Đánh giá bổ sung kết quả năm 2008, tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2009 và dự báo thực hiện một số chỉ tiêu năm 2009
Tệp đính kèm:
Đánh giá bổ sung kết quả năm 2008,
tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2009 và dự báo thực hiện một số chỉ tiêu năm 2009
---------
Liên tục trong hơn hai năm qua nước ta chịu tác động bất lợi và phức tạp của kinh tế thế giới. Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; với sự nỗ lực cố gắng và chủ động khắc phục khó khăn của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và sự hưởng ứng đồng thuận của toàn dân nên kinh tế-xã hội nước ta bước đầu đã vượt qua được một số khó khăn, thách thức, lạm phát được kiềm chế, sản xuất được ưu tiên đầu tư phát triển, các mục tiêu an sinh xã hội tiếp tục đạt kết quả tốt, ổn định chính trị được giữ vững.
ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG KẾT QUẢ NĂM 2008
Trước tình hình khó khăn gay gắt ở trong và ngoài nước, ngay từ đầu năm 2008 Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ đã khẩn trương xem xét và ban hành nhiều quyết sách, giải pháp để ổn định và phát triển kinh tế-xã hội năm 2008 của đất nước như: Kết luận số 22/KL-TW ngày 04/4/2008 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 17/4/2008 của Chính phủ đề ra 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững; Kết luận số 25/KL-TW ngày 05/8/2008 của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2008 và các giải pháp chủ yếu trong 6 tháng cuối năm nhằm thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch kinh tế-xã hội năm 2008; Nghị quyết số 20/2008/QH12 của Quốc hội về một số vấn đề kinh tế-xã hội năm 2008 trong tình hình mới. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp, các địa phương thực hiện nghiêm và đồng bộ các nhóm giải pháp nên kinh tế -xã hội nước ta năm 2008 vẫn giữ được sự ổn định và tiếp tục có bước tăng trưởng.
Ngày 29/12/2008 Tổng cục Thống kê đã có Báo cáo đánh giá tổng hợp tình hình kinh tế-xã hội năm 2008, trong đó số liệu tháng 12/2008 là số liệu ước tính. Sau khi cập nhật thêm thông tin, Tổng cục Thống kê đánh giá lại một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp năm 2008 như sau:
(1). Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Tổng hợp số liệu điều tra cho thấy kết quả sản xuất của một số cây trồng cao hơn ước tính ban đầu, trong đó: Sản lượng lúa cả năm đạt 38,7 triệu tấn (số liệu ước tính tháng 12/2008 là 38,63 triệu tấn), tăng 7,7% so với năm 2007; sản lượng sắn đạt 9,4 triệu tấn (số liệu tháng 12/2008 là 9,1 triệu tấn), tăng 14,7% so với năm 2007; sản lượng cà phê đạt 1055,8 nghìn tấn (số liệu tháng 12/2008 là 996,3 nghìn tấn), tăng 15,3% so với năm 2007. Do những sản phẩm chủ yếu nêu trên đạt mức cao hơn ước tính ban đầu nên giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994 đạt 213,5 nghìn tỷ đồng, tăng 6% so với năm 2007, trong đó nông nghiệp đạt 156,7 nghìn tỷ đồng, tăng 6% (số liệu tháng 12/2008 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 5,6%; trong đó nông nghiệp tăng 5,4%).
(2). Sản xuất công nghiệp
Trong những tháng cuối năm, nhất là tháng 12/2008 sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn nên giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến theo giá so sánh 1994 chỉ đạt 577 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2007 (số liệu tháng 12/2008 tăng 16%); công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước đạt 34,5 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% (số liệu tháng 12/2008 tăng 13,4%). Do sản xuất của 2 ngành công nghiệp nêu trên không đạt được tốc độ tăng trưởng như ước tính lần trước nên giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp theo giá so sánh 1994 đã giảm từ 652,8 nghìn tỷ đồng xuống 647,3 nghìn tỷ đồng và tốc độ tăng so với năm 2007 của toàn ngành công nghiệp giảm từ 14,6% xuống còn 13,9%.
(3). Xuất nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu cả năm 2008 đạt 62,7 tỷ USD, giảm 221 triệu USD so với ước tính lần trước, trong khi đó kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 80,7 tỷ USD, tăng 298 triệu USD nên nhập siêu cả năm 2008 là 18 tỷ USD, tăng 26,8% so với mức nhập siêu năm 2007 và bằng 28,8% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu (số liệu ước tính tháng 12/2008 nhập siêu 17,5 tỷ USD, tăng 24,1% so với năm 2007 và bằng 27,8% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu).
(4). Tổng sản phẩm trong nước
Trên cơ sở điều chỉnh kết quả sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và công nghiệp, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 được đánh giá lại chỉ đạt 489,8 nghìn tỷ đồng, tăng 6,18% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,07%; công nghiệp và xây dựng tăng 6,11%; dịch vụ tăng 7,18% (số liệu ước tính tháng 12/2008 GDP theo giá so sánh đạt 490,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; dịch vụ tăng 7,2%).
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI QUÝ I NĂM 2009
Bước vào năm 2009, kinh tế-xã hội nước ta tiếp tục chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều nền kinh tế lớn suy thoái. Trong khi chưa khắc phục hết những khó khăn của năm 2008 và những năm trước đó để lại thì nước ta lại phải đương đầu với những thách thức mới. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn có những thuận lợi cơ bản, đó là: Lạm phát được kiềm chế; Việt Nam vẫn được đánh giá là thị trường đầu tư hấp dẫn; Chính phủ tiếp tục ban hành thêm các giải pháp và chính sách phát triển kinh tế một cách linh hoạt, nhằm phản ứng kịp thời trước những biến động khó lường về kinh tế; đồng thời chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, các địa phương triển khai đồng bộ các chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng, từ đó nhiều dự án đầu tư lớn có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế sẽ sớm đi vào hoạt động, cải thiện đáng kể năng lực sản xuất của nền kinh tế, tạo điều kiện giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc; những kinh nghiệm đúc rút được về điều hành kinh tế vĩ mô trong thời gian qua tiếp tục phát huy hiệu lực, hiệu quả; sự phối hợp giữa Chính phủ, các hiệp hội, ngân hàng và doanh nghiệp được tăng cường đã tạo đà cho sự hợp tác cùng vượt qua khó khăn. Những yếu tố thuận lợi này bước đầu đã tác động tích cực tới sự phát triển của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam quý I/2009 và sẽ tiếp tục ảnh hưởng mạnh đến tình hình kinh tế-xã hội cả năm.
Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2009 ước tính tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 1,5%; khu vực dịch vụ tăng 5,4%. Trong tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,1 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,7 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đóng góp 2,3 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I năm nay tuy thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ của một số năm gần đây, nhưng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới bị suy giảm mạnh mà nền kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng như trên là một cố gắng rất lớn.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản quý I/2009 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 44,6 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm nông nghiệp đạt 33,2 nghìn tỷ đồng, giảm 0,1%; lâm nghiệp 1,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5%; thuỷ sản 10 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9%.
Nông nghiệp
Tính đến 15/3/2009 cả nước đã gieo cấy được 2986 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 102,6% cùng kỳ năm trước. Các địa phương phía Bắc gieo cấy 1091,3 nghìn ha, bằng 105,3%. Nhìn chung lúa đông xuân ở các địa phương phía Bắc được gieo cấy trong điều kiện thời tiết thuận lợi, nguồn nước cung cấp tương đối đủ, sâu bệnh xuất hiện ít nên lúa đang phát triển tốt. Các địa phương phía Nam gieo cấy 1894,7 nghìn ha, bằng 101% cùng kỳ năm 2008 (Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1547,3 nghìn ha, tăng 1,4%). Diện tích gieo cấy lúa ở các địa phương phía Nam tăng do giá lúa thương phẩm xuất khẩu đang ở mức cao. Mặt khác, giá vật tư đầu vào như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ổn định đã khuyến khích nông dân chuyển đổi một phần diện tích đất trồng màu, đất nuôi trồng thuỷ sản hoặc tận dụng đất lâm nghiệp chưa sử dụng sang trồng lúa (An Giang tăng 2,4 nghìn ha; Long An tăng 8,3 nghìn ha; Trà Vinh tăng 2,4 nghìn ha; Kiên Giang tăng 7 nghìn ha; Bạc Liêu tăng 2,2 nghìn ha).
Đến trung tuần tháng 3/2009, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch 770,5 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 50% diện tích gieo cấy và bằng 80,4% cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, năng suất lúa đông xuân toàn vùng ước tính đạt 62,7 tạ/ha, giảm 1,7 tạ/ha so với vụ đông xuân trước (An Giang giảm 1,5 tạ/ha; Đồng Tháp giảm 1,3 tạ/ha; Kiên Giang giảm 2,7 tạ/ha); sản lượng đạt 9,7 triệu tấn, giảm 1,3%. Năng suất lúa đông xuân toàn vùng giảm trước hết là do thời điểm xuống giống gặp mưa trái mùa và triều cường nên một số diện tích lúa bị ngập úng, phải dặm hoặc gieo sạ lại; ngoài ra còn do một số địa phương thay đổi cơ cấu giống lúa theo hướng giảm diện tích trồng lúa năng suất cao nhưng chất lượng gạo thấp, khó xuất khẩu (như: IR 50404, OM 576.v.v) sang gieo trồng giống lúa năng suất tuy thấp hơn nhưng chất lượng gạo tốt, dễ xuất khẩu (như: VNĐ 95-20, OM 2717, OM 2517.v.v...).
Cùng với việc gieo cấy và thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương đang tập trung thu hoạch cây vụ đông và gieo trồng cây vụ xuân. Do mưa lũ gây ngập nặng vào thời điểm cuối năm 2008 làm nhiều diện tích bị mất trắng nên sản lượng cây vụ đông nhìn chung đạt thấp. Sản lượng ngô bằng 58,4% cùng kỳ năm trước; khoai lang bằng 71%; đậu tương bằng 33,2%; lạc bằng 67,9%; rau đậu bằng 85,9%. Tiến độ gieo trồng các cây trồng vụ xuân chậm chủ yếu do năm 2009 nhuận hai tháng 5 nên thời vụ dài hơn năm trước. Tính đến 15/3, cả nước đã gieo trồng 331,9 nghìn ha ngô, bằng 89,3% so với cùng kỳ năm trước; khoai lang 87,3 nghìn ha, bằng 87,3%; sắn 85,8 nghìn ha, bằng 89,3%; lạc 163,7 nghìn ha, bằng 97,7%; đậu tương 80,5 nghìn ha, bằng 95,8%; rau đậu đạt 391,7 nghìn ha, bằng 108%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển tương đối ổn định. Trong quý I/2009, đàn bò cả nước ước tính tăng 1% so với cùng kỳ năm trước; đàn lợn tăng 3%; đàn gia cầm tăng 6%. Tuy dịch bệnh xuất hiện nhưng các ngành chức năng và chính quyền địa phương các cấp đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt việc dập ổ dịch mới phát sinh, giám sát chặt chẽ khâu vận chuyển, lưu thông gia cầm sống nhằm ngăn chặn không để dịch bệnh lây lan; đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân nhận thức đầy đủ về diễn biến dịch bệnh; tổ chức tiêm phòng vắcxin có hiệu quả và giám sát chặt chẽ tình trạng giết mổ. Tính đến ngày 18/3/2009, cả nước có 5 tỉnh có dịch cúm gia cầm là: Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu, Quảng Ninh và Điện Biên; 3 tỉnh có dịch lở mồm long móng là: Bắc Kạn, Kon Tum và Nghệ An; 3 tỉnh có dịch tai xanh chưa qua 21 ngày là: Bạc Liêu, Quảng Ninh và Quảng Nam.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung quý I năm 2009 cả nước ước tính đạt 25,3 nghìn ha, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây trồng phân tán đạt 59,2 triệu cây, giảm 2,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 494 nghìn m3, tăng 2%; sản lượng củi khai thác đạt 6,7 triệu ste, tăng 1,5%.
Công tác phòng cháy rừng và bảo vệ rừng tuy được các cấp, các ngành quan tâm nhưng tình trạng cháy rừng và chặt phá rừng vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Tính chung 3 tháng đầu năm 2009, tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 489 ha, tăng 77% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 244 ha, tăng 68,2%. Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Yên Bái 61 ha; Cao Bằng 50 ha; Lạng Sơn 36 ha; Lào Cai 25 ha; Bắc Giang 17 ha; Sơn La 17 ha; Lâm Đồng 10 ha; Long An 10 ha.
Thuỷ sản
Sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản quý I/2009 ước tính đạt 1028,1 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 783,7 nghìn tấn, tăng 4,9%; tôm đạt 85,6 nghìn tấn, tăng 3,1%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng quý I/2009 ước tính đạt 415 nghìn tấn, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước (cá 310 nghìn tấn, giảm 1%; tôm 59 nghìn tấn, tăng 0,9%). Kết quả nuôi trồng thuỷ sản đạt thấp do gặp một số khó khăn như: Giá thức ăn của thuỷ sản tăng cao; giá thu mua bấp bênh; thị trường tiêu thụ ngoài nước có xu hướng bị thu hẹp, do đó không khuyến khích người dân mở rộng diện tích nuôi. Điển hình là cá tra, cá ba sa chiếm trên 50% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng nhưng diện tích nuôi thả giảm trên 20% (An Giang giảm 28%; Cần Thơ giảm 25,4%; Vĩnh Long giảm 15%); diện tích nuôi thả tôm sú cũng giảm trên 8% (Cà Mau giảm 264,5 nghìn ha; Bạc Liêu giảm 125 nghìn ha; Kiên Giang giảm 45 nghìn ha; Bến Tre giảm 17 nghìn ha; Trà Vinh giảm 8 nghìn ha). Hiện nay, tình hình tiêu thụ sản phẩm bước đầu có chuyển biến nên nông dân nhiều tỉnh đã tiếp tục triển khai nuôi trở lại.
Sản lượng thủy sản khai thác quý I/2009 ước tính đạt 613,1 nghìn tấn, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển 568 nghìn tấn, tăng 9,8%. Hoạt động khai thác thuỷ sản tiếp tục phát triển chủ yếu do thời tiết biển tương đối thuận lợi, nhiều loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao xuất hiện sớm và dài ngày như: Cá ngừ, cá cơm, cá hố, cá nục, mực ống v.v...; mặt khác giá xăng, dầu đang giảm so với cùng kỳ năm trước, đồng thời các chính sách của Chính phủ về kích cầu sản xuất đang phát huy tác dụng nên chi phí khai thác biển giảm trong khi giá bán hải sản ở mức cao, khuyến khích ngư dân tích cực ra khơi.
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 3/2009 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2009, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 tăng 2,1% so với quý I/2008, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước giảm 3,2% (Trung ương quản lý giảm 2,3%; địa phương quản lý giảm 6,2%); khu vực ngoài Nhà nước tăng 5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,9% (dầu mỏ và khí đốt tăng 13,1%, các sản phẩm khác tăng 1,5%). Trong các ngành sản xuất, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến chiếm gần 90% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp nhưng trong quý I/2009 chỉ tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, ga, nước tăng 3,6%; công nghiệp khai thác mỏ tăng 6,1%.
Nhìn chung trong quý I/2009, sản lượng nhiều sản phẩm công nghiệp giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, trong đó thép tròn giảm 3,3%; máy giặt giảm 8,9%; thủy hải sản chế biến giảm 12%; xe máy giảm 12,7%; dầu thực vật giảm 14,5%; điều hòa nhiệt độ giảm 15,1%; phân hóa học giảm 22,1%; xe chở khách giảm 33,7%; vải dệt từ sợi bông giảm 38,3%; giấy, bìa giảm 39,2%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm vẫn giữ được mức tăng ổn định như: Dầu thô khai thác tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2008; bia tăng 10,4%; xi măng tăng 10%; sữa bột tăng 7,9%; xe tải tăng 7,4%; thuốc lá điếu tăng 6,6%; nước máy thương phẩm tăng 5,9%; xà phòng giặt tăng 4,3%; điện sản xuất tăng 3,5%.
Kết quả sản xuất công nghiệp đạt thấp chủ yếu do mức tiêu thụ hàng hoá chậm, thị trường thu hẹp dẫn đến tồn kho sản phẩm, hàng hoá và tồn đọng vốn lớn. Tính đến cuối tháng 2/2009, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến ước tính tăng 67% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó thép tồn kho gấp 2,6 lần; sắt tròn đường kính 10mm trở lên gấp 2,1 lần; gạch lát tăng 55%; quần áo may sẵn tăng 76%.v.v...Nhiều doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố trọng điểm phải cắt giảm khoảng 15% lao động thường xuyên và thực hiện chế độ làm việc luân phiên không thường xuyên như: Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Vĩnh Phúc .v.v...
Trong điều kiện khó khăn chung, nhiều địa phương có qui mô sản xuất công nghiệp lớn tuy không còn duy trì được tốc độ phát triển cao như những năm trước nhưng giá trị sản xuất 3 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm trước vẫn đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung của cả nước như: Thanh Hóa tăng 9,6%; Hải Phòng tăng 6,9%; Cần Thơ tăng 6,7%; Đồng Nai tăng 6,6%; Hà Nội tăng 5,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 5,6%; Khánh Hòa tăng 5,4%; Bình Dương tăng 4%. Một số địa phương có tốc độ giảm hoặc tăng thấp như: Phú Thọ giảm 19,7%; Vĩnh Phúc giảm 17,6%; Đà Nẵng giảm 13,8%; Hải Dương giảm 6,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,9%; Quảng Ninh tăng 0,4%.
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện quý I/2009 theo giá thực tếước tính đạt 116,3 nghìn tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm vốn khu vực Nhà nước đạt 57,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 49,3% tổng số vốn thực hiện và tăng 20%; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 39,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,1% và tăng 30%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 19,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,6% và giảm 32%.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước 20,1 nghìn tỷ đồng, đạt 17,8% kế hoạch năm, gồm có:
- Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do Trung ương quản lý ước tính thực hiện 7,1 nghìn tỷ đồng, đạt 20,2% kế hoạch năm, trong đó vốn đầu tư thực hiện quý I/2009 của Bộ Giao thông Vận tải 1090 tỷ đồng, đạt 17,8% kế hoạch năm; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 655 tỷ đồng, đạt 22,2%; Bộ Y tế 194,4 tỷ đồng, đạt 19,2%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 172,4 tỷ đồng, đạt 22,4%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 122,3 tỷ đồng, đạt 22,7%; Bộ Xây dựng 109 tỷ đồng, đạt 25,6%; Bộ Công thương 69,5 tỷ đồng, đạt 29,2%.
- Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý quý I/2009 ước tính thực hiện 13 nghìn tỷ đồng, đạt 16,8% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có vốn thực hiện lớn là: Hà Nội 2629,8 tỷ đồng, đạt 22,6% kế hoạch năm; thành phố Hồ Chí Minh 1116,6 tỷ đồng, đạt 10,3%; Bà Rịa-Vũng Tàu 550,6 tỷ đồng, đạt 21%; Đà Nẵng 412,7 tỷ đồng, đạt 12,5%; Nghệ An 337,1 tỷ đồng, đạt 24,5%; Hòa Bình 304,7 tỷ đồng, đạt 31,5%; Hải Phòng 304,4 tỷ đồng, đạt 19,5%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/3/2009 đạt 6 tỷ USD, giảm 40,1% so với cùng kỳ năm 2008, gồm có: Vốn đăng ký mới 2,2 tỷ USD của 93 dự án được cấp phép (giảm 72,2% về dự án và giảm 69,7% về vốn so với cùng kỳ năm trước) và 3,8 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 34 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước.
Thu chi ngân sách
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến ngày 15/3/2009 ước tính bằng 18,5% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 19,2%; thu từ dầu thô bằng 16,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 18,4%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 24,3% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 14,3% dự toán năm; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 18,8% dự toán năm; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 16,7%; thu phí xăng dầu bằng 21,1%; thu phí, lệ phí bằng 13,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2009 ước tính bằng 16,3% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 16,5% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 15,9%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 19,2%; chi trả nợ và viện trợ bằng 16,3%.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2009 ước tính đạt 270 nghìn tỷ đồng, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm kinh doanh thương nghiệp 212,7 nghìn tỷ đồng, tăng 23,5%; khách sạn nhà hàng 30,3 nghìn tỷ đồng, tăng 15,8%; du lịch đạt 2,6 nghìn tỷ đồng, tăng 16,8%; dịch vụ đạt 24,5 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5%. Tiêu thụ hàng hoá trên thị trường nội địa quý I/2009 nhìn chung chậm, nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 6,5%, thấp hơn mức tăng 11% của cùng kỳ năm trước.
Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2009 ước tính đạt 4,7 tỷ USD, giảm 6,5% so với tháng trước và giảm 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2009, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 13,5 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,6 tỷ USD, tăng 40,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu thô) đạt 4,5 tỷ USD, giảm 13%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I/2009 tăng chủ yếu do tái xuất vàng 2,3 tỷ USD (Nếu không tính lượng vàng xuất khẩu thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu quý I/2009 đạt 11,2 tỷ USD, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước).
Trong quý I/2009, một số mặt hàng nông sản vẫn đạt mức xuất khẩu tăng cao so với quý I/2008 như: Gạo đạt 1,7 triệu tấn, tăng 71,3% và kim ngạch đạt 785 triệu USD, tăng 76,2%; hạt tiêu tăng 64,5% về lượng và tăng 15,5% về kim ngạch; chè tăng 10,2% về lượng và tăng 10,5% về kim ngạch; rau quả tăng 2,6% về kim ngạch; cà phê tuy giảm 7,1 về kim ngạch do giá giảm nhưng tăng 21,4% về lượng. Ngoài các mặt hàng nông sản, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu khác đều có kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó hàng dệt may đạt 1,9 tỷ USD, giảm 0,1%; giày dép đạt 915 triệu USD, giảm 10,8%; thủy sản đạt 714 triệu USD, giảm 10,4%; cà phê đạt 634 triệu USD, giảm 7,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 527 triệu USD, giảm 22,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 496 triệu USD, giảm 12,8%; than đá đạt 262 triệu USD, giảm 1,4%; dầu thô tuy đạt 4,3 triệu tấn, tăng 22,4% về lượng nhưng kim ngạch chỉ đạt 1,4 tỷ USD, giảm 45,5% do giá bình quân giảm 55%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 3/2009 ước tính đạt 4,3 tỷ USD, tăng 2,7% so với tháng trước và giảm 46,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I/2009 ước tính đạt 11,8 tỷ USD, giảm 45% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 7,5 tỷ USD, giảm 50,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,3 tỷ USD, giảm 32,4%.
Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng trong quý I/2009 đều giảm so với cùng kỳ năm trước do cả lượng và giá nhập khẩu đều giảm. Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng quý I/2009 đạt 2,4 tỷ USD, giảm 30,2% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu giảm 17,7% về lượng và giảm 60,2% về kim ngạch; sắt thép giảm 65% về lượng và giảm 71% về kim ngạch; phân bón giảm 16,5% về lượng và giảm 33,8% về kim ngạch; sợi dệt giảm 7,2% về lượng và giảm 28,7% về kim ngạch; ô tô nguyên chiếc giảm 71,2% về lượng và giảm 72,4% về kim ngạch; xe máy nguyên chiếc giảm 50,7% về lượng và giảm 34,7% về kim ngạch.
Xuất siêu tháng 3/2009 ước tính 400 triệu USD, bằng 8,5% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Tính chung quý I/2009, xuất siêu 1,6 tỷ USD, bằng 12,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (Nếu loại trừ kim ngạch tái xuất vàng thì quý I/2009 nhập siêu 640 triệu USD, bằng 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu).
Giá tiêu dùng
Giá tiêu dùng tháng 3/2009 giảm 0,17% so với tháng trước, trong đó: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,46% (Lương thực tăng 1,27%; thực phẩm giảm 1,55%); phương tiện đi lại, bưu điện giảm 0,55%; văn hóa, thể thao, giải trí giảm 0,12%. Giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhẹ: Giáo dục tăng 0,09%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,19%; dược phẩm, y tế tăng 0,29%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,3%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,34%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,35%. Giá tiêu dùng tháng 3/2009 tăng 11,25% so với cùng kỳ năm 2008 và tăng 1,32% so với tháng 12/2008. Giá tiêu dùng bình quân quý I/2009 tăng 14,47% so với giá tiêu dùng bình quân quý I/2008.
Giá vàng tháng 3/2009 tăng 5,44% so với tháng trước; tăng 4,21% so với cùng kỳ năm 2008 và tăng 15,55% so với tháng 12/2008. Ba chỉ số tương ứng của giá đô la Mỹ là tăng 0,19%; tăng 11,16% và tăng 2,6%.
Vận tải
Hoạt động vận tải hành khách trong quý I/2009 nhìn chung ổn định. Vận chuyển hành khách quý I/2009 ước tính đạt 478,3 triệu lượt khách, tăng 6,8% và 20,3 tỷ lượt khách.km, tăng 4,3% so với quý I/2008, bao gồm vận tải trung ương đạt 6,9 triệu lượt khách, giảm 20,2% và 5,2 tỷ lượt khách.km, giảm 5,5%; vận tải địa phương đạt 471,4 triệu lượt khách, tăng 7,4% và 15,2 tỷ lượt khách.km, tăng 8,1%. Vận tải đường bộ có tốc độ tăng cao nhất, đạt 431,1 triệu lượt khách, tăng 7,5% và 14,5 tỷ lượt khách.km, tăng 8,2%. Vận tải đường sông đạt 40,8 triệu lượt khách, tăng 2,3% và 813,1 triệu lượt khách.km, tăng 1,7%. Vận tải đường biển đạt 1,5 triệu lượt khách, tăng 3,2% và 95,5 triệu lượt khách.km, tăng 5,6%. Vận tải đường sắt và đường hàng không giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó đường sắt giảm 12,2% về lượt khách và giảm 12% về lượt khách.km; đường hàng không giảm 5,7% về lượt khách và giảm 3,8% về lượt khách.km.
Vận tải hàng hóa quý I năm 2009 ước tính đạt 156,1 triệu tấn, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước và 39,9 tỷ tấn.km, giảm 5,2%, trong đó vận tải trung ương giảm 24,7% về số tấn và giảm 8% về số tấn.km; vận tải địa phương tăng 1,8% về số tấn và tăng 0,9% về số tấn.km. Vận tải hàng hóa ở hầu hết các ngành vận tải đều giảm, trong đó đường sắt giảm 28,1% về khối lượng vận chuyển và giảm 26,5% về khối lượng luân chuyển. Tương tự, đường hàng không giảm 4,7% và giảm 11,6%; đường sông giảm 2,6% và giảm 6,7%; đường biển giảm 1,7% và giảm 5,1%. Riêng đường bộ tuy tăng 1,4% về khối lượng vận chuyển nhưng giảm 0,3% về khối lượng luân chuyển.
Bưu chính viễn thông
Phát triển điện thoại mới quý I/2009 ước tính đạt 7,3 triệu thuê bao, tăng 70,5% so với số phát triển mới của quý I năm trước, trong đó thuê bao điện thoại cố định là 1 triệu thuê bao, tăng 47,4%. Số thuê bao điện thoại của cả nước tính đến cuối quý I/2009 là 86,8 triệu thuê bao, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông đạt 52,3 triệu thuê bao. Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến cuối quý I/2009 ước tính đạt 2,3 triệu thuê bao, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông đạt 1,5 triệu thuê bao. Số người sử dụng internet đạt 21,2 triệu người, riêng Tập đoàn Bưu chính Viễn thông cung cấp cho 16,2 triệu người. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông quý I/2009 ước tính đạt 19,8 nghìn tỷ đồng, tăng 33,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông đạt 14,9 nghìn tỷ đồng, tăng 38,9%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta quý I/2009 ước tính đạt 992,2 nghìn lượt người, giảm 16,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng 600,5 nghìn lượt người, giảm 18,9%; đến vì công việc 162,5 nghìn lượt người, giảm 25,8%; thăm thân nhân 164 nghìn lượt người, giảm 1%. Khách đến bằng đường hàng không 856 nghìn lượt người, giảm 9,8% so với cùng kỳ năm 2008; đến bằng đường biển 17,9 nghìn lượt người, giảm 59,2%; đến bằng đường bộ 118,1 nghìn lượt người, giảm 37,5%.
Lượng khách từ Hoa Kỳ đến nước ta trong 3 tháng đầu năm 2009 ước tính đạt 120,8 nghìn lượt người, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước; khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 64,8 nghìn lượt người, tăng 4,8%; khách đến từ Ca-na-đa 29,6 nghìn lượt người, tăng 11,1%.
Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng lớn khách đến Việt Nam giảm so với cùng kỳ năm 2008 là: Trung Quốc 106 nghìn lượt người, giảm 23,6%; Hàn Quốc 102,7 nghìn lượt người, giảm 25,7%; Nhật Bản 98,9 nghìn lượt người, giảm 11,7%; Đài Loan 70,9 nghìn lượt người, giảm 11,6%.
Một số vấn đề xã hội
Đời sống dân cư
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, quy mô sản xuất trong nước bị thu hẹp dẫn đến tình trạng công nhân bị mất việc và thiếu việc làm tại nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể như: Công ty Panasonic Việt Nam với hơn 6 nghìn công nhân thuộc 3 công ty con đã báo cáo xin giảm 500 lao động; công ty Nishei xin giảm 1,6 nghìn lao động; công ty Canon Việt Nam xin giảm 1,2 nghìn lao động v.v... Tính chung trên địa bàn tỉnh Bình Dương có khoảng 2 nghìn công nhân thiếu việc làm; Vĩnh Phúc có 29 doanh nghiệp cắt giảm lao động với tổng số lao động bị cắt giảm là 1,1 nghìn người, trong đó công ty TNHH công nghiệp TS ARI cắt giảm 390 lao động, công ty TNHH công nghiệp chính xác Việt Nam I cắt giảm 200 lao động.
Ở khu vực nông thôn, nhờ vụ đông xuân 2008 được mùa, giá lúa tăng cao, giá vật tư đầu vào ổn định, các hợp đồng xuất khẩu gạo thực hiện thuận lợi đã góp phần cải thiện đời sống nông dân. Theo báo cáo của các địa phương, số hộ thiếu đói trong tháng 3/2009 (tính đến ngày 17/3) trên phạm vi cả nước là 78,1 nghìn hộ, chiếm 0,67% tổng số hộ nông nghiệp, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2008; số nhân khẩu thiếu đói là 322 nghìn nhân khẩu, giảm 35,3%. Tính chung quý I/2009, số hộ thiếu đói trên cả nước là 202 nghìn lượt hộ với hơn 840 nghìn lượt nhân khẩu. So với quý I/2008, số lượt hộ thiếu đói giảm 28,3%; số lượt nhân khẩu thiếu đói giảm 28,8%.
Thực hiện Quyết định số 81/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ các hộ nghèo đón Tết Nguyên đán, UBND các tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành và địa phương rà soát các hộ thuộc diện nghèo trên địa bàn để cấp phát tiền hỗ trợ trước Tết Nguyên đán. Đồng thời để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 11,7 nghìn tấn lương thực và 36,6 tỷ đồng.
Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, từ 01/02/2009 đến hết ngày 28/02/2009, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 886 vụ tai nạn giao thông, làm chết 827 người và làm bị thương 566 người. So với cùng kỳ năm 2008, số vụ tai nạn giao thông giảm 20,8%; số người chết giảm 19,9%; số người bị thương giảm 29,3%. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 30,7%; số người chết giảm 32%; số người bị thương giảm 34,3%.
Tính chung 2 tháng đầu năm 2009, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2165 vụ tai nạn giao thông, làm chết 2043 người và bị thương 1428 người. So với cùng kỳ năm 2008, số vụ tai nạn giao thông giảm 2,7%; số người chết giảm 1,6%; số người bị thương giảm 1,9%. Tai nạn giao thông 2 tháng đầu năm nay tuy đã giảm so với 2 tháng đầu năm 2008 nhưng vẫn là vấn đề đang được xã hội đặc biệt quan tâm (Bình quân một ngày trong 2 tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 37 vụ tai nạn giao thông, làm chết 35 người và làm bị thương 24 người), do đó các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quy định an toàn giao thông của các chủ phương tiện, xử lý nghiêm những trường hợp gây tai nạn; đồng thời phải nâng cao ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người tham gia giao thông.
Giáo dục
Tính đến tháng 02/2009, cả nước có 41 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 47 tỉnh/thành phố được công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đạt 85,5% mục tiêu đề ra của nghị quyết Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009.
Tình hình học sinh phổ thông bỏ học tuy vẫn xảy ra tại các địa phương nhưng tỷ lệ đã giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong học kỳ I của năm học 2008-2009, cả nước có 86,3 nghìn học sinh phổ thông bỏ học, chiếm 0,56% tổng số học sinh (Tỷ lệ của năm học trước là 0,94%). Số học sinh bỏ học tập trung chủ yếu ở cấp trung học phổ thông với 1,29% tổng số học sinh trung học phổ thông; tiếp đến là cấp trung học cơ sở với 0,7% tổng số học sinh trung học cơ sở và cấp tiểu học với 0,13% tổng số học sinh tiểu học. Tây Nguyên vẫn là vùng có tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất, trong đó cấp tiểu học là 0,37%; trung học cơ sở 1,08% và trung học phổ thông 2,39%. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có các tỷ lệ tương ứng là 0,23%; 1,28% và 2,12%. Đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ lệ bỏ học thấp nhất và cũng là vùng có nhiều tỉnh/thành phố không có học sinh cấp tiểu học bỏ học. Một số địa phương có tỷ lệ học sinh bỏ học cao ở cấp tiểu học là: Kon Tum 0,4%; Trà Vinh 0,41%; Ninh Thuận 0,42%; Kiên Giang 0,42%; Lai Châu 0,43%; Sơn La 0,46%; An Giang 0,47%; Gia Lai 0,5%; Đắk Nông 0,53%; Hà Giang 0,54%; Cao Bằng 0,57%.
Đào tạo
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2008-2009 cả nước có 437,6 nghìn thí sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng hệ chính quy, đạt 97,4% chỉ tiêu đề ra, bao gồm 239,4 nghìn thí sính trúng tuyển vào các trường đại học, đạt 95,5% và 198,2 nghìn thí sính trúng tuyển vào các trường cao đẳng, đạt 99,9%; số học sinh nhập học vào các trường trung cấp chuyên nghiệp là 158,8 nghìn học sinh, bằng 40% tổng số thí sinh đăng ký dự tuyển, đạt 77% chỉ tiêu đề ra.
Dạy nghề
Tính đến cuối năm 2008, cả nước có gần 2,3 nghìn cơ sở đào tạo nghề, bao gồm 93 trường cao đẳng nghề, 245 trường trung cấp nghề, 757 trung tâm dạy nghề và hơn 1 nghìn cơ sở đào tạo nghề. Chỉ tiêu năm 2009 của cả nước là đào tạo hơn 1,6 triệu lượt người học nghề, tăng 7% so với số học sinh học nghề thực tế năm 2008, trong đó khối cao đẳng, trung cấp nghề tăng 18%; sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên tăng 4%. Tuy nhiên, công tác xã hội hóa dạy nghề vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cả nước vẫn còn 164 huyện chưa có cơ sở dạy nghề, chủ yếu là các huyện miền núi, vùng cao, biên giới và ven biển.
Sau hơn một năm thực hiện Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, tính đến cuối năm 2008, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân được 9,5 nghìn tỷ đồng, bao gồm 5 nghìn tỷ đồng trong năm học 2007-2008 và 4,5 nghìn tỷ đồng trong học kỳ I của năm học 2008-2009.
Tình hình dịch bệnh
Theo báo cáo của Bộ Y tế, từ ngày 21/02/2009 đến 18/3/2009, cả nước có 1,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 2,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết và 276 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút. Tính chung quý I/2009, cả nước đã có 5,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 11 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 1,2 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút và hơn 800 trường hợp ngộ độc thực phẩm.
Trong tháng 3/2009 đã phát hiện 01 trường hợp nhiễm và tử vong do vi rút cúm A H5N1, nâng số trường hợp nhiễm bệnh tính từ đầu năm đến nay lên 04 trường hợp và đều đã tử vong. Cũng trong tháng 3/2009, đã phát hiện thêm 1,6 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 18/3/2009 lên 181,8 nghìn người, trong đó 72,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 42,1 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Hoạt động văn hóa thông tin
Hoạt động văn hóa thông tin 3 tháng đầu năm 2009 đã tập trung vào tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, tổ chức hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc và đón xuân mới 2009. Với chủ đề “Mừng Đảng quang vinh - Mừng Xuân Kỷ Sửu”, nhiều hoạt động mít tinh, hội hoa, hội báo xuân, triển lãm.v.v... đã được tổ chức tại các địa phương, thu hút được sự quan tâm, hưởng ứng của cộng đồng. Đồng thời nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, trò chơi dân gian đặc trưng của từng vùng, miền đã được tổ chức tốt và diễn ra sôi động như: Lễ hội Tịnh Điền (Hà Nam), hội Lim (Bắc Ninh), lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày (Hà Giang), lễ hội Cầu Ngư (Huế), lễ hội đua thuyền trên sông Cà Ty (Bình Thuận), lễ hội đua ghe Ngo (Hậu Giang).v.v...
Công tác thanh tra, kiểm tra đã được các đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành thường xuyên nhằm ngăn chặn tiêu cực phát sinh trong hoạt động văn hóa tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa. Trong 3 tháng đầu năm 2009, công tác này ở một số địa phương đã thu được kết quả tốt, điển hình là: Bình Thuận đã tổ chức kiểm tra 176 lượt cơ sở, phát hiện 30 cơ sở vi phạm, phạt hành chính 63,7 triệu đồng; Hậu Giang tiến hành 79 lượt kiểm tra, phát hiện 27 cơ sở vi phạm, phạt hành chính 16,5 triệu đồng; Cà Mau đã tổ chức kiểm tra 148 cơ sở, phát hiện 44 trường hợp vi phạm, phạt hành chính hơn 18 triệu đồng v.v...
Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta quý I/2009 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Sản xuất công nghiệp có xu hướng chững lại; mức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên thị trường trong nước chậm; xuất, nhập khẩu hàng hoá bị giảm nhiều và thị trường xuất khẩu bị thu hẹp; tình trạng thiếu việc làm xảy ra tại một số khu công nghiệp và doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, chúng ta có thuận lợi cơ bản là sự ổn định chính trị, sự đoàn kết và nhất trí cao trong Đảng, sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị nên nhiều chính sách và các nhóm giải pháp của Chính phủ đã phát huy tác dụng tích cực, kinh tế tăng trưởng khá, an ninh xã hội được bảo đảm, tạo tiền đề vật chất và tinh thần cũng như kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành cho những tháng tiếp theo của năm 2009.
Trên cơ sở kết quả đã đạt được trong quý I/2009 và tính tới những thuận lợi, khó khăn của nền kinh tế từ nay đến cuối năm, có thể dự báo một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu cả năm 2009 như sau: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 4,8 -5,6%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 4,6-6,1%; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 2,5-4,5%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng 15-18%; kim ngạch hàng hoá xuất khẩu đạt 56-58 tỷ USD; kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 63-65 tỷ USD; tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm là 7,7%; tỷ lệ hộ nghèo 12,2-12,4%.
Để đạt được các chỉ tiêu kinh tế-xã hội nêu trên, đồng thời chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội, các ngành, các cấp, các địa phương cần tập trung mọi nỗ lực làm tốt một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, các Bộ/ngành khẩn trương, tích cực xây dựng và triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp trọng tâm có liên quan để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhằm phát triển sản xuất, duy trì và tạo việc làm cho người lao động theo tinh thần Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; tập trung chỉ đạo quyết liệt để các đơn vị, nhất là các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty lớn thực hiện nghiêm những cam kết về chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm 2009, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của cả nước.
Có cơ chế chính sách tiền tệ, tài chính linh hoạt nhằm chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát tăng sau giai đoạn kích cầu. Tăng quyền chủ động cho các cấp, các ngành điều hành linh hoạt hoạt động kinh tế-xã hội của cả nước;
Hai là, tăng cường hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại nhằm khai thác, giữ vững thị trường đã có và mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là những thị trường không yêu cầu quá cao về chất lượng hàng hoá; nghiên cứu kỹ các hiệp định, quy định của WTO để thực thi và xây dựng các chính sách phù hợp nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu, nhất là xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản mà nước ta có thế mạnh.
Ba là, đặc biệt quan tâm thị trường nội địa nhằm tạo ra cân đối cung, cầu hàng hóa với nhiều sản phẩm phù hợp về giá cả và chất lượng cho người tiêu dùng trong nước; khuyến khích các đơn vị sản xuất kinh doanh khẩn trương xây dựng và thực hiện chương trình đưa hàng hoá về nông thôn. Xây dựng và tổ chức tốt hoạt động màng lưới thương nghiệp để thu mua và cung cấp hàng hóa trên thị trường trong nước với giá hợp lý, không để hàng hoá tồn đọng.
Đẩy mạnh công tác quản lý thị trường nhằm ngăn chặn có hiệu quả tình trạng buôn lậu, chống hàng gian, hàng giả; bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người tiêu dùng và nhà sản xuất; chống đầu cơ và lợi dụng các yếu tố không thuận để nâng giá;
Bốn là, triển khai thực hiện khẩn trương, hiệu quả, đảm bảo sự minh bạch, có kiểm tra, kiểm soát và kịp thời báo cáo đầy đủ kết quả các gói kích cầu tiêu dùng và kích cầu đầu tư; tận dụng thời cơ giảm giá của thế giới và trong nước để tăng cường đầu tư giao thông, thuỷ lợi, thay đổi thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ.
Năm là, khẩn trương xây dựng chương trình, đề án nhằm phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Thực hiện triệt để chủ trương thu mua, dự trữ các sản phẩm nông sản gặp khó khăn trong xuất khẩu để người sản xuất yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất. Triển khai các biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, trọng tâm là sản phẩm thức ăn chăn nuôi và giống cây, con. Đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch, bệnh cho cây trồng, vật nuôi. Tăng cường công tác dự báo và phòng chống thiên tai trong 9 tháng tiếp theo, đặc biệt là khi mùa mưa bão sắp đến gần.
Sáu là, công tác an sinh xã hội phải được các cấp, các ngành và cả xã hội đặc biệt quan tâm; tổ chức triển khai thực hiện các chế độ, chính sách kịp thời, đúng đối tượng. Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo; khẩn trương triển khai đồng bộ đề án phát triển kinh tế-xã hội tại 61 huyện nghèo nhất của cả nước. Xây dựng chương trình kế hoạch tạo thêm việc làm, nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đang có xu hướng gia tăng hiện nay.
Kinh tế thế giới vẫn đang trong tình trạng suy thoái. Kinh tế nước ta đã hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế toàn cầu nên sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, diễn biến phức tạp và khó lường. Tuy nhiên, bên cạnh khó khăn và thách thức, kinh tế nước ta còn có thuận lợi và thời cơ, nhất là tiềm năng nội lực về sự ổn định chính trị-xã hội, về tài nguyên, đất đai, lao động và thị trường nội địa lớn 86 triệu dân chưa được khai thác đầy đủ. Với tinh thần quyết tâm phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, chắc chắn khó khăn sẽ từng bước được khắc phục, cả năm 2009 kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng với tốc độ tăng dự báo như trên. Từ đó cho thấy nền kinh tế nước ta sẽ là một trong những nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu.
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Tệp đính kèm: