 nói riêng và trong những tháng cuối năm có tăng hơn so với những tháng trước đó, chủ yếu tập trung đáp ứng đủ nhu cầu về nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc, phụ tùng phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu và một phần gối đầu cho đầu năm 2003.
2. Khối lượng thực hiện vốn đầu tư đạt khá
Nhìn chung, công tác triển khai thực hiện vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước đạt khá. Ước thực hiện 11 tháng đạt 20.457 tỷ đồng, bằng 93,1% kế hoạch trong đó trung ương đạt 97,3%, địa phương đạt 86,9%.
Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Giao thông Vận tải đều đạt trên 90% kế hoạch. Bộ Công nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá Thông tin đạt trên 85% kế hoạch.
Một số địa phương thực hiện 11 tháng đã vượt kế hoạch cả năm là: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bình Thuận, Tây Ninh, Đồng Nai, Phú Yên, Quảng Nam, Bình Định, Ninh Bình, Bắc Ninh...
Tuy nhiên, lĩnh vực đầu tư xây dựng trong 11 tháng năm 2002 vẫn còn vấn đề tồn tại bức xúc, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý, khắc phục. Nhiều dự án có hồ sơ thủ tục chưa đầy đủ, tính khả thi không cao làm cho khâu thẩm định, xét duyệt bị kéo dài. Thủ tục đấu thầu còn nhiều bất cập, công tác quản lý công trình xây dựng chưa chặt chẽ, còn để lãng phí, tiêu cực xảy ra, làm thất thoát vốn của Nhà nước; chất lượng công trình không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định. Việc phối hợp giữa các địa phương với các cơ quan chức năng trong việc giải phóng mặt bằng, đền bù... còn chưa đồng bộ, gây ảnh hưởng ít nhiều đến tiến độ thực hiện công trình...
Cấp phát vốn đầu tư 11 tháng đạt khoảng 17.500 tỷ đồng, bằng gần 80% kế hoạch (kể cả nguồn 216).
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đạt thấp, nhất là vốn ODA cho vay lại, ước 11 tháng đạt 13.429 tỷ đồng, bằng 62% kế hoạch năm. Trong đó, vốn nước ngoài cho vay lại đạt 3.816 tỷ đồng, bằng 42% kế hoạch; ký hợp đồng và cho vay vốn trong nước đạt 9.613 tỷ đồng, bằng 77% kế hoạch.
Về ODA: Từ đầu năm tới giữa tháng 11, nguồn ODA được hợp thức hoá bằng việc ký kết các hiệp định với các nhà tài trợ đạt trị giá trên 1.513,5 triệu USD, trong đó, trị giá vốn vay là 1.319 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại 194,5 triệu USD. Mức giải ngân của 11 tháng năm 2002 đạt khoảng 1.131 triệu USD (vốn vay 888 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại 243 triệu USD), bằng 63% kế hoạch năm, là mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Trong tổng mức giải ngân ODA của 11 tháng, riêng vốn vay ODA của 3 nhà tài trợ lớn (JBIC, WB, ADB) đạt khoảng 740 triệu USD, chiếm 83,3% tổng giá trị giải ngân vốn vay ODA của 11 tháng.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Trong tháng 11, có 27 dự án đầu tư được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký đạt gần 30,5 triệu USD. Tính chung 11 tháng, có 607 dự án được cấp giấy phép với vốn đăng ký trên 1.170,9 triệu USD, tăng 30,3% về số dự án và bằng 53,6% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2001. Trong tháng 11, có 13 lượt dự án được tăng thêm vốn với số vốn tăng thêm là 40,3 triệu USD; tính chung 11 tháng có 278 lượt dự án được tăng thêm vốn với số vốn tăng thêm gần 800 triệu USD, tăng 31% về số lượt dự án và 34% về số vốn so với cùng kỳ năm 2001.
Vốn đầu tư nước ngoài đưa vào thực hiện trong tháng 11 là 200 triệu USD, ước 11 tháng là 2.150 triệu USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2001.
Số dự án được cấp giấy phép trong 11 tháng đã vượt số dự án của cả năm 2001, tuy nhiên vốn đầu tư lại giảm trên 40%. Các dự án được cấp giấy phép hầu hết có quy mô vừa và nhỏ, chưa có những dự án có quy mô lớn như những năm trước. Cơ cấu đầu tư không có sự thay đổi lớn, vốn đầu tư vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp, các ngành sản xuất và xuất khẩu; tuy nhiên, đã có sự gia tăng mới của các ngành công nghiệp thực phẩm, dịch vụ.
3. Thu ngân sách nhà nước tiếp tục tăng khá, vượt dự toán năm, hoạt động tiền tệ có tiến bộ, giá cả thị trường tiếp tục được cải thiện
Thu ngân sách nhà nước đến 15 tháng 11 năm 2002 gần đạt 93% dự toán năm; trong đó, thu nội địa (không kể dầu thô) đạt 90,2% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp Nhà nước đạt 87%, thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 93,1%; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh bằng 87,7%; thu từ dầu thô 98,3%; thu từ xuất, nhập khẩu 94,5%... Dự kiến thu ngân sách 12 tháng có khả năng vượt số thu đã báo cáo Quốc hội.
Chi Ngân sách Nhà nước đến 15 tháng 11 bằng 87% dự toán năm, trong đó chi cho đầu tư phát triển bằng 89,8%, chi trả nợ và viện trợ bằng 86,2%, chi thường xuyên bằng 89,3%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 năm 2002 so với tháng trước tăng 0,3%; tính chung 11 tháng (so với tháng 12 năm 2001) tăng 3,7%, trong đó nhóm lương thực, thực phẩm tăng nhiều nhất 5,4% (riêng thực phẩm tăng 8,1%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,9%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,6%, phương tiện đi lại, bưu điện tăng 1,7%, các nhóm giáo dục, dược phẩm y tế, thiết bị và đồ dùng gia đình, may mặc, mũ nón, giày dép tăng từ 0,3% đến 1,1%; riêng nhóm văn hoá, thể thao, giải trí giảm 0,9%. Chỉ số giá vàng tăng 18%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2%.
Nếu tính cho 12 tháng (so với tháng 11 năm 2001), chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,6%. Chỉ số giá vàng tăng 18,3%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,2%.
Hoạt động tiền tệ, tổng phương tiện thanh toán ước đến 30/11/2002 tăng 18% so với 31/12/2001, xấp xỉ bằng tốc độ tăng cùng kỳ năm ngoái (18,5%). Trong đó, riêng tháng 11 so với tháng 10 tăng mạnh khoảng 2,3% (tốc độ tăng trung bình của 10 tháng đầu năm là 1,4%/tháng). Nguồn vốn huy động ước đến 30/11/2002 tăng 20,2% so với 31/12/2001, bằng tốc độ tăng cùng kỳ năm ngoái; trong đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 27,1%, bằng ngoại tệ tăng 9,8%. Riêng trong tháng 11/2002, nguồn vốn huy động tăng 1,8%, cao hơn trung bình của 10 tháng đầu năm (1,6%/tháng), trong đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 2,4%, bằng ngoại tệ tăng 0,8%. Do chênh lệch giữa lãi suất huy động VNĐ và ngoại tệ tiếp tục ở mức cao nên tốc độ tăng trưởng tiền gửi bằng VNĐ tiếp tục có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tiền gửi bằng ngoại tệ.
Dư nợ cho vay toàn nền kinh tế đến 30/11/2002 ước tăng cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng cùng kỳ năm trước (19,8%); trong đó cho vay bằng VNĐ tăng 24,5%, cho vay bằng ngoại tệ tăng 33,8%. Tuy nhiên, riêng trong tháng 11/2002, dư nợ cho vay toàn nền kinh tế chỉ tăng 1,7%, thấp hơn so với tốc độ tăng trung bình của 10 tháng đầu năm (2%/tháng). Như vậy, tốc độ tăng nguồn vốn huy động trong tháng 11 đã cao hơn tốc độ tăng dư nợ cho vay nhưng tính chung trong 11 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay vẫn cao hơn tốc độ tăng nguồn vốn huy động.
Để hỗ trợ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng giảm chi phí huy động vốn và đẩy mạnh cho vay trong bối cảnh lãi suất đồng đô la đã giảm tới mức kỷ lục trong vòng 40 năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ dưới 12 tháng tính trên tổng số dư tiền gửi ngoại tệ phải dự trữ bắt buộc từ 8% xuống 5%.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế đến cuối tháng 11 ước giảm xuống còn 7,4%. Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam trong tháng 11 được giữ ở mức 0,62%/tháng.
4. Về các hoạt động trong lĩnh vực xã hội
Về giáo dục- đào tạo:
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiến hành đánh giá, tổng kết toàn diện công tác tuyển sinh; đánh giá việc triển khai chương trình sách giáo khoa lớp 1và lớp 6. Tuy chưa có kết quả đánh giá chính thức, nhưng dư luận chung cũng như ý kiến của các vị Đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 cho rằng, công tác tuyển sinh và in sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6 vừa qua còn có thiếu sót, cần phải sửa đổi.
Về giải quyết việc làm và công tác xoá đói giảm nghèo:
Ước 11 tháng đã giải quyết việc làm cho 1,25 triệu người, đạt 89,3% so với kế hoạch năm; trong đó Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm đã tạo thêm công ăn việc làm cho 25 vạn người; xuất khẩu lao động trên 3,6 vạn người, đạt 91% kế hoạch năm.
Trong tháng 11, Ngân hàng Chính sách đang khẩn trương hoàn thiện Dự thảo Điều lệ và Dự thảo quy chế hoạt động để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đồng thời tiếp tục tổ chức hệ thống làm việc theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ để đến 1/3/2003, Ngân hàng chính sách xã hội có thể khai trương được. Sau khi Ngân hàng Chính sách xã hội đi vào hoạt động, cộng với việc các mô hình xoá đói giảm nghèo được xây dựng phù hợp với điều kiện của từng địa phương, công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới sẽ được đẩy mạnh hơn.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động Tháng vì người nghèo, thu được kết quả tốt, số tiền ủng hộ lên tới hàng tỷ đồng.
Về y tế, chăm sóc sức khoẻ:
Các hoạt động phòng chống dịch bệnh tiếp tục được duy trì nên tình hình các dịch bệnh giảm so với cùng kỳ, đã ngăn chặn được một số dịch bệnh xảy ra. So với cùng kỳ năm 2001 số ca mắc sốt xuất huyết 11 tháng giảm 42,5%, viêm não do mô cầu giảm 9%, viêm não vi rút giảm 8,9%, bệnh tiêu chảy giảm 11,4%, dịch hạch giảm 61,5%, thương hàn giảm 30,6%... Riêng về bệnh sốt rét, các địa phương đã thực hiện tốt việc giám sát, kiểm soát được dịch bệnh, nên trong tháng 11 chỉ có trên 15.000 ca mắc, giảm gần 10% so với tháng trước và giảm 38% so với cùng kỳ.
Tuy nhiên, tình hình ngộ độc thức ăn vẫn chưa được ngăn chặn, trong tháng 11 có 6 vụ ngộ độc xảy ra tại các tỉnh An Giang, Bến Tre, thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ngãi với 86 người mắc, 1 người tử vong; tính chung 11 tháng có 4.075 ca mắc, 61 ca tử vong, nguyên nhân chủ yếu do thực phẩm độc và vi sinh vật.
Đáng chú ý là công tác thanh tra y tế trong 11 tháng đã được đẩy mạnh, đã thanh tra trên 13.500 lượt cơ sở hành nghề y dược tư nhân, trong đó đã xử lý trên 2.270 cơ sở vi phạm quy chế hành nghề (không có giấy phép hành nghề, khám bệnh kèm bán thuốc...).
Công tác cứu trợ:
Các hoạt động cứu trợ tiếp tục được đẩy mạnh, nhất là cứu trợ đồng bào các vùng bị thiên tai, lũ lụt. Trong 11 tháng, các địa phương đã làm tốt công tác cứu trợ thiên tai, phong trào quyên góp ủng hộ đồng bào bị lũ lụt phát triển rộng khắp với tinh thần lá lành đùm lá rách, không để đồng bào bị đứt bữa, ổn định đời sống để phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngoài sự hỗ trợ của các địa phương, Nhà nước cũng đã hỗ trợ đột xuất cho đồng bào bị thiên tai trên 222 tỷ đồng và gần 12 nghìn tấn gạo; thực hiện cứu trợ thường xuyên theo quy định cho 957 nghìn đối tượng với mức bình quân 45 nghìn đồng/tháng/người.
Công tác văn hoá thông tin, phát thanh truyền hình:
Nổi bật trong tháng 11 là những ngày văn hoá Việt Nam tại Liên bang Nga, Đức, Lucxămbua, tuần văn hoá ASEAN tại Campuchia... diễn ra rất sôi động. Các hoạt động văn hoá thông tin, phát thanh truyền hình tiếp tục được đẩy mạnh, hướng về vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn, tiếp tục tăng cường công tác phát thanh truyền hình cho đồng bào miền núi các dân tộc phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, vùng biên giới với Campuchia và Lào. Đặc biệt, công tác thông tin, phát thanh, truyền hình đã tập trung phục vụ kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XI và Đại hội thể dục thể thao toàn quốc vừa tổ chức thành công trong tháng 11.
Tuy nhiên, việc vi phạm các di tích lịch sử vẫn diễn ra trên nhiều địa bàn như Hà Nội, Đắc Lắc, Quảng Nam.
Công tác phòng chống các tệ nạn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc.
Công tác phòng chống các tệ nạn xã hội tiếp tục được đẩy mạnh, nhưng vẫn chưa thu được kết quả như mong muốn.
Tình trạng nhiễm HIV, ma tuý, mãi dâm vẫn không giảm, ngày càng diễn biến phức tạp hơn. Trong tháng 11, cả nước đã phát hiện thêm 1.040 trường hợp nhiễm HIV, tăng 25,3% so với cùng kỳ năm trước; số ca mắc AIDS là 158 người, tăng 6,7%; đưa số ca nhiễm HIV cả nước đến cuối tháng 11 là 57.100 người, số bị AIDS là 8.551 người. Trong tháng 11, 3.260 người đã được tổ chức đưa vào các trung tâm cai nghiện.
Tình trạng ách tắc và tai nạn giao thông vẫn nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Theo đánh giá sơ bộ, trong 10 tháng có 10.556 người chết do tai nạn giao thông, tăng 16% so với cùng kỳ, chủ yếu là tai nạn đường bộ.
Tóm lại, mặc dù gặp khó khăn cả trong và ngoài nước, tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng đầu năm 2001 tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, công nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng cao; nông nghiệp phát triển ổn định, thực hiện vốn đầu tư đạt khá; thu ngân sách nhà nước triển vọng vượt dự toán năm; một số lĩnh vực văn hoá - xã hội có chuyển biến tích cực như văn hoá thông tin, phát thanh, truyền hình, công tác cứu trợ, nhất là cứu trợ thiên tai lũ, lụt, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo... Tuy kim ngạch xuất khẩu đã được cải thiện đáng kể trong những tháng gần đây nhưng còn nhiều khó khăn, giải ngân tín dụng nhà nước đạt thấp, một số tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý, mại dâm, ách tắc và tai nạn giao thông vẫn rất bức xúc.
Trong tháng 12, Chính phủ cần tăng cường công tác chỉ đạo điều hành, các Bộ, ngành, địa phương phải tập trung sức phấn đấu để thực hiện được các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu của năm 2002 ở mức cao nhất có thể được.
Một là, tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, Bộ Thương mại chủ trì cùng với các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo sát sao, tập trung hơn nữa vào các mặt hàng còn có khả năng tăng cao cả về khối lượng và kim ngạch như dầu thô, rau quả, thuỷ sản, dệt may... Nếu tháng 12 xuất khẩu được 1,6 tỷ USD, thì cả năm có thể đạt kế hoạch đề ra là 16,5 tỷ USD, tăng gần 10%, bằng mức kế hoạch đề ra.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện khối lượng đầu tư thuộc vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển, tập trung cho các công trình lớn, các công trình hoàn thành trong năm 2002; thanh toán dứt điểm khối lượng hoàn thành trong năm 2002.
Ba là, chuẩn bị các nguồn hàng phục vụ Tết Nguyên Đán sắp tới, trước hết cho các tỉnh đồng bào bị thiên tai lũ lụt và các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục nâng cao chất lượng vận tải, nhất là vận tải hành khách, nhanh chóng triển khai các giải pháp nhằm giảm ách tắc và tai nạn giao thông trong dịp Tết Nguyên đán.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư