Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2003
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 4 VÀ 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2003
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Về các hoạt động kinh tế
1.1. Sản xuất công nghiệp tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, nhất là khu vực ngoài quốc doanh.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 4/2003 ước tăng 5% so với tháng 3 và tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2002.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2003, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5%, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2002 tăng 13,9%), trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,2%; khu vực ngoài quốc doanh có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất, khoảng 18,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,6% (cùng kỳ năm 2002 tăng 12,4%).
Nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong 4 tháng đầu năm 2003 tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: điện sản xuất tăng 16,1%, thép cán tăng 24,8%, xi măng 16,6%, gạch lát 18,7%, sứ vệ sinh 35,5%, ắc quy 29,4%, giấy bìa các loại 18,2%, thuốc lá bao 19,5%, thủy sản chế biến 20,5%, bột ngọt 26,7%, đường mật các loại 42,7%, vải lụa thành phẩm 15,5%, quần áo dệt kim 39,6%, quần áo may sẵn 65,9%, động cơ điện 48,1%, động cơ điezen 160%, máy công cụ 27,9%, ti vi các loại 27,8%, quạt điện dân dụng 45,9%, ôtô các loại 48%, xe máy các loại 21,3%. Dầu thô khai thác đã có mức tăng trưởng khá (tăng 9,5%). Riêng sản phẩm than sạch tăng trưởng thấp hơn, chỉ đạt 3,8% (do 4 tháng năm ngoái đã có mức tăng trưởng rất cao).
Sản xuất công nghiệp tại nhiều địa phương có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước (nhất là các địa phương có qui mô và tỷ trọng sản xuất công nghiệp lớn) như: Hà Nội tăng 26%, thành phố Hồ Chí Minh tăng 15,6%, Bình Dương tăng gần 35%, Đồng Nai tăng gần 17%, Hà Tây tăng trên 24%, Phú Thọ tăng 22%, Vĩnh Phúc tăng 31%, Thanh Hóa tăng 19%, Đà Nẵng tăng gần 19%, Khánh Hoà tăng 21%, Cần Thơ tăng 20%...
Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp tại một số địa phương có tiềm năng công nghiệp khác còn có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng trưởng chung của cả nước như Quảng Ninh tăng 14,2% (do sản xuất than tăng chậm), Hải Phòng tăng 14,3%, Hải Dương tăng 15,3%, Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 9,8%.
1.2. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển nhưng đang gặp nhiều khó khăn do hạn hán.
Tính đến ngày 15/4, các tỉnh phía Bắc đã gieo trồng gần 1,2 triệu ha lúa Đông Xuân, xấp xỉ cùng kỳ năm trước; các tỉnh phía Bắc đã gieo trồng 350 nghìn ha ngô, tăng 15%, 137 nghìn ha khoai lang, giảm trên 16%.
Đến ngày 15/4, các tỉnh phía Nam đã thu hoạch gần 1,7 triệu ha lúa Đông Xuân, bằng 90% diện tích gieo cấy, trong đó các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được gần 1,5 triệu ha, bằng 98% diện tích gieo cấy. Sản lượng ước đạt 8,4 triệu tấn, giảm 22 vạn tấn so với vụ Đông Xuân năm 2002. Diện tích gieo trồng các loại cây trồng như rau màu, cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày tăng khá tốt; tính đến ngày 15/4 đã gieo trồng được 719 nghìn ha cây lương thực, tăng 10,7% so với cùng kỳ; trong đó ngô tăng 16,8%, sắn tăng 10%, rau đậu các loại tăng 3,3%, khoai lang giảm 11,5% so với cùng kỳ. Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày đạt 295 nghìn ha, giảm 6% so với cùng kỳ; trong đó diện tích lạc, đậu tương đều tăng; riêng thuốc lá giảm 7%, mía giảm gần 40% so với cùng kỳ.
Ngành thủy sản vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Sản lượng thủy sản 4 tháng ước đạt trên 764 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ; trong đó, khai thác hải sản ước đạt trên 469 nghìn tấn, tăng 1,5%; nuôi trồng thủy sản và khai thác nội địa đạt 295 nghìn tấn, tăng 15,5%. Nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển mạnh, nhất là nuôi trồng tôm ở các tỉnh miền Nam.
Tuy nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp đang đứng trước khó khăn do thiên tai hạn hán, đặc biệt là tình trạng thiếu nước và hạn hán nặng nề đang diễn ra tại các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống nhân dân. ở Tây Nguyên, diện tích lúa Đông Xuân bị hạn khoảng 7.150 ha, trong đó 1.300 ha (của Đắc Lắc) có khả năng mất trắng; 2.160 ha rau màu bị thiếu nước, 42.000 ha cà phê bị hạn trong đó riêng Đắc Lắc 40.437 ha có khả năng mất trắng 2.400 ha.
Tại thời điểm nắng nóng, tổng số người thiếu nước sinh hoạt ở Tây Nguyên lên tới trên 125 nghìn người, trong đó riêng tỉnh Đắc Lắc chiếm gần một nửa. Tình hình số người dân đứt bữa, thiếu đói do hạn hán có khả năng gia tăng...
Do hạn hán, thời tiết khô, nóng, nạn cháy rừng đã xảy ra tại nhiều nơi; sơ bộ ước tính từ đầu năm đến ngày 20/4 đã xảy ra 175 vụ cháy rừng, với tổng diện tích bị cháy hơn 1.075 ha.
Việc nuôi trồng thủy sản hiện cũng đang gặp khó khăn do nắng nóng gay gắt kéo dài, độ mặn tăng, tôm nuôi chết hàng loạt; riêng ở Sóc Trăng đã có 3.200 ha tôm bị chết.
1.3. Các ngành dịch vụ đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của bệnh SARS và cuộc chiến I-rắc, nhất là hoạt động du lịch, vận chuyển hành khách hàng không.
Mặc dù Chính phủ và các ngành, các cấp, các địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển, nhưng từ cuối tháng 3 đến nay, các hoạt động chủ yếu của ngành dịch vụ đều bị chững lại do ảnh hưởng của bệnh dịch SARS và cuộc chiến tại I-rắc.
Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 4 ước đạt 25 nghìn tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng 3. Tính chung 4 tháng đầu năm đạt 101 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2002 (cùng kỳ tăng gần 12%); trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 8,1%, kinh tế tư nhân và cá thể tăng 10,8%.
Các hoạt động vận tải nhìn chung đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đi lại của dân cư. Ước vận tải hàng hóa 4 tháng đầu năm 2003 tăng 4,3% về tấn vận chuyển và tăng 0,4% về tấn luân chuyển so với cùng kỳ. Vận tải hành khách tăng 4,6% so với cùng kỳ về vận chuyển và tăng 9,1% về luân chuyển.
Tuy nhiên, hoạt động vận tải hàng hóa và hành khách đều gặp khó khăn do ảnh hưởng của cuộc chiến I-rắc và bệnh SARS:
Hầu hết các hoạt động du lịch dự kiến tổ chức tại một số địa phương (Quảng Ninh, Hải Phòng...) hoặc bị huỷ bỏ hoặc được tổ chức ở quy mô hạn chế. Tuy nhiên, hoạt động du lịch ở các tỉnh phía Nam ít bị ảnh hưởng của bệnh SARS hơn so với các tỉnh phía Bắc, vẫn có khách du lịch bằng đường biển đến các trung tâm du lịch lớn tại các tỉnh miền Trung, Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh.
Ước số lượng khách du lịch đến Việt Nam trong tháng 4 khoảng 130 nghìn lượt người, giảm trên 92 nghìn lượt người (41%) so với cùng kỳ năm 2002 và giảm 86 nghìn lượt người so với tháng 3 năm 2003. Tính chung 4 tháng đầu năm, số lượng khách du lịch quốc tế đạt trên 842 nghìn lượt người, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2002. Hệ số sử dụng phòng khách sạn giảm nhiều so với các tháng trước đây, trong đó giảm nhiều nhất là ở các khách sạn lớn tại Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng (hệ số sử dụng phòng giảm từ 80-90% trong 2 tháng đầu năm nay xuống còn khoảng 20-30% trong tháng 4). Doanh thu từ du lịch đạt 7.400 tỷ đồng, giảm 10,5% so với cùng kỳ.
1.4. Hoạt động xuất khẩu, mặc dù bị ảnh hưởng của chiến tranh I-rắc, vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đạt 6.223 triệu USD, tăng trưởng 35,9% so với cùng kỳ; trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 1.877 triệu USD, tăng 49,6%.
Các mặt hàng xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ là: dệt may tăng 72%, giày dép tăng 27%, dây điện và cáp điện tăng 52%, sản phẩm gỗ tăng 52%, thủy sản tăng 16%, máy vi tính và linh kiện tăng 35%, hạt điều tăng 46%, gạo tăng 59%.
Mặt hàng dệt may có tốc độ tăng trưởng rất cao do phát triển được thị trường Hoa Kỳ. Lợi dụng thời cơ chưa bị áp đặt hạn ngạch, các doanh nghiệp nước ta đã nhanh chóng xâm nhập, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu (mẫu mã, số lượng, chủng loại, chất lượng, thời gian giao hàng...) của thị trường này để ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng lớn.
Các mặt hàng có khối lượng hoặc kim ngạch xuất khẩu tăng chậm hoặc giảm so với cùng kỳ là: than đá tăng 6,7%, chè tăng 7%, lạc nhân giảm 40%, cà phê giảm 28%, hàng rau quả giảm 25%, xe đạp và phụ tùng xe đạp giảm 13,5%....
Kim ngạch nhập khẩu 4 tháng ước đạt 7.246 triệu USD, tăng 36,8% so với cùng kỳ 2002; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.551 triệu USD, tăng 41,6%.
Các mặt hàng nhập khẩu có tốc độ tăng trưởng khá trong 4 tháng đầu năm là: linh kiện và phụ tùng ô tô tăng 66%; linh kiện xe máy 59%; máy vi tính và linh kiện 78%; vải 61%; tân dược 37%; máy móc thiết bị phụ tùng 29%; nguyên liệu dệt may da 25%; hóa chất 27%; phân bón 11%; xăng dầu 5,3%. Tuy nhiên, vẫn có một số mặt hàng có kim ngạch hoặc khối lượng nhập khẩu giảm so với cùng kỳ, điển hình là bông các loại giảm 29%; sợi các loại giảm 6%; ô tô nguyên chiếc giảm 46%; phôi thép giảm 6%...
1.5. Về đầu tư phát triển
Ước thực hiện vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước tập trung 4 tháng đạt 31,1% kế hoạch năm, trong đó các Bộ, ngành Trung ương đạt bằng 32,1% kế hoạch, các địa phương đạt 30,1% kế hoạch.
Hai Bộ đạt kế hoạch thực hiện vốn cao là Bộ Giao thông Vận tải (đạt 37,7%) và Bộ Giáo dục và Đào tạo (đạt 30%). Các Bộ, ngành còn lại đều đạt kế hoạch thấp hơn nhiều so với mức bình quân chung của cả nước (31,1%), trong đó các Bộ Xây dựng, Văn hóa Thông tin, Y tế chỉ đạt 17,9 - 20,9% kế hoạch. Tuy nhiên khối địa phương đạt kế hoạch thực hiện vốn tương đối cao, trong đó có 27 tỉnh, thành phố đạt kế hoạch từ 35% trở lên. Trong tháng 4, các tỉnh có dự án thủy điện lớn như Sơn La, Tuyên Quang đang khẩn trương chuẩn bị các cơ sở vật chất cần thiết, xây dựng các khu tái định cư để di chuyển dân vùng lòng hồ đến nơi ở mới, sớm ổn định và đi vào sản xuất theo đúng kế hoạch. Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đang tích cực tập trung hoàn thành đúng tiến độ các công trình phục vụ Seagames 22.
Việc thu hút vốn ODA có tiến bộ, từ đầu năm tới 16/4/2003, nguồn ODA được hợp thức hóa bằng việc ký kết các Hiệp định với các nhà tài trợ đạt trị giá gần 858 triệu USD, trong đó vốn vay đạt khoảng 797 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại đạt gần 61 triệu USD. Các khoản vay có giá trị lớn đã được ký kết là 6 Hiệp định tín dụng ưu đãi thuộc tài khóa 2002 của Nhật Bản trị giá 79,3 tỷ Yên (tương đương 660 triệu USD). Các khoản viện trợ không hoàn lại có giá trị cao gồm Chương trình hỗ trợ kỹ thuật của Châu Âu (EU) cho Việt Nam (ETV2) trị giá gần 12 triệu USD, Dự án giảm nhẹ thiên tai tại tỉnh Quảng Ngãi trị giá 7,3 triệu USD của Ôxtrâylia.
Trong 4 tháng đầu năm 2003, ước giải ngân ODA đạt khoảng 392 triệu USD, đạt 22% kế hoạch năm; trong đó vốn vay khoảng 336 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 55 triệu USD. Trong tổng mức giải ngân ODA 4 tháng, riêng vốn vay ODA của 3 nhà tài trợ lớn (JBIC, WB, ADB) đạt khoảng 280 triệu USD, chiếm 82% tổng giá trị giải ngân vốn vay ODA.
Vốn đầu tư của khu vực dân cư tiếp tục tăng mạnh, đặc biệt là vốn đăng ký kinh doanh. Ước trong 3 tháng đầu năm 2003 có khoảng 5.378 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký trên 11.528 tỷ đồng (riêng tháng 3 đạt trên 5.700 tỷ đồng), tăng 7,2% về số doanh nghiệp và tăng 61,8% về số vốn so với cùng kỳ năm 2002.
Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng chững lại cả về cấp phép và thực hiện dự án.
4 tháng đầu năm 2003, có 184 dự án được cấp giấy phép đầu tư, với tổng số vốn đăng ký đạt trên 382 triệu USD, bằng 86% về số dự án và bằng gần 98% về vốn đầu tư so với cùng kỳ năm 2002. Vốn đầu tư nước ngoài thu hút trong 4 tháng đầu năm 2003 đã tập trung vào khu vực công nghiệp (công nghiệp nặng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp nhẹ) và xây dựng với 146 dự án (chiếm 79,3% số dự án) và vốn đăng ký gần 295 triệu USD (chiếm 77,2% tổng vốn đầu tư).
Cũng trong 4 tháng đầu năm 2003, đã có 117 lượt dự án được tăng vốn, với số vốn tăng thêm đạt 295,3 triệu USD, tăng 30% về số dự án và giảm 5% về vốn tăng thêm so với cùng kỳ.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đạt 580 triệu USD, bằng 23% kế hoạch năm và bằng mức cùng kỳ năm 2002.
Tuy nhiên, trong đầu tư phát triển, khó khăn nhất vẫn là thực hiện vốn tín dụng; ước thực hiện 4 tháng đầu năm 2003 đạt 16% kế hoạch năm. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu chuẩn bị dự án còn yếu, thiếu các dự án khả thi và thiếu nguồn vốn huy động để cho vay.
1.6. Thu ngân sách Nhà nước tiếp tục tăng khá.
Tổng thu ngân sách lũy kế đến 15 tháng 4 đạt 29% dự toán năm; riêng thu nội địa (không kể dầu thô) đạt 26,8% dự toán năm, trong đó thu từ khu vực ngoài quốc doanh đạt 31,2% dự toán; thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 29,7%; thuế thu nhập đánh vào người có thu nhập cao đạt 27,8%.
Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 29,6% dự toán năm.
Tuy thu ngân sách nhà nước đạt khá, song chủ yếu vẫn phụ thuộc rất lớn vào thu dầu thô bằng 35,3% dự toán năm. Giá dầu thô trong tháng 3 và 4 tăng cao; thu từ nội bộ nền kinh tế chỉ xấp xỉ bằng cùng kỳ năm trước và thấp hơn tiến độ thu chung (26,8% so với 29%).
Chi Ngân sách Nhà nước đến 15 tháng 4 đạt 24,5% dự toán năm; trong đó chi đầu tư phát triển đạt 22,5% dự toán năm. Riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 22,3% dự toán năm. Chi thường xuyên đạt 27,9% dự toán năm.
Lãi suất cơ bản trong tháng 4 được điều chỉnh tăng từ 0,62%/tháng lên 0,625%/tháng, bằng 7,5%/năm. Việc điều chỉnh tăng nhẹ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước được coi là phù hợp vì chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 4% trong năm 2002 (so với 0,8% của năm 2001) và 2,5% trong quý I/2003 (bằng cùng kỳ năm ngoái) và lãi suất huy động đã tăng lên trong nửa năm qua. Do lãi suất cơ bản tăng nên lãi suất huy động tiếp tục tăng nhẹ, đẩy lãi suất cho vay tăng lên, hiện nay trung bình khoảng 8,5%/năm.
Giá cả một số mặt hàng tiêu dùng như xăng dầu, thép, xi măng, phân bón, giá cước vận chuyển, giá thuốc chữa bệnh đã giảm xuống sau một số biến động trong tháng 3: giá thép giảm khoảng 300 nghìn đồng/tấn; giá phân đạm giảm khoảng 300 đồng/kg, ...Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 4 không tăng so với tháng 3 năm 2003, trong đó giá hàng lương thực, thực phẩm giảm 0,6%; phương tiện đi lại, bưu điện giảm 0,2%; giá nhà ở và vật liệu xây dựng chỉ tăng 0,4%, giá dược phẩm, y tế tăng 2,6%.
Tính chung trong 4 tháng đầu năm, giá tiêu dùng tăng 2,5% so với tháng 12 năm 2002 (cùng kỳ tăng 2,5%), trong đó giá lương thực, thực phẩm tăng 2,4%; giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,4%; giá dược phẩm và y tế tăng 12,2%, phương tiện đi lại và bưu điện tăng 2,2%.
Giá vàng trong tháng 4 giảm 3,1% so với tháng trước nhưng tính chung cả 4 tháng đầu năm tăng 5,9%; giá đô la Mỹ tương đối ổn định, tháng 4 tăng 0,1% so với tháng 3 và 4 tháng đầu năm chỉ tăng 0,5%.
2. Về các hoạt động xã hội
2.1. Giáo dục - đào tạo
Theo báo cáo của 61 tỉnh, thành phố, việc thực hiện chương trình sách giáo khoa mới lớp 1, lớp 6 đã được tiến hành theo đúng kế hoạch, đạt yêu cầu chương trình mới đối với giảng dạy của giáo viên và tiếp thu của học sinh. Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn đang được ngành giáo dục tập trung khắc phục như một số nội dung sách còn nặng so với chương trình, một số kiến thức còn có sơ suất, hình vẽ minh họa sai còn, thiết bị dạy và học theo sách mới thiếu... Việc chuẩn bị thay sách lớp 2, lớp 7 cho năm học 2003 - 2004 được chuẩn bị sớm, đang thẩm định để xuất bản phục vụ khai giảng; kế hoạch bồi dưỡng giáo viên trong hè đang được chuẩn bị tích cực.
Công tác chuẩn bị tuyển sinh đại học, cao đẳng năm học 2003 - 2004 cơ bản hoàn thành. Theo kế hoạch đến 20 tháng 4 năm 2003 thí sinh nộp xong hồ sơ dự thi. Đối với các trường dùng chung đề thi và sử dụng chung kết quả thi để xét tuyển, mỗi thí sinh được đăng ký 3 nguyện vọng (nguyện vọng 1,2 được ghi trong hồ sơ đăng ký dự thi, nguyện vọng 3 do thí sinh chọn nộp hồ sơ xét tuyển trong số các trường tuyển chưa đủ chỉ tiêu). Thời gian thi cũng đã được xác định: khối A thi vào các ngày 4, 5 tháng 7; các khối B,C, D thi vào ngày 9, 10 tháng 7; các trường cao đẳng thi từ 16 đến 19 tháng 7.
2.2. Xuất khẩu lao động đi một số nước Châu Á
Ước xuất khẩu lao động 4 tháng đạt 29,4 nghìn người, nhưng riêng trong tháng 4 chỉ đạt khoảng 2.900 người (chỉ bằng 1/3 số lượng lao động xuất khẩu của các tháng trước đó) vì Malaixia, Đài Loan ngừng tiếp nhận lao động do ảnh hưởng của bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuy nhiên, do công tác phòng chống bệnh SARS của ta làm khá tốt, được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá cao, nên đến nay bước đầu khai thông trở lại thị trường xuất khẩu lao động đi Malaixia. Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang xúc tiến chuẩn bị đưa tiếp lao động đi làm việc tại Malaysia trong thời gian tới.
2.3. Công tác phòng chống dịch bệnh tiếp tục đẩy mạnh, các bệnh dễ gây dịch đều giảm, đặc biệt đã khống chế và kiểm soát được bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS).
Trong 4 tháng đầu năm 2003, các bệnh dễ gây dịch đều giảm so với cùng kỳ năm 2002: số người mắc viêm não virus giảm 31%, viêm não do mô cầu giảm 31,2%, tả giảm 45%, tiêu chảy giảm 5,8%, sốt rét giảm 51%. Riêng số người mắc bệnh sốt xuất huyết tăng 168% so với cùng kỳ, trong đó riêng tháng 4 có 2.184 ca mắc, 3 ca tử vong.
Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm vẫn chưa được khắc phục, trong tháng 4 có 8 vụ ngộ độc thực phẩm với 177 người mắc, 2 người tử vong; tính chung từ đầu năm đến nay có 1.192 người mắc, 13 người tử vong.
Nổi bật trong tháng 4 vẫn là các hoạt động phòng chống bệnh SARS. Theo báo cáo đến 24 tháng 4 bệnh SARS đã xảy ra ở 27 nước và vùng lãnh thổ với trên 4.460 người mắc, 252 người tử vong. Một số nước có số người mắc và số người chết do bệnh SARS cao là Trung Quốc (2.422 người mắc, 110 người chết), Hồng Kông (1.458 người mắc, 105 người chết), Xingapo (189 người bị mắc, 17 người chết), Canađa (324 người mắc, 15 người chết)... Tại nước ta, dịch bắt đầu từ 25 tháng 2, đến nay có 68 người mắc, 5 người chết. Ngành Y tế đã phối hợp với các ngành, địa phương liên quan tiến hành các hoạt động phòng chống bệnh tích cực nên đã khống chế và kiểm soát được bệnh SARS. Tuy nhiên, nguy cơ lây truyền bệnh SARS vẫn còn cao do các nước chưa khống chế và kiểm soát được bệnh này. Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục theo dõi hết sức chặt chẽ diễn biến của SARS để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời.
2.4. Công tác văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao
Các hoạt động văn hóa - thông tin được tăng cường, tập trung phục vụ các ngày lễ lớn của dân tộc: xây dựng chương trình chuẩn bị kỷ niệm các ngày lễ lớn 30/4, 1/5, 19/5; tổ chức lễ hội văn hóa Khơme, lễ hội Làng Sen... Công tác tuyên truyền phục vụ cho Seagames 22 được triển khai.
Trong thời gian qua, ngành văn hóa, thông tin đã thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về lễ hội, bảo đảm hài hoà giữa phần Lễ và phần Hội, lập lại trật tự trong các hoạt động lễ hội ở các địa phương.
Các hoạt động thể dục, thể thao diễn ra sôi động: phong trào tập luyện thể dục thể thao quần chúng để nâng cao sức khoẻ diễn ra rộng khắp trong cả nước; các giải bóng bàn, giải cờ vua toàn quốc đã kết thúc tốt đẹp; giải đua xe đạp chào mừng ngày kỷ niệm 30/4, 1/5 đang diễn ra sôi nổi. Các đội tuyển quốc gia tham gia Seagaemes 22 đang tập huấn tích cực ở trong nước và ngoài nước.
Các công trình phục vụ Seagaemes 22 ở các địa phương có tổ chức thi đấu, nhất là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang được tập trung đẩy mạnh thi công, dự kiến sẽ hoàn thành theo kế hoạch đề ra.
2.5. Về khắc phục việc ùn tắc và tai nạn giao thông
Từ khi thực hiện Nghị quyết 13/2002/NQ-CP của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông và các Nghị định 14 và 15 /2003/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính giao thông, tình hình giao thông đô thị đã có trật tự, nền nếp hơn; ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông của người dân được nâng lên rõ rệt; tai nạn giao thông đã giảm cả về số vụ, số người bị thương và số người chết, đặc biệt tai nạn đường bộ giảm mạnh. Theo báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải, trong quý I năm 2003, số vụ tai nạn giao thông giảm 14,3%, số người bị thương giảm 15,3%, số người chết giảm 8,4%; trong đó tai nạn giao thông đường bộ giảm tương ứng là 15,1%, 15,7% và 9,9%.
Nhìn chung lại, tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm vẫn tiếp tục duy trì được xu hướng phát triển trên một số lĩnh vực như: sản xuất công nghiệp tăng khá cao (15,5%), kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh (tăng 38,8%), thu ngân sách nhà nước có nhiều tiến bộ (đạt 29% dự toán năm), một số mặt xã hội có chuyển biến tích cực, nổi bật nhất là việc khống chế và kiểm soát được bệnh dịch SARS, được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá cao; việc giải quyết ùn tắc và tai nạn giao thông có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số lĩnh vực đang gặp khó khăn, nhất là trong tháng 4/2003. Hạn hán ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ kéo dài đang đe doạ nghiêm trọng đến sản xuất và nước sinh hoạt của nhân dân; dự báo tình trạng này có thể kéo dài trong thời gian tới. Cuộc chiến tại I-rắc tác động mang tính dây chuyền trong phạm vi toàn cầu đã và đang có những tác động trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế nước ta trên một số lĩnh vực như thu hút vốn đầu tư nước ngoài và các hoạt động của một số ngành dịch vụ.
Điểm đáng chú ý hiện nay trong khu vực và cả trên thế giới, là tác động của nạn dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) lan tràn, chưa có những giải pháp hữu hiệu ngăn chặn; có khả năng sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế, và tuỳ theo mức độ khác nhau sẽ ảnh hưởng mạnh đến các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, khách sạn, hàng không, xuất khẩu lao động, ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đối với việc thu hút các dự án mới.
Nhiều dự báo ban đầu cho rằng, kinh tế thế giới tiếp tục trì trệ, suy giảm, dòng giao lưu về xuất khẩu hàng hóa, vốn và công nghệ, trao đổi du lịch và các hoạt động dịch vụ khác sẽ bị thu hẹp....đã tác động không nhỏ đến kinh tế toàn cầu. Nhiều nền kinh tế có quan hệ thương mại với nước ta như Trung Quốc, Hồng Kông, Xingapo... do ảnh hưởng bệnh dịch SARS, có nguy cơ đe doạ đến tăng trưởng kinh tế, sẽ tác động đến nền kinh tế nước ta.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẤP BÁCH
Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, một mặt phải khắc phục những tồn tại của năm 2002, tập trung xử lý những khó khăn, ách tắc mới phát sinh, các bộ, các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải nhanh chóng triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17 tháng 1 năm 2003 của Chính phủ.
Trước mắt tập trung vào các nhóm giải pháp sau:
Một là, hạn chế những tác động do cuộc chiến tranh I-rắc gây ra và tập trung xử lý các vấn đề phát sinh.
Hai là, tập trung các biện pháp phòng chống hạn hán, thiên tai, các biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế lụt bão có thể xẩy ra ở các tỉnh phía Bắc.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp khắc phục hạn hán; hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại đối với sản xuất và đời sống dân cư, nhất là nguồn nước sinh hoạt cho dân cư ở những vùng bị thiên tai (các tỉnh Duyên Hải miền Trung, các tỉnh Tây Nguyên...).
Trước mắt, kiểm soát và phân phối hợp lý nguồn nước hiện có, không tưới nước tràn lan; sửa chữa ngay hệ thống kênh cấp nước để trách thất thóat, lãnh phí nước.
Các địa phương nhanh chóng lập kế hoạch và tổ chức thực hiện ngay việc cung cấp dụng cụ chứa nước, lọc nước, thuốc lọc nước; xây dựng gấp các trạm chứa nước tập trung (bồn, bể chứa nước) cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đang thiếu nước nghiêm trọng.
Nghiên cứu các giải pháp dài hạn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện thời tiết khô hạn như giảm diện tích trồng cây sử dụng nhiều nước như lúa, cà phê chuyển sang trồng các cây chịu được khô hạn như ngô, bông sắn...Đồng thời, tập trung đầu tư các hồ chứa nước có dung tích lớn, chuyển đổi một số diện tích đất trũng làm hồ tưới nước, bảo đảm có nước trong điều kiện khô hạn kéo dài.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ, nhất là ở các địa phương ngập sâu, chuẩn bị các phương án phòng ngừa... nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại về người (nhất là trẻ em) và tài sản trong mùa nước nổi trong các tháng tới.
Dự báo ảnh hưởng bất thường của hiện tượng thời tiết trong các tháng tới như khô nóng, hạn hán, lũ lụt, bão... Có biện pháp nghiêm ngặt hạn chế cháy rừng... và tìm mọi cách để chủ động đối phó.
Các tỉnh phía Bắc đang bước vào mùa mưa, bão, cần xây dựng ngay các phương án phòng chống bão lụt, củng cố bồi trúc đê điều ở những nơi xung yếu, nhất là các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng.
Ba là, tập trung mọi nỗ lực để hạn chế ảnh hưởng dịch bệnh SARS, đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, các hoạt động văn hóa thể thao.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp để khống chế dịch bệnh SARS, nhất là ở những địa phương đã phát hiện được người mắc bệnh. Tiếp tục theo dõi hết sức chặt chẽ diễn biến của SARS để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời. Bộ Y tế tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan tiến hành các hoạt động phòng chống bệnh, khống chế và kiểm soát hoàn toàn được bệnh SARS.
Tăng cường phối hợp với các nước trong vùng, nhất là với các nước đang bị dịch bệnh SARS để có biện pháp đối phó thống nhất; thực hiện kết luận của Hội nghị các Thủ tướng chính phủ của các nước ASEAN về phòng chống dịch bệnh SARS.
Có biện pháp phòng ngừa thích hợp đối với những người nhập cảnh từ các nước đang có bệnh dịch. Đẩy mạnh tuyên truyền về khả năng khống chế dịch bệnh của Việt Nam để tiếp tục thu hút khách du lịch, tăng cường xuất khẩu lao động... không để ảnh hưởng đến các hoạt động văn hóa thể thao, giải trí trong thời gian tới.
Bốn là, tiếp tục huy động nội lực, kích cầu đầu tư và tiêu dùng nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng đề ra.
Trong điều kiện phát sinh những diễn biến không thuận như hạn hán, chiến tranh IRắc, dịch bệnh SARS đã ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn bên ngoài. Các dự án đăng ký mới trong 4 tháng đầu năm đạt thấp, thêm vào đó việc giải ngân vốn ODA và FDI chậm; các công ty lớn gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng đến giải ngân vốn FDI ở nước ta; cạnh tranh gay gắt dòng vốn đầu tư về dầu khí (có khả năng sẽ chuyển nhiều về khu vực Trung Đông).
Năm là, tích cực cải thiện mạnh mẽ môi trường thu hút đầu tư nước ngoài.
Ban hành các chính sách đầu tư rõ ràng, minh bạch và nhất quán về các chính sách thuế, xuất nhập khẩu liên quan đến ô tô, xe máy, nội địa hóa.
Đẩy nhanh tiến trình giảm các chi phí sản xuất đầu vào cho doanh nghiệp và thống nhất một mặt bằng giá, phí, dịch vụ giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước để góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đẩy nhanh tiến độ xem xét cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đã và đang thẩm định theo các chính sách đã ban hành để các nhà đầu tư nước ngoài an tâm đầu tư lâu dài ở Việt Nam.
Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư, đặc biệt là đầu tư của các nước trong khu vực, đầu tư từ các đối tác lớn như Nhật Bản và Châu Âu để có thể bù lại giảm sút của các nhà đầu tư từ Mỹ, Anh.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam xin tăng vốn, mở rộng quy mô sản xuất phù hợp với quy hoạch được phê duyệt cũng như các dự án xin đầu tư mới để bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư phát triển.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư