Tình hình kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm
________
Kinh tế - xã hội nước ta năm tháng đầu năm 2011 diễn ra trong điều kiện gặp nhiều khó khăn do giá hàng hóa trên thị trường thế giới tăng, giá cả hầu hết các mặt hàng trong nước ở mức cao. Để thực hiện mục tiêu ưu tiên số một là kiềm chế lạm phát, các ngành, các cấp, tập đoàn kinh tế và địa phương trên cả nước đã và đang nỗ lực triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp theo tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Chính phủ. Tình hình kinh tế vĩ mô bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm tháng đầu năm của các ngành và lĩnh vực cụ thể như sau:
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Hoạt động sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào chăm sóc lúa đông xuân ở các địa phương phía Bắc, thu hoạch lúa đông xuân và xuống giống lúa hè thu ở các địa phương phía Nam.
Tính đến 15/5/2011, các địa phương phía Bắc đã kết thúc gieo trồng lúa đông xuân, diện tích ước tính đạt 1149,8 nghìn ha, bằng 100,2% vụ đông xuân năm trước. Mặc dù diễn biến thời tiết tương đối thuận cho sự sinh trưởng của lúa nhưng sâu bệnh đã xuất hiện rải rác ở một số địa phương, làm 68,5 nghìn ha lúa bị nhiễm bệnh, chủ yếu là bệnh khô vằn và bệnh đạo ôn. Các địa phương đang tích cực phun thuốc phòng trừ nhằm ngăn chặn sự lây lan của sâu bệnh trên diện rộng. Theo đánh giá ban đầu, năng suất lúa đông xuân của các địa phương phía Bắc ước tính đạt 58,6 tạ/ha, bằng 98,5% vụ đông xuân năm trước.
Tính đến trung tuần tháng Năm, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1973,3 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 103,1% cùng kỳ năm trước. Các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch xong lúa đông xuân, năng suất ước tính đạt 66,9 tạ/ha, bằng 101,9% cùng kỳ năm trước và sản lượng đạt 10,5 triệu tấn, bằng 102,1%.
Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đã gieo sạ được 1251,7 nghìn ha lúa hè thu, xấp xỉ cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1150,8 nghìn ha, bằng 103%.
Gieo trồng các cây trồng khác cũng đang được đẩy nhanh tiến độ. Tính đến thời điểm trên, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 675,7 nghìn ha ngô, bằng 95,6% cùng kỳ năm trước; 98,3 nghìn ha khoai lang, bằng 96,1%; 179,3 nghìn ha lạc, bằng 100,8%; 116,9 nghìn ha đậu tương, bằng 82,9%; 501,9 nghìn ha rau đậu, bằng 98,6%.
Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/4/2011, đàn lợn cả nước có 26,3 triệu con, giảm 3,8% so với cùng thời điểm năm 2010; đàn trâu, bò có hơn 8,5 triệu con, giảm 4,6%; đàn gia cầm có 293,7 triệu con, tăng 5,9%. Tính đến ngày 24/5/2011, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh là: Dịch cúm gia cầm ở Lạng Sơn và Vĩnh Long; dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Quảng Ninh và Đắk Lắk; dịch tai xanh trên lợn ở Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Nghệ An.
Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 5 năm 2011
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung cả nước tháng Năm ước tính đạt 12 nghìn ha; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 13,2 triệu cây; sản lượng gỗ khai thác 346 nghìn m3. Tính chung năm tháng đầu năm 2011, diện tích rừng trồng tập trung đạt 45,1 nghìn ha, bằng 91,8% cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 90,7 triệu cây, tăng 1,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1656,5 nghìn m3, tăng 11,9%. Trong năm tháng đầu năm, diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá là 354,9 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy 200,4 ha; diện tích rừng bị chặt phá 154,5 ha. Các địa phương có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Kon Tum 158,3 ha; Bắc Giang 38,5 ha.
Thủy sản
Sản lượng thuỷ sản tháng Năm ước tính đạt 493 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 406 nghìn tấn, tăng 4%; tôm đạt 34,5 nghìn tấn, tăng 4,5%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Năm ước tính đạt 284 nghìn tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 247 nghìn tấn, tăng 5,2%; tôm đạt 25,5 nghìn tấn, tăng 5,4%. Nuôi trồng cá tra đang đối mặt với những khó khăn về vốn, trong khi chi phí đầu vào tăng cao cùng với những quy định ngày càng khắt khe của thị trường nhập khẩu. Do đó mặc dù giá cá tra đang ở mức cao nhưng người nuôi chưa yên tâm đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi. Nuôi tôm mặc dù được kiểm soát chặt chẽ nhưng do thời tiết nắng nóng làm thay đổi nhiệt độ và độ mặn nguồn nước thả nuôi dẫn đến dịch bệnh xuất hiện và có xu hướng lan rộng. Một số địa phương có diện tích thả nuôi tôm nhiễm bệnh nhiều là: Sóc trăng 17 nghìn ha, chiếm 61% diện tích thả nuôi; Trà Vinh gần 6 nghìn ha, chiếm 30%; Long An gần 2 nghìn ha, chiếm 48%; Phú Yên 414 ha; chiếm 27%. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Năm ước tính 209 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 193,4 nghìn tấn, tăng 1,4%.
Tính chung năm tháng đầu năm, tổng sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 1990,4 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm sản lượng nuôi trồng đạt 960,6 nghìn tấn, tăng 5,4%; sản lượng khai thác đạt 1029,8 nghìn tấn, tăng 1,4% (khai thác biển đạt 959,2 nghìn tấn, tăng 1,5%), trong đó cá ngừ đại dương 7,3 nghìn tấn, tăng 1,8%.
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng Năm theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: khu vực kinh tế Nhà nước tăng 5,2% (Trung ương quản lý tăng 5,6%; địa phương quản lý tăng 3,1%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 17%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,9%. Tính chung năm tháng đầu năm 2011, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: khu vực kinh tế Nhà nước tăng 5,2% (Trung ương quản lý tăng 5,5%; địa phương quản lý tăng 3,7%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 17,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,9%.
Trong năm tháng đầu năm, một số ngành sản phẩm công nghiệp có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất đường tăng 44,9%; sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 39,2%; sản xuất bột thô tăng 29,7%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 26,3%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 25,8%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 19,6%; sản xuất sắt, thép tăng 18,7%. Một số ngành sản phẩm có tốc độ tăng khá là: Sản xuất sợi và dệt vải tăng 17,9%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 17,4%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 17,2%; sản xuất gạch, ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 15,2%; sản xuất xi măng tăng 15,1%. Một số ngành có tốc độ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất giày, dép tăng 12,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 12%; sản xuất bia tăng 11,9%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 9,6%; sản xuất thuốc lá tăng 9,4%; sản xuất, tập trung và phân phối điện tăng 9,1%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 8,9%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 7,1%; khai thác, lọc và phân phối nước tăng 5,2%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 0,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 0,5%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 6,8%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 11,3%.
Cũng trong năm tháng đầu năm nay, sản lượng nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Bình đun nước nóng tăng 93,2%; đường kính tăng 43,2%; máy giặt tăng 30,4%; khí hoá lỏng tăng 28,8%; sơn hoá học tăng 24,3%. Một số sản phẩm công nghiệp tăng khá là: Quần áo người lớn tăng 17,9%; xe chở khách tăng 16,4%; vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 15,1%; giầy thể thao tăng 15%; xi măng tăng 13,9%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm như: Sữa bột tăng 11,4%; xe máy tăng 11,2%; thuỷ hải sản chế biến tăng 9,6%; điện sản xuất tăng 9,3%; thép tròn tăng 3,8%; dầu thô khai thác tăng 0,5%; xà phòng giặt giảm 3,1%; vải dệt từ sợi bông giảm 4,2%; gạch xây bằng đất nung giảm 4,4%; tủ lạnh, tủ đá giảm 15,4%; ô tô tải giảm 29,8%.
Chỉ số tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bốn tháng đầu năm 2011 tăng 17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 45,4%; đồ uống không cồn tăng 43,6%; đồ gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 43%; xay xát, sản xuất bột thô tăng 21,6%; xe có động cơ tăng 16,8%; các sản phẩm bơ, sữa tăng 15,4%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng khá là: Xi măng tăng 14,2%; phân bón và hợp chất nitơ tăng 14%; chế biến, bảo quản thủy sản tăng 12,8%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng chậm hoặc giảm là: Thức ăn gia súc tăng 11,9%; giày, dép tăng 10,9%; sắt, thép tăng 10,5%; giấy nhăn và bao bì tăng 10,3%; sợi và dệt vải tăng 9,7%; mô tô, xe máy tăng 9,6%; thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 0,4%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 2,2%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 8,5%; chế biến và bảo quản rau quả giảm 8,6%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/5/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,6% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm là: sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 4,6%; ngành sản xuất các sản phẩm thuốc lá, thuốc lào giảm 6,1%; ngành xay xát và sản xuất bột thô giảm 7,8%; ngành chế biến và bảo quản rau quả giảm 8,2%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 9,8%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất bia tăng 98,3%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện tăng 75,9%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 49,5%; sản xuất giường tủ bàn ghế tăng 45,6%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 44,8%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 40,5%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 34,3%; sản xuất giày dép tăng 29,9%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 26,2%; sản xuất trang phục (trừ da và lông thú) tăng 26,1%.
Theo kết quả điều tra lao động của 4237 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, lao động của số doanh nghiệp trên tại thời điểm 01/5/2011 tăng 0,7% so với cùng thời điểm tháng trước. Trong đó, lao động của doanh nghiệp nhà nước tăng 0,3%, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,4% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,2%. Trong ba ngành công nghiệp cấp I, lao động ngành khai thác tăng 0,2%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,8%; ngành điện, nước giảm nhẹ 0,1%.
Biến động lao động ngành công nghiệp tại thời điểm 01/5/2011 so với cùng thời điểm tháng trước của một số tỉnh, thành phố có quy mô sản xuất công nghiệp lớn như sau: Hải Dương tăng 2,8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,8%; Bắc Ninh tăng 1,3%; Đồng Nai tăng 0,8%; Bình Dương tăng 0,5%; Vĩnh Phúc tăng 0,1%; Đà Nẵng tăng 0,1%; Hải Phòng giảm 0,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 1,1%.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Đầu tư
Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thực hiện tháng Năm ước tính 17,8 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương đạt 3,8 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương đạt 14 nghìn tỷ đồng. Tính chung năm tháng đầu năm nay, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thực hiện 73,3 nghìn tỷ đồng, bằng 39% kế hoạch năm và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2010, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 15123 tỷ đồng, bằng 36,1% kế hoạch năm và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 2456 tỷ đồng, bằng 33,3% và tăng 4%; Bộ Công Thương 1327 tỷ đồng, bằng 32,5% và giảm 2,3%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1143 tỷ đồng, bằng 31,1% và giảm 29,4%; Bộ Y tế 358 tỷ đồng, bằng 39,9% và giảm 4,9%; Bộ Xây dựng 328 tỷ đồng, bằng 33,4% và giảm 20,4%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 294 tỷ đồng, bằng 32,8% và giảm 3,6%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 205 tỷ đồng, bằng 36,8% và giảm 13,1%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 58236 tỷ đồng, bằng 39,8% kế hoạch năm và tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn là: Hà Nội đạt 6096 tỷ đồng, bằng 30,4% kế hoạch năm và tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước; Thành phố Hồ Chí Minh 4581 tỷ đồng, bằng 32,5% và tăng 9,5%; Đà Nẵng 3393 tỷ đồng, bằng 59,2% và tăng 14,2%; Thanh Hóa 2150 tỷ đồng, bằng 44,2% và tăng 42,9%; Hậu Giang 1579 tỷ đồng, bằng 73,5% và tăng 41,7%; Cần Thơ 1557 tỷ đồng, bằng 55,7% và tăng 31,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1486 tỷ đồng, bằng 45,7% và tăng 1,1%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/5/2011 đạt 4688,1 triệu USD, bằng 51,9% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 3526,5 triệu USD của 313 dự án được cấp phép mới (giảm 57,3% về vốn và giảm 42% về số dự án so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 1161,6 triệu USD của 101 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm tháng đầu năm ước tính đạt 4520 triệu USD, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2010.
Trong năm tháng đầu năm nay, cả nước có 36 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu về vốn đăng ký với 1225,8 triệu USD, chiếm 34,8% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Hà Nội 389,3 triệu USD, chiếm 11%; Ninh Thuận 266 triệu USD, chiếm 7,5%; Bắc Giang 254,5 triệu USD, chiếm 7,2%; Đà Nẵng 239,6 triệu USD, chiếm 6,8%.
Trong số 30 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam năm tháng đầu năm, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 1099,4 triệu USD, chiếm 31,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu HC Hồng Công (TQ) 529,5 triệu USD, chiếm 15%; Ma-lai-xi-a 343,6 triệu USD, chiếm 9,7%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 256,3 triệu USD, chiếm 7,3%; Xa-moa 250 triệu USD, chiếm 7,1%; Hàn Quốc 238,1 triệu USD, chiếm 6,8%; Nhật Bản 231,9 triệu USD, chiếm 6,6%.
Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thực hiện
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 20/5/2011
Thu, chi ngân sách nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến ngày 15/5/2011 ước tính đạt 248 nghìn tỷ đồng, bằng 41,7% dự toán năm, trong đó thu nội địa 160,4 nghìn tỷ đồng, bằng 42%; thu từ dầu thô 36,2 nghìn tỷ đồng, bằng 52,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 49,4 nghìn tỷ đồng, bằng 35,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước bằng 41,5% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 37,3%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 40,8%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 47,4%; thu phí xăng dầu bằng 35,4%; thu phí, lệ phí bằng 30,8%.
Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2011 ước tính 270,3 nghìn tỷ đồng, bằng 37,3% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 61 nghìn tỷ đồng, bằng 40,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 58,3 nghìn tỷ đồng, bằng 40,1%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể 172 nghìn tỷ đồng, bằng 38,9%; chi trả nợ và viện trợ 37,2 nghìn tỷ đồng, bằng 43,3%.
Thương mại, giá cả và dịch vụ
Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Năm ước tính đạt 156 nghìn tỷ đồng, tăng 0,68% so với tháng trước. Tính chung năm tháng đầu năm, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 762,7 nghìn tỷ đồng, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 6,4%. Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 601 nghìn tỷ đồng, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú, ăn uống 86,6 nghìn tỷ đồng, tăng 18,1%; dịch vụ 67,6 nghìn tỷ đồng, tăng 19,9%; du lịch 7,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,6%.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Năm ước tính đạt 7,5 tỷ USD, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 34,7 tỷ USD, tăng 32,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 15,7 tỷ USD, tăng 31,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 19 tỷ USD, tăng 34,2%.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm tháng đầu năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước một mặt do đơn giá bình quân một số mặt hàng tăng, mặt khác do lượng xuất khẩu tăng. Kim ngạch xuất khẩu cà phê năm tháng tăng 121,7% so với cùng kỳ năm trước (lượng tăng 40,6%); cao su tăng 113% (lượng tăng 31,1%); hàng dệt, may tăng 35,6%; giày, dép tăng 31,8%; thủy sản tăng 31,1%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 24,5%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 17,6%.
Về thị trường xuất khẩu, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu bốn tháng đầu năm 2011 sang Hoa Kỳ ước tính đạt 4,8 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 22,5% so với cùng kỳ năm trước; EU 4,8 tỷ USD, chiếm 17,6% và tăng 51,2%; ASEAN đạt 4,1 tỷ USD, chiếm 15,1% và tăng 21,1%; Trung Quốc đạt gần 3 tỷ USD, chiếm 11% và tăng 59,3%; Nhật Bản đạt 2,8 tỷ USD, chiếm 10,2% và tăng 24,4%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Năm ước tính đạt 9,2 tỷ USD, tăng 3% so với tháng trước và tăng 28% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 41,3 tỷ USD, tăng 29,7% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 23,7 tỷ USD, tăng 27,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,6 tỷ USD, tăng 32,5%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước năm tháng đầu năm nay tăng cao, trong đó: Xăng dầu đạt 4,6 tỷ USD, tăng 30,1%; vải 2,9 tỷ USD, tăng 44,2%; điện tử, máy tính và linh kiện 2,3 tỷ USD, tăng 27,1%; chất dẻo đạt 1,9 tỷ USD, tăng 37,8%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép 1,2 tỷ USD, tăng 21,8%; ô tô nguyên chiếc tăng 65,4%. Đơn giá nhập khẩu một số mặt hàng tăng cao là một trong những nguyên nhân đẩy kim ngạch nhập khẩu tăng, trong đó: Giá cao su tăng 25%; giá bông tăng 111%; giá sợi dệt tăng 39%; giá sắt thép tăng 28%.
Trong bốn tháng đầu năm nay, kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc đạt cao nhất với 7,1 tỷ USD, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2010; tiếp đến là ASEAN 6,7 tỷ USD, tăng 40%; Nhật Bản 3,1 tỷ USD, tăng 22%; EU 2,1 tỷ USD, tăng 9,3%; Hoa Kỳ đạt 1,3 tỷ USD, tăng 26%.
Nhập siêu tháng 5/2011 ước tính 1,7 tỷ USD, bằng 22,7% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu năm tháng đầu năm là 6,6 tỷ USD, bằng 19% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Hàng hóa xuất khẩu
Hàng hóa nhập khẩu
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2011 tăng 2,21% so với tháng trước, tuy vẫn cao nhưng đã giảm nhiều so với mức tăng 3,32% của tháng trước. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao nhất với 3,19%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,01% (lương thực tăng 1,77%; thực phẩm tăng 3,53%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,67%); giao thông tăng 2,67%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có mức tăng trên, dưới 1% gồm: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,20%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,17%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,97%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,92%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,88%; giáo dục tăng 0,25%. Nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,68%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2011 tăng 12,07% so với tháng 12/2010; tăng 19,78% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tháng đầu năm 2011 tăng 15,09% so với bình quân cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá vàng tháng 5/2011 tăng 1,43% so với tháng trước; tăng 4,8% so với tháng 12/2010 và tăng 40,04% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 5/2011 giảm 0,98% so với tháng trước; tăng 1,03% so với tháng 12/2010 và tăng 10,16% so với cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 5 năm 2011
Vận tải hành khách và hàng hoá
Vận tải hành khách năm tháng đầu năm 2011 ước tính đạt 1112,3 triệu lượt khách, tăng 13,0% và 48,1 tỷ lượt khách.km, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vận tải hành khách đường bộ đạt 1020,5 triệu lượt khách, tăng 13,5% và 35,8 tỷ lượt khách.km, tăng 12,5%; đường sông đạt 78,9 triệu lượt khách, tăng 7,3% và 1,7 tỷ lượt khách.km, tăng 11,1%; đường sắt đạt 4,5 triệu lượt khách, giảm 1,0% và 1,6 tỷ lượt khách.km, giảm 2,2%; đường không đạt 5,8 triệu lượt khách, tăng 15,2% và 8,8 tỷ lượt khách.km, tăng 13,2%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển năm tháng đầu năm ước tính đạt 323,6 triệu tấn, tăng 10,9% và 88,9 tỷ tấn.km, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 305,1 triệu tấn, tăng 12,5% và 29,0 tỷ tấn.km, tăng 9,7%; vận tải ngoài nước đạt 18,4 triệu tấn, tăng 0,5% và 59,9 tỷ tấn.km, tăng 1,6%. Vận tải hàng hoá đường bộ năm tháng ước tính đạt 246,4 triệu tấn, tăng 13,0% và 13,1 tỷ tấn.km, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2010; đường sông đạt 51,6 triệu tấn, tăng 5,9% và 7,3 tỷ tấn.km, tăng 6,0%; đường biển đạt 22,3 triệu tấn, tăng 1,0% và 66,6 tỷ tấn.km, tăng 4,0%; đường sắt đạt 3,1 triệu tấn, giảm 7,1% và 1,7 tỷ tấn.km, tăng 5,0%.
Vận tải hành khách và hàng hoá
Bưu chính, viễn thông
Tổng số thuê bao điện thoại phát triển mới trong năm tháng đầu năm đạt 4,4 triệu thuê bao, bằng 24,4% cùng kỳ năm trước, bao gồm 31,3 nghìn thuê bao cố định, bằng 4,6% và 4,4 triệu thuê bao di động, bằng 25,2%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 5/2011 ước tính đạt 127,8 triệu thuê bao, giảm 11,1% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,5 triệu thuê bao cố định, giảm 5,2% và 112,3 triệu thuê bao di động, giảm 11,8% do Ngành Bưu chính viễn thông thực hiện việc cắt giảm một số loại thuê bao điện thoại trả trước theo quy định. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông tính đến cuối tháng 5/2011 ước tính đạt 65,7 triệu thuê bao, giảm 16,2% so với cùng thời điểm năm 2010, bao gồm 10,9 triệu thuê bao cố định, giảm 6,7% và 54,8 triệu thuê bao di động, giảm 17,8%.
Số thuê bao internet trên cả nước tính đến cuối tháng 5/2011 ước tính đạt 3,9 triệu thuê bao, tăng 18% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 2,7 triệu thuê bao, tăng 17,3%. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 5/2011 ước tính 29,4 triệu người, tăng 21% so với cùng thời điểm năm 2010. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông năm tháng đầu năm ước tính đạt 53,7 nghìn tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông đạt 34,4 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong năm tháng đầu năm ước tính đạt 2518,9 nghìn lượt người, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1499,4 nghìn lượt người, tăng 10,2%; đến vì công việc 418,9 nghìn lượt người, giảm 0,8%; thăm thân nhân đạt 442,4 nghìn lượt người, tăng 81,4%.
Trong năm tháng đầu năm nay, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 546,9 nghìn lượt người, tăng 49,6%; Hàn Quốc 222,4 nghìn lượt người, tăng 2,5%; Nhật Bản 204,2 nghìn lượt người, tăng 12,8%; Hoa Kỳ 201,4 nghìn lượt người, tăng 4%; Cam-pu-chia 168,7 nghìn lượt người, tăng 75,2%; Đài Loan 150,4 nghìn lượt người, tăng 7,2%; Ôx-trây-li-a 134,5 nghìn lượt người, tăng 8,2%; Pháp 99,8 nghìn lượt người, tăng 9,4%; Ma-lai-xi-a 92,9 nghìn lượt người, tăng 18,1%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Theo báo cáo sơ bộ, trong tháng Năm có khoảng 72,5 nghìn hộ thiếu đói với 307,7 nghìn nhân khẩu thiếu đói. So với cùng kỳ năm 2010, số hộ thiếu đói giảm 24,2% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 23,2%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành và đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 14 nghìn tấn lương thực và 3,8 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Năm, trên địa bàn cả nước có 2,4 nghìn trường hợp mắc sốt xuất huyết; 433 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 107 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 36 trường hợp mắc cúm A H1N1; 31 trường hợp mắc bệnh thương hàn. Tính chung năm tháng đầu năm, cả nước có 13,7 nghìn trường hợp mắc sốt xuất huyết; 2,4 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 281 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 473 trường hợp mắc cúm A H1N1 (13 trường hợp tử vong) và 131 trường hợp mắc bệnh thương hàn.
Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS được phát hiện trong tháng của cả nước là 1,7 nghìn người, nâng tổng số người nhiễm HIV/AIDS của cả nước tính đến giữa tháng 5/2011 lên 237,8 nghìn người, trong đó 95,7 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 50,2 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Công tác kiểm tra, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm mặc dù đã được các ngành chức năng quan tâm và triển khai mạnh nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn. Trong tháng đã xảy ra 10 vụ ngộ độc thực phẩm làm 138 người bị ngộ độc. Tính chung năm tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 32 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 1,6 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 6 trường hợp tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 4/2011, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1024 vụ tai nạn giao thông, làm chết 854 người và làm bị thương 776 người. So với cùng kỳ năm 2010, số vụ tai nạn giao thông giảm 6,7%; số người chết giảm 8,1%; số người bị thương tăng 4,6%. Tính chung bốn tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 4581 vụ tai nạn giao thông, làm chết 3858 người và làm bị thương 3529 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 0,7%, số người chết tăng 1,3%, số người bị thương tăng 4,1%. Bình quân một ngày trong bốn tháng đầu năm 2011, cả nước có 38 vụ tai nạn giao thông, làm chết 32 người và làm bị thương 29 người.
Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta năm tháng đầu năm gặp một số khó khăn. Sản xuất kinh doanh của các ngành, lĩnh vực bị tác động bởi chi phí đầu vào cao dẫn đến giá thành tăng, làm ảnh hưởng đến mức tiêu thụ sản phẩm. Mặc dù mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng tháng Năm đã thấp hơn so với tháng trước nhưng nhìn chung tình hình trong nước và thế giới còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến thị trường giá cả trong nước. Do đó, để giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội, trong thời gian tới, các ngành, các cấp và các địa phương cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau đây:
Một là, điều hành chính sách thắt chặt tiền tệ linh hoạt, hợp lý để vừa giảm lượng cung tiền, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa trên thị trường trong nước. Đặc biệt có kế hoạch và chương trình kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm tính thanh khoản và lành mạnh trong kinh doanh tiền tệ. Xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, gây lũng đoạn thị trường giá cả hàng hóa. Kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn tình trạng “té nước theo mưa” dẫn đến hiện tượng giá tăng giả tạo.
Hai là, phân tích, đánh giá sâu thực trạng cơ cấu hàng nhập khẩu để có giải pháp điều chỉnh phù hợp và hiệu quả hơn nhằm hạn chế nhập siêu. Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu linh hoạt, hợp lý. Xác định các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc áp dụng các biện pháp về chính sách thuế, chính sách tiền tệ nhằm hạn chế nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ không cần thiết. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tích cực tham gia và tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm để đa dạng hóa thị trường.
Ba là, kiểm soát chặt chẽ việc buôn bán, vận chuyển gia súc, gia cầm bị bệnh. Tăng cường giám sát để phát hiện sớm dịch bệnh, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ và thường xuyên giữa các đơn vị chức năng trong việc tập trung dập tắt triệt để các ổ dịch mới xuất hiện. Quản lý, kiểm dịch nghiêm ngặt đối với hoạt động vận chuyển gia súc, gia cầm trên từng địa bàn trong cả nước.
Bốn là, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm đời sống dân cư. Quan tâm đến chế độ bảo hiểm cho các đối tượng chính sách, ưu tiên giải quyết nguyện vọng của người nghèo và ổn định việc làm cho công nhân. Cộng đồng nói chung và các doanh nghiệp nói riêng cần tăng cường các hình thức hỗ trợ cho người lao động, đặc biệt quan tâm đến chính sách nhà ở cho các hộ nghèo để khuyến khích, động viên, giúp người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn, ổn định cuộc sống và yên tâm sản xuất.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ