Tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2011
_____________
Bước vào năm 2011, kinh tế thế giới đối mặt với nguy cơ rủi ro khủng hoảng tài khoá tăng cao tại một số nền kinh tế phát triển. Giá dầu thô trên thị trường thế giới tiếp tục tăng gây sức ép lên hầu hết các loại hàng hoá khác. Những yếu tố bất lợi đó tác động làm cho thị trường giá cả trong nước biến động hết sức phức tạp, việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát vì thế gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã và đang chỉ đạo quyết liệt các ngành, các cấp, các địa phương khắc phục khó khăn, nỗ lực thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Kết quả hoạt động của các ngành và lĩnh vực bốn tháng đầu năm như sau:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng Tư chủ yếu là chăm sóc cây trồng vụ đông xuân ở các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa đông xuân và gieo trồng lúa hè thu ở các địa phương phía Nam. Tính đến trung tuần tháng 4/2011, các địa phương phía Bắc đã cơ bản kết thúc gieo cấy lúa đông xuân, diện tích gieo cấy đạt 1129 nghìn ha, bằng 100,5% vụ đông xuân năm trước. Mặc dù lúa hiện đang phát triển tốt nhưng sâu bệnh đã xuất hiện tại một số địa phương thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, trung du miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ làm hơn 15 nghìn ha lúa bị nhiễm bệnh, chủ yếu là các bệnh như: Khô vằn, nghẹt rễ, rêu hại, vàng lá sinh lý và ốc bươu vàng. Các địa phương đang tích cực phun thuốc phòng trừ sâu bệnh, ngăn chặn sự lây lan trên diện rộng, đồng thời theo dõi sát diễn biến của dịch bệnh để chủ động có biện pháp phòng trừ hiệu quả.
Đến ngày 15/4, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1648,7 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 94,4% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1459,9 nghìn ha, chiếm 93% diện tích xuống giống và bằng 95,2%. Theo báo cáo sơ bộ, sản lượng lúa toàn vùng ước tính đạt 10,4 triệu tấn, tăng 108 nghìn tấn so với vụ đông xuân trước, chủ yếu do diện tích tăng 2,9 nghìn ha; năng suất đạt 65,8 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha.
Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đã gieo sạ được 674,3 nghìn ha lúa hè thu, bằng 96,4% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 645,4 nghìn ha, bằng 96,3%. Một số tỉnh có tiến độ gieo sạ nhanh là: Đồng Tháp 176,6 nghìn ha, bằng 108,6%; Cần Thơ 71,5 nghìn ha, bằng 107%.
Gieo trồng các loại cây hàng năm khác nhìn chung đảm bảo tiến độ. Tính đến trung tuần tháng Tư, cả nước gieo trồng được 502,8 nghìn ha ngô, bằng 109,5% cùng kỳ năm trước; 94 nghìn ha khoai lang, bằng 100,8%; 172,1 nghìn ha lạc, bằng 103,2%; 112,3 nghìn ha đậu tương, bằng 87,3%; 447,2 nghìn ha rau đậu, bằng 105,7%.
Chăn nuôi mặc dù có xu hướng tăng nhưng dịch bệnh trên gia súc, gia cầm đang phát sinh tại một số địa phương. Tính đến 24/4/2010, các dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở một số địa phương là: Dịch cúm gia cầm ở Bắc Kạn, Hà Nam, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Tiền Giang; dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Sơn La, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ, Nghệ An, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm Đồng; dịch tai xanh trên lợn ở Nghệ An và Quảng Trị.
Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 4 năm 2011
Lâm nghiệp
Tranh thủ thời tiết thuận lợi, các địa phương đang tập trung trồng rừng vụ xuân, chăm sóc diện tích rừng mới trồng, triển khai công tác khoanh nuôi tái sinh và thực hiện khai thác gỗ theo kế hoạch. Diện tích rừng trồng tập trung tháng Tư ước tính đạt 12,1 nghìn ha, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2010; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 17,2 triệu cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 354 nghìn m3, tăng 7,2%; sản lượng củi khai thác 2,68 triệu ste, tăng 3%. Tính chung bốn tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung đạt 33,1 nghìn ha, bằng 87% cùng kỳ năm trước; số cây trồng phân tán 77,5 triệu cây, tăng 1%; sản lượng gỗ khai thác 1310,5 nghìn m3, tăng 6,6%; sản lượng củi khai thác 9,7 triệu ste, tăng 2,7%.
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Tư là 27,5 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy 12,4 ha, diện tích rừng bị chặt phá 15,1 ha. Tính chung bốn tháng đầu năm, diện tích rừng bị thiệt hại trên cả nước là 124,2 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy 52,3 ha, diện tích bị chặt phá 61,9 ha.
Thuỷ sản
Sản lượng thủy sản tháng Tư ước tính đạt 396,3 nghìn tấn, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 315 nghìn tấn, tăng 3,2%; tôm đạt 32,7 nghìn tấn, tăng 3,5%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Tư ước tính đạt 190,3 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó cá 156 nghìn tấn, tăng 6,3%; tôm 24 nghìn tấn, tăng 4,3%. Mặc dù giá cá tra nguyên liệu vẫn duy trì ở mức cao nhưng do giá cả biến động thất thường, giá nguyên liệu đầu vào tăng nên chưa khuyến khích các hộ đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi. Nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng thâm canh phát triển tương đối tốt, quá trình nuôi được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm chất lượng con giống và thời điểm thả nuôi nên dịch bệnh ít xảy ra. Một số địa phương có diện tích thả nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng tăng là: Cà Mau 270 nghìn ha, tăng 1%; Sóc Trăng 28 nghìn ha, tăng 3%; Bạc Liêu 116 nghìn ha, tăng 5,5%.
Hoạt động khai thác thủy sản mặc dù thuận lợi về thời tiết, nhưng giá xăng dầu tăng cao nên đánh bắt xa bờ gặp một số khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác. Nhiều tàu thuyền ở một số địa phương như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Bình Thuận… phải chuyển sang đánh bắt gần bờ. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Tư ước tính đạt 206 nghìn tấn, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 195,8 nghìn tấn, tăng 0,6%. Tính chung bốn tháng đầu năm, sản lượng thuỷ sản đạt 1497,4 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Sản lượng nuôi trồng đạt 676,6 nghìn tấn, tăng 5,3%; sản lượng khai thác đạt 820,8 nghìn tấn, tăng 1,4%.
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 4/2011 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: khu vực kinh tế nhà nước tăng 3,9% (Trung ương quản lý tăng 4,2%; địa phương quản lý tăng 2,3%); khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 17,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,5%. Tính chung bốn tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: khu vực kinh tế nhà nước tăng 5,1% (Trung ương quản lý tăng 5,4%; địa phương quản lý tăng 3,8%); khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,7%.
Trong bốn tháng đầu năm, một số ngành sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất đồ uống không cồn tăng 39%; sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 38,5%; sản xuất đường tăng 35,7%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 21,6%; sản xuất sắt, thép tăng 20,7%. Một số ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá là: Sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 18,1%; sản xuất giày, dép; sản xuất giấy nhăn và bao bì cùng tăng 17,2%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 16,9%; sản xuất các sản phẩm khác từ plastic tăng 15,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 12,7%; sản xuất bia tăng 12,4%. Một số ngành có tốc độ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 11,9%; sản xuất xi măng tăng 11%; sản xuất mô tô, xe máy; sản xuất, tập trung và phân phối điện cùng tăng 9,9%; sản xuất thuốc lá tăng 9,5%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,5%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 5,6%; khai thác, thu gom than cứng tăng 4,3%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 3,9%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 3,4%; chế biến và bảo quản rau quả giảm 6,6%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 9,8%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 20,3%.
Cũng trong bốn tháng đầu năm nay, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu đạt sản lượng tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Bình đun nước nóng tăng 78,7%; đường kính tăng 34,7%; khí hoá lỏng tăng 32,5%; máy giặt tăng 24,9%; xe chở khách tăng 21,8%; sơn hoá học tăng 18,8%; sữa bột tăng 18,5%; quần áo người lớn tăng 17,6%; giầy thể thao tăng 17%. Một số sản phẩm công nghiệp tăng khá là: Giấy, bìa tăng 13,8%; thuỷ hải sản chế biến tăng 12,4%; vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 12,1%; xi măng tăng 11,5%; điện sản xuất tăng 9,4%; thuốc lá tăng 9,4%; bia tăng 9,2%; xe máy tăng 9%. Một số sản phẩm công nghiệp tăng thấp hoặc giảm như: Thép tròn tăng 8%; dầu thực vật tinh luyện tăng 7,9%; nước sạch tăng 7,4%; kính thủy tinh tăng 6,9%; phân hoá học tăng 5%; giày, dép, ủng bằng da giả tăng 4,5%; than đá khai thác tăng 3,1%; dầu thô khai thác tăng 2,3%; gạch lát ceramic tăng 2,2%; vải dệt từ sợi bông tăng 1,4%; xà phòng giặt giảm 0,6%; ti vi giảm 1,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 1,3%; gạch xây bằng đất nung giảm 4,6%; lốp ô tô, máy kéo giảm 4,8%; điều hoà nhiệt độ giảm 6,7%; tủ lạnh, tủ đá giảm 22,1%; ô tô tải giảm 29,8%.
Chỉ số tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ba tháng đầu năm 2011 tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Đồ uống không cồn tăng 57%; đồ gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 32,1%; xe có động cơ tăng 30,1%; các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 26,9%; xay xát, sản xuất bột thô tăng 18,6%; các sản phẩm bơ, sữa tăng 18,1%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng khá là: Giày, dép tăng 13,8%; các sản phẩm khác từ plastic tăng 12,7%; phân bón và hợp chất nitơ tăng 11,3%; sợi và dệt vải tăng 11,2%; xi măng tăng 10,7%; thức ăn gia súc tăng 9,3%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng chậm hoặc giảm là: Chế biến, bảo quản thủy sản tăng 7,7%; giấy nhăn và bao bì tăng 4,8%; sắt, thép tăng 5%; thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 4,7%; chế biến và bảo quản rau quả giảm 9,2%; mô tô, xe máy giảm 11,7%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/4/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo so với cùng thời điểm năm trước tăng 5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm là: Ngành sản xuất xe có động cơ giảm 3,5%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 4,2%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa giảm 6,9%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 10,3%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 11,2%; sản xuất gạch ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa giảm 20,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 314,2%; sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa tăng 81,4%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 80,4%; sản xuất bia tăng 62%; sản xuất giày dép tăng 44,7%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 42,5%; sản xuất sắt thép tăng 36,4%.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Đầu tư
Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước thực hiện tháng Tư ước tính 16402 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương đạt 2981 tỷ đồng; vốn địa phương đạt 13421 tỷ đồng. Tính chung bốn tháng đầu năm nay, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thực hiện 56,6 nghìn tỷ đồng, bằng 30,2% kế hoạch năm và tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2010, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 11129 tỷ đồng, bằng 26,6% kế hoạch năm và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 1839 tỷ đồng, bằng 24,9% và tăng 9%; Bộ Công Thương 974 tỷ đồng, bằng 23,9% và giảm 6,4%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 785 tỷ đồng, bằng 21,4% và giảm 35,1%; Bộ Y tế 276 tỷ đồng, bằng 30,7% và giảm 3,1%; Bộ Xây dựng 239 tỷ đồng, bằng 24,3% và giảm 24%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 213 tỷ đồng, bằng 23,8% và giảm 2,2%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 142 tỷ đồng, bằng 25,5% và giảm 6,6%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 45432 tỷ đồng, bằng 31,2% kế hoạch năm và tăng 20,3% so với cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn là: Hà Nội đạt 4220 tỷ đồng, bằng 21% kế hoạch năm và tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước; Thành phố Hồ Chí Minh 3295 tỷ đồng, bằng 23,4% và tăng 8,2%; Đà Nẵng 2630 tỷ đồng, bằng 45,9% và tăng 61,9%; Thanh Hóa 1830 tỷ đồng, bằng 37,7% và tăng 61,2%; Hậu Giang 1214 tỷ đồng, bằng 57,7% và tăng 44,7%; Thừa Thiên-Huế 1082 tỷ đồng, bằng 39,4% và tăng 3,3%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1023 tỷ đồng, bằng 31,5% và tăng 8%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 22/4/2011 đạt 4024,1 triệu USD, bằng 52,2% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 3205,4 triệu USD của 262 dự án được cấp phép mới (giảm 54,9% về vốn và giảm 41,3% về số dự án so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 818,7 triệu USD của 88 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện bốn tháng đầu năm ước tính đạt 3620 triệu USD, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2010.
Trong bốn tháng đầu năm nay, cả nước có 33 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu về vốn đăng ký với 1082,7 triệu USD, chiếm 33,8% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Hà Nội 372,9 triệu USD, chiếm 11,6%; Ninh Thuận 266 triệu USD, chiếm 8,3%; Bắc Giang 254,5 triệu USD, chiếm 7,9%; Đà Nẵng 235,7 triệu USD, chiếm 7,4%.
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam bốn tháng đầu năm, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 1095 triệu USD, chiếm 34,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) 515,4 triệu USD, chiếm 16,1%; Ma-lai-xi-a 343,6 triệu USD, chiếm 10,7%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 255,3 triệu USD, chiếm 8%; Xa-moa 250 triệu USD, chiếm 7,8%; Hàn Quốc 210,1 triệu USD, chiếm 6,6%; Nhật Bản 167,4 triệu USD, chiếm 5,2%.
Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thực hiện
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 22/4/2011
Thu, chi ngân sách nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2011 ước tính 190,1 nghìn tỷ đồng, bằng 31,9% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa là 123,6 nghìn tỷ đồng, bằng 32,4%; thu từ dầu thô 26,7 nghìn tỷ đồng, bằng 38,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 38,3 nghìn tỷ đồng, bằng 27,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước bằng 32,3%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 29,6%; thu thuế công, thương nghiệp ngoài nhà nước bằng 32%; thuế thu nhập cá nhân bằng 35,6%; thu phí xăng dầu bằng 27,4%; thu phí, lệ phí bằng 23,2%.
Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2011 ước tính 202,2 nghìn tỷ đồng, bằng 27,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 45,6 nghìn tỷ đồng, bằng 30,0%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính 130,4 nghìn tỷ đồng, bằng 29,5%; chi trả nợ và viện trợ 26 nghìn tỷ đồng, bằng 30,6%.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư ước tính đạt 153,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước. Tính chung bốn tháng đầu năm, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 605,6 nghìn tỷ đồng, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 7,7%. Trong đó, kinh doanh thương nghiệp đạt 478 nghìn tỷ đồng, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú, ăn uống 68,3 nghìn tỷ đồng, tăng 25,7%; dịch vụ 53,2 nghìn tỷ đồng, tăng 18,5%; du lịch 6,1 nghìn tỷ đồng, tăng 20,5%.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 4/2011 ước tính đạt 7,3 tỷ USD, giảm 2% so với tháng trước và tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bốn tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 26,9 tỷ USD, tăng 35,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 11,7 tỷ USD, tăng 34%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,2 tỷ USD, tăng 37%.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu bốn tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do đơn giá tăng và lượng xuất khẩu một số mặt hàng tăng. Trong đó, hàng dệt may đạt 3,9 tỷ USD, tăng 33,1%; dầu thô 2,5 tỷ USD, tăng 41,4%; giày dép đạt 1,7 tỷ USD, tăng 26,4%; thủy sản đạt 1,6 tỷ USD, tăng 27,8%; cà phê đạt 1,4 tỷ USD, tăng 111,9% (Lượng tăng 37,3%); máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 1,1 tỷ USD, tăng 23,7%; cao su đạt 913 triệu USD, tăng 115,2% (Lượng tăng 32,9%); sắt thép đạt 520 triệu USD, tăng 57,9% (Lượng tăng 25,4%); sắn và các sản phẩm của sắn đạt 515 triệu USD, tăng 119,9% (Lượng tăng 72,6%). Nếu tính 10 mặt hàng chủ yếu có lượng theo giá bình quân bốn tháng đầu năm 2010 thì kim ngạch hàng hóa xuất khẩu bốn tháng đầu năm nay chỉ tăng 25,3%.
Về thị trường xuất khẩu ba tháng đầu năm, EU là thị trường lớn nhất với 3,5 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 48,5% so với cùng kỳ năm trước; Hoa Kỳ đạt 3,5 tỷ USD, chiếm 17,6% và tăng 21,6%; ASEAN đạt 2,9 tỷ USD, chiếm 14,9% và tăng 15,1%; Trung Quốc 2,2 tỷ USD, chiếm 11% và tăng 52,4%; Nhật Bản 2 tỷ USD, chiếm 10,3% và tăng 19,6%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 4/2011 ước tính đạt 8,7 tỷ USD, giảm 1,8% so với tháng trước và tăng 30% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bốn tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 31,8 tỷ USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 17,9 tỷ USD, tăng 24,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,9 tỷ USD, tăng 35,5%.
Kim ngạch nhập khẩu bốn tháng đầu năm tăng một mặt do lượng nhập khẩu hầu hết các mặt hàng đều tăng, đặc biệt là nhóm hàng liên quan đến nguyên liệu, gia công lắp ráp. Mặt khác do đơn giá nhập khẩu tăng mạnh và đồng đô la Mỹ bị mất giá so với hầu hết các đồng tiền khác, trong đó giá bông tăng 99%; sợi tăng 39,2%; xăng dầu tăng 39,3%; khí đốt hóa lỏng tăng 31,4%; sắt thép tăng 28,3% và giá lúa mỳ tăng 39,3%. Nếu tính các mặt hàng nhập khẩu có lượng theo đơn giá bình quân cùng kỳ năm trước thì kim ngạch hàng hóa nhập khẩu bốn tháng đầu năm nay tăng khoảng 19%.
Trong bốn tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 4,7 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu 3,6 tỷ USD tăng 64,2%; vải 2,1 tỷ USD, tăng 42,1%; sắt thép 2 tỷ USD, tăng 17,2%; điện tử, máy tính và linh kiện 1,8 tỷ USD, tăng 29,3%; chất dẻo 1,5 tỷ USD, tăng 39,6%; nguyên phụ liệu dệt may giày dép 915 triệu USD, tăng 20,8%; ôtô 1 tỷ USD, tăng 25,7%, trong đó ôtô nguyên chiếc 400 triệu USD, tăng 75,2%.
Về thị trường nhập khẩu, Trung Quốc vẫn dẫn đầu với tổng kim ngạch trong ba tháng đầu năm đạt 5 tỷ USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2010; tiếp đến là ASEAN với 4,8 tỷ USD, tăng 34%; Nhật Bản 2,3 tỷ USD, tăng 24%; EU 1,5 tỷ USD, tăng 0,4%; Hoa Kỳ 1 tỷ USD, tăng 29%.
Nhập siêu tháng 4/2011 ước tính 1,4 tỷ USD, bằng 19,2% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu bốn tháng đầu năm là 4,9 tỷ USD, bằng 18,2% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Hàng hóa xuất khẩu
Hàng hóa nhập khẩu
Chỉ số giá tiêu dùng
Giá tiêu dùng tháng 4/2011 tăng 3,32% so với tháng trước, mức tăng cao nhất kể từ tháng 3/2008. Giá tiêu dùng tăng cao do ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong và ngoài nước, trong đó việc điều chỉnh tăng giá xăng, dầu trong nước cuối tháng trước là một trong những nguyên nhân chủ yếu tác động đến giá của nhiều loại hàng hóa và dịch vụ. Trong tháng Tư, hầu hết các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tiêu dùng tăng so với tháng trước, trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất với 6,04%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,5% (Lương thực tăng 2,47%; thực phẩm tăng 5,61%; ăn uống ngoài gia đình tăng 3,31%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 4,38%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có mức tăng trên, dưới 1% là: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,63%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,38%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 1,31%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,03%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,01%; giáo dục tăng 0,29%; bưu chính viễn thông tăng 0,02%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2011 so với tháng 12/2010 tăng 9,64%; so với cùng kỳ năm trước tăng 17,51%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân bốn tháng đầu năm so với bình quân cùng kỳ năm 2010 tăng 13,95%.
Chỉ số giá vàng tháng 4/2011 giảm 1,2% so với tháng trước; tăng 3,33% so với tháng 12/2010 và tăng 40,7% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2011 giảm 1,61% so với tháng trước; tăng 2,03% so với tháng 12/2010 và tăng 10,55% so với cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 4 năm 2011
Vận tải hành khách và hàng hoá
Vận tải hành khách bốn tháng đầu năm ước tính đạt 879,6 triệu lượt khách, tăng 13% và 39,1 tỷ lượt khách.km, tăng 13,0% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải hành khách đường bộ ước tính đạt 805,8 triệu lượt khách, tăng 13,6% và 28,2 tỷ lượt khách.km, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 62,9 triệu lượt khách, tăng 6,1% và 1,3 tỷ lượt khách.km, tăng 9,1%; đường sắt đạt 3,7 triệu lượt khách, tăng 2,5% và 1,3 tỷ lượt khách.km, tăng 0,7%; đường không đạt 5,1 triệu lượt khách, tăng 17,3% và 8,1 tỷ lượt khách.km, tăng 16,1%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển bốn tháng đầu năm 2011 ước tính đạt 256,2 triệu tấn, tăng 10,0% và 70,7 tỷ tấn.km, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 241,7 triệu tấn, tăng 12,3% và 23,5 tỷ tấn.km, tăng 9,5%; vận tải ngoài nước đạt 14,4 triệu tấn, giảm 1% và 47,1 tỷ tấn.km, giảm 0,8%. Vận tải hàng hoá đường bộ ước tính đạt 195,6 triệu tấn, tăng 12,9% và 10,3 tỷ tấn.km, tăng 10,6%; đường sông đạt 41,3 triệu tấn, tăng 3,6% và 6 tỷ tấn.km, tăng 4,2%; đường biển đạt 16,8 triệu tấn, giảm 2% và 52,9 tỷ tấn.km, tăng 3%; đường sắt đạt 2,4 triệu tấn, giảm 8,4% và 1,3 tỷ tấn.km, tăng 2,5%.
Vận tải hành khách và hàng hoá
Bưu chính, viễn thông
Tổng số thuê bao điện thoại phát triển mới trong bốn tháng đầu năm đạt 3,2 triệu thuê bao, bằng 23% cùng kỳ năm 2010, bao gồm 26,8 nghìn thuê bao cố định, bằng 4% và 3,1 triệu thuê bao di động, bằng 24%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 4/2011 ước tính đạt 174,3 triệu thuê bao, tăng 25% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 16,5 triệu thuê bao cố định, tăng 0,9% và 157,8 triệu thuê bao di động, tăng 28,2%. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông tính đến cuối tháng 4/2011 ước tính đạt 84,3 triệu thuê bao, tăng 12,5% so với cùng thời điểm năm 2010, bao gồm 11,7 triệu thuê bao cố định, tăng 0,3% và 72,6 triệu thuê bao di động, tăng 14,8%.
Số thuê bao internet trên cả nước tính đến cuối tháng 4/2011 ước tính đạt 3,9 triệu thuê bao, tăng 19% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 2,7 triệu thuê bao, tăng 16,2%. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 4/2011 ước tính 29,3 triệu người, tăng 22,6% so với cùng thời điểm năm 2010. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông bốn tháng đầu năm ước tính đạt 38,1 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 24 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong bốn tháng đầu năm ước tính đạt 1971,5 nghìn lượt người, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1163,7 nghìn lượt người, tăng 3%; đến vì công việc 338,2 nghìn lượt người, giảm 3,7%; thăm thân nhân đạt 341,5 nghìn lượt người, tăng 62,8%.
Trong bốn tháng đầu năm, lượng khách quốc tế đến nước ta từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tăng, trong đó khách đến từ Trung Quốc là 375,6 nghìn lượt người, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 187,8 nghìn lượt người, tăng 6,6%; Nhật Bản 177,6 nghìn lượt người, tăng 21%; Hoa Kỳ 174,2 nghìn lượt người, tăng 6,8%; Đài Loan 115,8 nghìn lượt người, tăng 1,2%; Ôx-trây-li-a 112,9 nghìn lượt người, tăng 5,7%; Cam-pu-chia 100,1 nghìn lượt người, tăng 24,6%; Pháp 81,8 nghìn lượt người, tăng 6,3%; Ma-lai-xi-a 69,4 nghìn lượt người, tăng 12,2%; Anh 54 nghìn lượt người, tăng 5%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Một số vấn đề xã hội
Lao động, việc làm
Theo kết quả sơ bộ của điều tra lao động, việc làm ba tháng đầu năm 2011, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 51,1 triệu người, tăng 230,5 nghìn người so với lực lượng lao động trung bình của năm 2010. Trong đó, nam là 26,3 triệu người, tăng 182,3 nghìn người; nữ là 24,8 triệu người, tăng 48,2 nghìn người. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động cả nước là 46,2 triệu người, giảm 223,2 nghìn người so với số bình quân năm trước. Trong đó, nam là 24,6 triệu người, tăng 19,3 nghìn người; nữ là 21,6 triệu người, giảm 242,5 nghìn người.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 76,5%, trong đó tỷ lệ tham gia của nam là 81,2%; tỷ lệ tham gia của nữ là 72,1%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 83%, trong đó tỷ lệ tham gia của nam là 86,1%; tỷ lệ tham gia của nữ là 79,9%.
Cũng theo kết quả của điều tra trên, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,4%, trong đó khu vực thành thị là 3,67%; khu vực nông thôn là 1,85%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 3,89%, trong đó khu vực thành thị là 2,38%; khu vực nông thôn là 4,55%.
Theo kết quả điều tra lao động của 4222 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, lao động của số doanh nghiệp trên vào thời điểm 01/4/2011 tăng 0,7% so với cùng thời điểm tháng trước. Trong đó, lao động của doanh nghiệp nhà nước tăng 0,3%, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,9% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,7%. Trong ba ngành công nghiệp cấp I, lao động ngành khai thác tăng 0,1%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,8%; ngành điện, nước giữ ổn định.
Biến động lao động ngành công nghiệp tại thời điểm 01/4/2011 so với cùng thời điểm tháng trước của một số tỉnh, thành phố có quy mô sản xuất công nghiệp lớn như sau: Hải Dương tăng 3,6%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 2%; Đồng Nai tăng 1,1%; Hải Phòng tăng 0,8%; Bình Dương tăng 0,7%; Bắc Ninh tăng 0,4%; Hà Nội tăng 0,1%; Vĩnh Phúc giảm 1,5%.
Thiếu đói trong nông dân
Theo báo cáo sơ bộ, trong tháng Tư có khoảng 76 nghìn hộ thiếu đói với 326,8 nghìn nhân khẩu thiếu đói. So với cùng kỳ năm 2010, số hộ thiếu đói giảm 66,2% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 55,3%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành và đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 13,9 nghìn tấn lương thực và 2,6 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng 4/2011, trên địa bàn cả nước có 2,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 74 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 163 trường hợp mắc cúm A (H1N1) (6 trường hợp tử vong) và 36 trường hợp mắc bệnh thương hàn. Tính chung bốn tháng đầu năm, cả nước có 11,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 174 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 437 trường hợp mắc cúm A (H1N1) (11 trường hợp tử vong) và 100 trường hợp mắc bệnh thương hàn.
Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn cả nước tiếp tục gia tăng. Trong tháng đã phát hiện thêm hơn 1 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng 4/2011 lên 236,1 nghìn người, trong đó 94,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 50,1 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Theo báo cáo của các địa phương, trong tháng Tư đã xảy ra 5 vụ ngộ độc thực phẩm làm 37 người bị ngộ độc, trong đó 2 trường hợp tử vong. Tính chung bốn tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 22 vụ ngộ độc thực phẩm làm 1,4 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 6 trường hợp tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 3/2011, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1089 vụ tai nạn giao thông, làm chết 921 người và làm bị thương 813 người. So với cùng kỳ năm 2010, số vụ tai nạn giao thông tăng 12,6%; số người chết tăng 16,4%; số người bị thương tăng 22,1%. Tính chung ba tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 3557 vụ tai nạn giao thông, làm chết 3004 người và làm bị thương 2753 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 1,2%, số người chết tăng 4,3%, số người bị thương tăng 4%. Bình quân một ngày trong ba tháng đầu năm 2011, cả nước có 40 vụ tai nạn giao thông, làm chết 33 người và làm bị thương 31 người.
Khái quát lại, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước bốn tháng đầu năm 2011 gặp nhiều khó khăn do lạm phát tăng cao. Giá cả nhiên liệu, lương thực, thực phẩm trên thế giới biến động phức tạp, tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế và mục tiêu kiềm chế lạm phát của nước ta. Trong thời gian tới, các ngành, các cấp và các địa phương cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ thực hiện quyết liệt và hiệu quả hơn nữa Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Chính phủ, tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau đây:
Một là, khắc phục khó khăn, tận dụng cơ hội để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nhằm bảo đảm cân đối cung-cầu hàng hóa trên thị trường trong nước. Kiểm soát chặt chẽ dòng vốn FDI đầu tư vào khu vực bất động sản để tránh xảy ra tình trạng giá bong bóng trên thị trường gây mất ổn định vĩ mô. Khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là các siêu thị lớn, các đầu mối phân phối và cung cấp sản phẩm đẩy mạnh triển khai hoạt động khuyến mãi, giảm giá, công khai giá và bán hàng theo giá niêm yết.
Hai là, tiếp tục xúc tiến thương mại trên cơ sở đẩy mạnh mối liên danh liên kết giữa doanh nghiệp, người sản xuất và các tổ chức Hiệp hội ngành hàng, đồng thời tăng cường năng lực sản xuất nội địa và tính cạnh tranh của hàng nội địa về giá cả, mẫu mã, tính năng nhằm một mặt thúc đẩy xuất khẩu hàng nội địa ra thị trường thế giới, mặt khác thu hút người tiêu dùng trong nước dùng hàng Việt Nam, nhờ đó giảm nhập siêu.
Ba là, trong việc thực hiện rà soát đầu tư xây dựng cơ bản, để mục tiêu giảm chi tiêu công đạt hiệu quả cao hơn, một mặt cần sớm xây dựng tiêu chí rõ ràng quy định việc ngừng, đình hoãn, dãn tiến độ hoặc tiếp tục triển khai đối với các công trình, dự án từ nguồn vốn ngân sách, trên cơ sở đó áp dụng thống nhất cho các Bộ, ngành và địa phương. Mặt khác, các chủ đầu tư cần thực hiện ngay việc ngừng, đình hoãn hoặc dãn tiến độ đối với các công trình, dự án đã có kết luận cụ thể sau rà soát.
Bốn là, tập trung chỉ đạo tăng cường công tác dạy nghề dưới nhiều hình thức tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề trên cả nước. Đẩy mạnh phát triển làng nghề để tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư. Tiếp tục chăm lo đời sống cho các hộ nghèo, gia đình và đối tượng chính sách. Xây dựng cơ chế, chính sách kịp thời và phù hợp trong xuất khẩu lao động, đi đôi với quan tâm bảo vệ quyền lợi cho người lao động xuất khẩu.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ