Tệp đính kèm:
▪Tình hình kinh tế 10_2009.doc
Tình hình kinh tế - xã hội 10 tháng năm 2009
__________
Phát huy đà khởi sắc của nền kinh tế trong quý III, tranh thủ những yếu tố thuận lợi trong và ngoài nước, khắc phục hậu quả nặng nề của thiên tai, cả nước đang đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, thực hiện chính sách an sinh xã hội, chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách và nhân dân những vùng khó khăn nhằm hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hội cả năm 2009. Kết quả cụ thể từng ngành và lĩnh vực trong 10 tháng năm 2009 như sau:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Cơn bão số 9 đổ bộ vào miền Trung và Tây Nguyên nước ta cuối tháng 9, đầu tháng 10 đã ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Sau cơn bão các địa phương đã khẩn trương khắc phục hậu quả, tập trung thu hoạch lúa mùa, lúa hè thu và gieo trồng cây vụ đông bảo đảm tiến độ, đồng thời tiếp tục phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm.
Nông nghiệp
Tính đến ngày 15/10/2009, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch được 885,1 nghìn ha lúa mùa, chiếm 71,5% diện tích gieo cấy và tăng 25,6% so với cùng kỳ năm trước. Vùng đồng bằng sông Hồng thu hoạch 441,1 nghìn ha, chiếm 78% diện tích gieo cấy và tăng 27,2% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó các tỉnh có tiến độ thu hoạch nhanh là: Vĩnh Phúc đạt 100% diện tích gieo cấy; Ninh Bình 96,5%; Hưng Yên 95%; Hà Nam 94%. Các tỉnh Bắc Trung Bộ thu hoạch được 155,8 nghìn ha, chiếm 82% diện tích gieo cấy và tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến trung tuần tháng 10, cả nước đã thu hoạch được 2135,7 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 90,1% diện tích gieo cấy, đạt xấp xỉ cùng kỳ năm trước. Năng suất ước tính đạt 47,8 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha so với năm 2008. Vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 1708,7 nghìn ha, năng suất ước tính đạt 47,5 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha so với năm 2008. Các địa phương phía Bắc cơ bản đã thu hoạch xong lúa hè thu, năng suất ước tính giảm 4 tạ/ha so với năm trước chủ yếu do ảnh hưởng của bão, lũ.
Tiến độ gieo trồng một số cây vụ đông năm nay nhìn chung chậm hơn so với cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 15/10, diện tích gieo trồng ngô đạt 137,3 nghìn ha, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2008; khoai lang đạt 30,8 nghìn ha, giảm 13,8%; đậu tương đạt 72,8 nghìn ha, tăng 5,9%; rau đậu đạt 69,5 nghìn ha, tăng 1,3%.
Các địa phương đang tập trung đầu tư vào chăn nuôi gia súc, gia cầm nhằm đảm bảo nguồn thực phẩm cho nhu cầu tiêu dùng tăng lên trong những tháng cuối năm. Công tác phòng, chống dịch bệnh tiếp tục được triển khai. Tính đến 21/10/2009, cả nước không còn địa phương nào có dịch cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh chưa qua 21 ngày nhưng còn 12 tỉnh có dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày là: Quảng Ninh, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An, Quảng Nam, Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 10/2009 ước tính đạt 25 nghìn ha, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 6,8 triệu cây, giảm 1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 350 nghìn m3, tăng 7,5%. Tính chung 10 tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 180 nghìn ha, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 170 triệu cây, giảm 1,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2955 nghìn m3, tăng 6,1%. Do thời tiết trong tháng có mưa nhiều, cùng với công tác bảo vệ rừng được ngành kiểm lâm và các địa phương quan tâm nên diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá trong tháng 10 giảm đáng kể, chỉ khoảng trên 50 ha. Tính chung 10 tháng, diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá là 3153 ha, bao gồm bị cháy 1590 ha; bị chặt phá 1563 ha.
Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản tháng 10/2009 ước tính đạt 397,3 nghìn tấn, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 294 nghìn tấn, giảm 0,3%; tôm đạt 44 nghìn tấn, giảm 2,4%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng 10 ước tính đạt 232 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Sau thời gian gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm, các cơ sở nuôi trồng cá tra đang dần ổn định và phát triển theo hướng nuôi qui mô lớn, đầu tư kỹ thuật cao, đồng thời tăng cường sự gắn kết giữa khâu sản xuất với khâu tiêu thụ để tạo đầu ra cho sản phẩm.
Sản lượng thuỷ sản khai thác tháng 10/2009 ước tính đạt 165,3 nghìn tấn, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác biển đạt 146,9 nghìn tấn, giảm 2%, chủ yếu do ảnh hưởng của bão làm nhiều tàu, thuyền bị chìm và hư hỏng nặng.
Tính chung 10 tháng, sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 4020,6 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thuỷ sản nuôi trồng đạt 2177,6 nghìn tấn, tăng 1,9%; thuỷ sản khai thác đạt 1843 ngàn tấn, tăng 5,8% (khai thác biển đạt 1668,9 nghìn tấn, tăng 6,3%).
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 10/2009 tăng 3,2% so với tháng trước; tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: khu vực nhà nước tăng 6,8%; khu vực ngoài nhà nước tăng 15,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,1%. Giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng tăng 7% so với cùng kỳ năm 2008, cao hơn mức tăng 6,5% của 9 tháng, bao gồm: khu vực nhà nước tăng 3,6% (Trung ương quản lý tăng 5,7%; địa phương quản lý giảm 4,1%); khu vực ngoài nhà nước tăng 8,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,4% (dầu mỏ và khí đốt tăng 10,7%, các ngành khác tăng 6,9%).
Trong các sản phẩm công nghiệp 10 tháng năm nay, một số sản phẩm quan trọng có sản lượng tăng cao so với cùng kỳ năm 2008 là: Điều hoà nhiệt độ tăng 48,5%; tủ lạnh, tủ đá tăng 30,4%; xà phòng giặt tăng 19,5%; xi măng tăng 19,3%; thép tròn tăng 18,7%; giầy, dép, ủng bằng da giả tăng 16,2%; dầu thô khai thác tăng 15,8%; điện sản xuất tăng 12,3%; thuốc lá điếu tăng 12,1%; nước máy thương phẩm tăng 9,1%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước như: Xe tải giảm 5,2%; phân hoá học giảm 6,8%; gạch lát ceramic và kính thủy tinh cùng giảm 6,9%; thuỷ, hải sản chế biến giảm 7,7%; xe chở khách giảm 8,1%; giấy, bìa giảm 13,4%; vải dệt từ sợi bông giảm 15,5%; quần áo người lớn giảm 16,9 %; đường kính giảm 22%.
Một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng tăng cao hơn mức tăng chung cả nước là: Quảng Ninh tăng 13,5%; Thanh Hoá tăng 12,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 9,9%; Cần Thơ tăng 9,1%; Đồng Nai tăng 8,9%; Bình Dương tăng 8,5%; Hà Nội tăng 8,1%; Khánh Hoà tăng 8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,2%. Một số địa phương khác có giá trị sản xuất 10 tháng tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Hải Phòng tăng 6,2%; Hải Dương tăng 4,3%; Đà Nẵng tăng 2,5%; Phú Thọ tăng 0,3%; Vĩnh Phúc giảm 1,8%.
Đầu tư
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện 10 tháng ước tính đạt 111,3 nghìn tỷ đồng, bằng 77,3% kế hoạch năm, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 47,4 nghìn tỷ đồng, bằng 83,6% kế hoạch năm, trong đó: Vốn đầu tư thực hiện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 3140,9 tỷ đồng, bằng 106,3% kế hoạch năm; Bộ Giáo dục và Đào tạo 681,2 tỷ đồng, bằng 88,7% ; Bộ Y tế 867,1 tỷ đồng, bằng 85,7%; Bộ Giao thông Vận tải 8121,6 tỷ đồng, bằng 84,7%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 452,1 tỷ đồng, bằng 84%; Bộ Công Thương 186,2 tỷ đồng, bằng 78,2%; Bộ Xây dựng 470,5 tỷ đồng, bằng 52,2%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 63,9 nghìn tỷ đồng, bằng 73,2% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có tiến độ thực hiện nhanh là: Thừa Thiên-Huế đạt 1198,2 tỷ đồng, bằng 112,2% kế hoạch năm; Thái Bình 757,6 tỷ đồng, bằng 97,3%; Đà Nẵng 2978,7 tỷ đồng, bằng 90,1%; Nghệ An 1208,1 tỷ đồng, bằng 87,6%; Bắc Ninh 1054,2 tỷ đồng, bằng 87,4%; An Giang 685,6 tỷ đồng, bằng 85,7%; Hải Phòng 1395,1 tỷ đồng, bằng 83,9%; Ninh Thuận 594,4 tỷ đồng, bằng 82,6%.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến 19/10/2009 đạt 18,9 tỷ USD, giảm 72,9% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm: Vốn đăng ký của 658 dự án được cấp phép mới đạt 14 tỷ USD (giảm 78,3% về vốn và giảm 53,3% về số dự án); vốn đăng ký bổ sung của 179 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 4,9 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 10 tháng năm 2009 ước tính đạt 8 tỷ USD, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm 2008.
Trong 40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các dự án được cấp phép mới trong 10 tháng năm 2009, Quảng Nam dẫn đầu với 4150 triệu USD, chiếm 29,5% tổng vốn đăng ký của cả nước; tiếp đến là Bà Rịa-Vũng Tàu 2852,5 triệu USD, chiếm 20,3%; Đồng Nai 2232,1 triệu USD, chiếm 15,9%; Bình Dương 2129,7 triệu USD, chiếm 15,2%; thành phố Hồ Chí Minh 931,1 triệu USD, chiếm 6,6%; Hà Nội 196,1 triệu USD, chiếm 1,4%. Trong tổng vốn đăng ký bổ sung cho các dự án của các địa phương, Bà Rịa-Vũng Tàu dẫn đầu với 3,8 tỷ USD, chiếm 78,1%.
Một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong 10 tháng có vốn cấp mới vào Việt Nam đạt cao là: Hoa Kỳ với 4256,4 triệu USD, chiếm 30,3% tổng vốn đăng ký mới; Đảo Cayman 2016,5 triệu USD, chiếm 14,4%; Samoa 1700,6 triệu USD, chiếm 12,1%; Đài Loan 1336,4 triệu USD, chiếm 9,5%; Hàn Quốc 1304,9 triệu USD, chiếm 9,3%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 1066,6 triệu USD, chiếm 7,6%.
Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2009 ước tính bằng 78,2% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 79,2%; thu từ dầu thô bằng 70,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 80,5%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 87,9%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 67%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 75,1%; thuế thu nhập cá nhân bằng 61,2%; thu phí xăng dầu đạt 132,6%; thu phí, lệ phí bằng 69%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2009 ước tính bằng 75,6% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 74% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 73,1%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 78,9%; chi trả nợ và viện trợ bằng 79,2%. Bội chi ngân sách nhà nước 9 tháng năm 2009 ước tính bằng 4,1% tổng sản phẩm trong nước.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 10/2009 ước tính đạt 105,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng đạt 958,3 nghìn tỷ đồng, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2008, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 10,1%. Trong các ngành kinh doanh và dịch vụ, kinh doanh thương nghiệp 10 tháng ước tính đạt 751,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,4% tổng mức, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 108,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,3% và tăng 18,2%; dịch vụ đạt 89,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,3% và tăng 19,6%; du lịch đạt 9,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 0,7%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 10/2009 ước tính đạt 4,8 tỷ USD, tăng 4,5% so với tháng trước và giảm 6,3% so với tháng 10/2008. Tính chung 10 tháng, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu đạt 46,3 tỷ USD, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 22,1 tỷ USD, giảm 8,7%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 24,2 tỷ USD, giảm 18%.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng về lượng xuất khẩu nhưng do giá trên thị trường thế giới thấp nên kim ngạch 10 tháng giảm, trong đó gạo tăng 32,8% về lượng và giảm 7,8% về kim ngạch; cà phê tăng 16,8% về lượng, giảm 17,3% về kim ngạch; dầu thô tăng 8% về lượng, giảm 43% về kim ngạch; than đá tăng 7,1% về lượng, giảm 19,4% về kim ngạch.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 10/2009 ước tính đạt 6,7 tỷ USD, tăng 4,3% so với tháng trước và tăng 15% so với tháng 10/2008. Tính chung 10 tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 55,1 tỷ USD, giảm 21,7% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 35,1 tỷ USD, giảm 24,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 20 tỷ USD, giảm 16,2%.
Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng nguyên, vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước 10 tháng năm nay đều giảm so với cùng kỳ năm trước, một mặt do sản xuất trong nước gặp khó khăn; mặt khác do giá trên thị trường thế giới giảm, trong đó xăng dầu giảm 47,9% (lượng tăng 0,6%); sắt thép giảm 30,7% (lượng tăng 8,2%); nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép giảm 23,2%; phân bón giảm 18,1% (lượng tăng 30,1%); máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 13%; chất dẻo giảm 10,9% (lượng tăng 26,5%); vải giảm 8,6%.
Nhập siêu hàng hóa tháng 10/2009 ước tính 1,9 tỷ USD. Nhập siêu 10 tháng năm 2009 đạt 8,8 tỷ USD, bằng 19% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu và bằng 53% cùng kỳ năm trước.
Giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2009 tăng 0,37% so với tháng trước, thấp hơn mức tăng 0,62% của tháng 9, trong đó, các nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng 0,77%; giáo dục tăng 0,73%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,55%. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,32% (lương thực tăng 0,03%; thực phẩm tăng 0,49%); may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,22%; dược phẩm, y tế tăng 0,16%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,14%; văn hoá, thể thao, giải trí tăng 0,02%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2009 so với tháng 12/2008 tăng 4,49%; so với cùng kỳ năm trước tăng 2,99%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm nay tăng 7,17% so với bình quân 10 tháng năm 2008.
Chỉ số giá vàng tháng 10/2009 tăng 5,01% so với tháng trước; tăng 35,1% so với tháng 12/2008 và tăng 28,26% so với cùng kỳ năm 2008. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 10/2009 giảm 0,35% so với tháng trước; tăng 5,74% so với tháng 12/2008 và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách 10 tháng ước tính đạt 1637,3 triệu lượt khách, tăng 8,4% và 71,5 tỷ lượt khách.km, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2008. Vận tải hành khách đường bộ 10 tháng ước tính đạt 1478,5 triệu lượt khách, tăng 8,7% và 51,4 tỷ lượt khách.km, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 135,4 triệu lượt khách, tăng 4,5% và 2,7 tỷ lượt khách.km, tăng 3,4%; đường sắt đạt 9,6 triệu lượt khách, tăng 6% và 3,4 tỷ lượt khách.km, giảm 2,2%; vận tải đường không đạt 9,1 triệu lượt khách, tăng 2,9% và 13,6 tỷ lượt khách.km, giảm 2,2%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển 10 tháng ước tính đạt 528 triệu tấn, tăng 4,4% và 148,8 tỷ tấn.km, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vận tải trong nước đạt 505,6 triệu tấn, tăng 5,6% và 52,6 tỷ tấn.km, tăng 4,5%; vận tải ngoài nước đạt 22,4 triệu tấn, giảm 7,5% và 96,2 tỷ tấn.km, tăng 9,3%. Vận tải hàng hoá đường bộ 10 tháng ước tính đạt 385,9 triệu tấn, tăng 5,5% và 19,4 tỷ tấn.km, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2008; đường sông đạt 98,6 triệu tấn, tăng 2,3% và 15,7 tỷ tấn.km, tăng 2,1%; đường biển đạt 36,7 triệu tấn, giảm 1,1% và 110,2 tỷ tấn.km, tăng 9%; đường sắt đạt 6,6 triệu tấn, tăng 2% và 3,2 tỷ tấn.km, giảm 2,6%.
Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại mới của cả nước trong tháng 10/2009 ước tính đạt 3,6 triệu thuê bao, tăng 9,1% so với tháng trước, tính chung 10 tháng đạt 35,7 triệu thuê bao, tăng 63,8% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm 3,8 triệu thuê bao cố định, tăng cao ở mức 68,4% (do một số loại hình dịch vụ cố định mới không dây được đưa vào sử dụng) và 31,9 triệu thuê bao di động, tăng 63,2%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 10/2009 ước tính đạt 117,1 triệu thuê bao, tăng 58,9% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 18 triệu thuê bao cố định, tăng 30,7% và 99,1 triệu thuê bao di động, tăng 65,3%. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông tính đến cuối tháng 10/2009 ước tính đạt 65,9 triệu thuê bao, tăng 53,5% so với cùng thời điểm năm 2008, bao gồm 12 triệu thuê bao cố định, tăng 18,5% và 53,9 triệu thuê bao di động, tăng 64,2%.
Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến cuối tháng 10/2009 ước tính đạt 2,8 triệu thuê bao, tăng 44,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 2 triệu thuê bao, tăng 68,1%. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông 10 tháng ước tính đạt 68,7 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 51,5 nghìn tỷ đồng, tăng 30,2%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta 10 tháng năm nay ước tính đạt 3012,2 nghìn lượt người, giảm 16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1771,3 nghìn lượt người, giảm 19,3%; đến vì công việc 602,9 nghìn lượt người, giảm 16,6%; thăm thân nhân đạt 435,3 nghìn lượt người, giảm 1,8%. Khách quốc tế đến bằng đường hàng không ước tính 2411,4 nghìn lượt người, giảm 13,6%; đến bằng đường biển 57,4 nghìn lượt người, giảm 54,9%, đến bằng đường bộ 543,4 nghìn lượt người, giảm 19,9%.
Lượng khách đến nước ta từ Trung Quốc đạt 411,8 nghìn lượt người, giảm 23,6%; Hoa Kỳ 335 nghìn lượt người, giảm 6,2%; Hàn Quốc 297,5 nghìn lượt người, giảm 24,1%; Nhật Bản 291,7 nghìn lượt người, giảm 12,5%; Đài Loan 222,5 nghìn lượt người, giảm 16,5%; Ôx-trây-li-a 173,2 nghìn lượt người, giảm 13%; Pháp 139,8 nghìn lượt người, giảm 6%; Ma-lai-xi-a 130,6 nghìn lượt người, giảm 7,9%; Thái Lan 125,1 nghìn lượt người, giảm 18,8%.
Thiếu đói
Theo báo cáo sơ bộ 20 ngày đầu tháng 10/2009, cả nước có 24,5 nghìn hộ và 113,3 nghìn nhân khẩu thiếu đói. So với tháng trước, số hộ thiếu đói tăng 3,7% và số nhân khẩu thiếu đói tăng 6,8%, chủ yếu do ảnh hưởng của mưa bão lớn xảy ra trong tháng. Tuy nhiên, nếu so với cùng kỳ năm trước, số hộ thiếu đói chỉ bằng 72,2%; số nhân khẩu thiếu đói bằng 71,7%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm 2009 đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ cho các hộ thiếu đói trên 33 nghìn tấn lương thực và gần 42 tỷ đồng.
Dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Từ 21/9 đến 20/10/2009, trên địa bàn cả nước có 5,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; trên 17 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 823 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 126 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 125 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 14 vụ ngộ độc thực phẩm với 212 người bị ngộ độc. Tính chung 10 tháng, cả nước có 37,1 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 74,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (58 người tử vong); 5,8 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 826 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (17 người tử vong); 1,1 nghìn trường hợp mắc bệnh thương hàn và 73 vụ ngộ độc thực phẩm với 3,6 nghìn người bị ngộ độc (15 người tử vong).
Tình hình dịch cúm A (H1N1) vẫn đang diễn biến phức tạp với tốc độ lây lan nhanh, đặc biệt đã phát hiện các trường hợp nhiễm và tử vong tại một số khu vực nông thôn xa trung tâm thành phố. Tính đến ngày 24/10/2009, cả nước đã ghi nhận 10395 trường hợp dương tính với cúm A (H1N1), trong đó 32 người đã tử vong. Số bệnh nhân đã khỏi và ra viện là 9963 người, các trường hợp còn lại hiện đang được cách ly, điều trị tại các bệnh viện, cơ sở điều trị, giám sát cộng đồng trong tình trạng sức khỏe ổn định.
Trong tháng 10/2009, trên địa bàn cả nước đã phát hiện thêm 2,3 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 20/10/2009 lên 199,7 nghìn người, trong đó 78,6 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và hơn 44 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Thiệt hại do thiên tai
Bão, lũ xảy ra cuối tháng 9, đầu tháng 10/2009 gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản trên địa bàn một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Các tỉnh, thành phố bị thiệt hại nặng do thiên tai là: Thanh Hoá, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum. Thiên tai đã làm 202 người chết (Kon Tum 50 người, Quảng Ngãi 35 người, Quảng Nam 30 người); hơn 22 nghìn ngôi nhà bị cuốn trôi, trong đó Quảng Nam bị nặng nhất với 15 nghìn ngôi nhà; gần 270 nghìn ngôi nhà bị hư hại và tốc mái; 266 phòng học bị đổ sập, cuốn trôi; 150 nghìn ha lúa và hoa màu, trên 85 nghìn ha cây công nghiệp, cây ăn quả và cây lâm nghiệp bị ngập, hư hỏng; hơn 31 nghìn con gia súc và 656 nghìn con gia cầm bị chết; thiệt hại trên 7600 ha diện tích nuôi trồng với hơn 5 nghìn tấn thuỷ sản.
Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng qua ước tính 16,1 nghìn tỷ đồng, trong đó Quảng Ngãi thiệt hại lớn nhất với 4,9 nghìn tỷ đồng; Quảng Nam 3,5 nghìn tỷ đồng; Kon Tum 3,1 nghìn tỷ đồng; Quảng Trị 1,9 nghìn tỷ đồng.
Để giúp nhân dân các địa phương nhanh chóng khắc phục hậu quả sau bão, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1559/QĐ-TTg ngày 02/10/2009, theo đó 460 tỷ đồng đã được trích từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2009 và xuất cấp (không thu tiền) 10 nghìn tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia hỗ trợ 8 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Kon Tum.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 9/2009, trên địa bàn cả nước xảy ra 899 vụ tai nạn giao thông, làm chết 813 người và làm bị thương 599 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 10,6%, số người chết giảm 15,2% và số người bị thương tăng 2%.
Tính chung 9 tháng năm 2009, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 9099 vụ tai nạn giao thông, làm chết 8507 người và làm bị thương 5726 người. So với cùng kỳ năm 2008, số vụ tai nạn giao thông giảm 4%; số người chết giảm 1,2% và số người bị thương giảm 7,1%. Bình quân một ngày trong 9 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 33 vụ tai nạn giao thông, làm chết 31 người và làm bị thương 21 người.
Khái quát lại, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu và du lịch; ở trong nước, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất và đời sống của các tầng lớp dân cư, nhờ sự chỉ đạo kiên quyết và điều chỉnh kịp thời mục tiêu kinh tế từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm kinh tế của Đảng, Chính phủ, cùng với nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp nên tình hình kinh tế-xã hội nước ta đã từng bước ổn định và có những chuyển biến tích cực. Sản xuất công nghiệp đạt kết quả khá; kinh tế vĩ mô giữ ổn định; lạm phát được kiềm chế; đời sống dân cư được chăm lo và hỗ trợ kịp thời. Thời gian còn lại của năm 2009 không nhiều, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm, bảo đảm an sinh xã hội, cần tập trung làm tốt một số việc sau đây:
Một là, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm và nhanh chóng đưa vào sử dụng nhằm phát huy hiệu quả đầu tư. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng cường các biện pháp nhằm thu hút mạnh hơn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hai là, sớm có chính sách tài khoá và tiền tệ hợp lý để thúc đẩy quá trình cấu trúc lại doanh nghiệp, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, tạo cơ sở quan trọng thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các doanh nghiệp được hưởng nguồn vốn vay hỗ trợ lãi suất cần sử dụng vốn đúng mục đích, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
Ba là, tăng cường các hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường nội địa; theo dõi sát diễn biến của thị trường thế giới có ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa trong nước để kịp thời đề ra giải pháp phù hợp, giữ bình ổn giá đối với các mặt hàng thiết yếu trong những tháng cuối năm và dịp Tết Nguyên đán nhằm ngăn ngừa lạm phát tăng cao.
Bốn là, tận dụng tối đa những thuận lợi từ các Hiệp định, thỏa thuận kinh tế song phương nhằm đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh; khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các đợt hạ giá bán sản phẩm, tổ chức đưa hàng Việt về nông thôn để kích cầu tiêu dùng.
Năm là, thực hiện tốt công tác chăm lo các đối tượng chính sách, người nghèo và nhân dân ở những vùng khó khăn; theo dõi sát tình hình đời sống, việc làm của người lao động để kịp thời có chính sách hỗ trợ. Khẩn trương hoàn thành và sớm đưa vào sử dụng những công trình nhà ở tái định cư, nhà ở cho công nhân có thu nhập thấp và ký túc xá sinh viên; thực hiện có hiệu quả Đề án dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho nông dân.
Tệp đính kèm: