Tình hình kinh tế - xã hội 8 tháng năm 2011
________
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập trung vào gieo cấy lúa mùa, lúa thu đông và thu hoạch lúa hè thu. Tính đến 15/8/2011, cả nước đã gieo cấy được 1432,7 nghìn ha lúa mùa, bằng 101,8% cùng kỳ năm trước, bao gồm các địa phương phía Bắc gieo cấy 1139,9 nghìn ha, bằng 97,3% (Các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ đã kết thúc gieo cấy); các địa phương phía Nam gieo cấy 292,8 nghìn ha, bằng 119,5%.
Cùng với việc gieo cấy lúa mùa, các địa phương trên cả nước đã thu hoạch được 1221 nghìn ha lúa hè thu, bằng 102,3% cùng kỳ năm trước. Vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 1141,5 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 68% diện tích gieo cấy và bằng 103,5% cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương trong vùng cơ bản thu hoạch xong là: Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng và Đồng Tháp. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa hè thu năm 2011 của vùng đồng bằng sông Cửu Long ước tính đạt 51 tạ/ha, tăng gần 3 tạ/ha so với vụ hè thu năm trước; sản lượng ước tính đạt 8,4 triệu tấn, tăng 420 nghìn tấn.
Tính đến trung tuần tháng Tám, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã gieo cấy được 358 nghìn ha lúa thu đông, tăng 55% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh có tiến độ gieo cấy nhanh là: An Giang 25 nghìn ha, tăng 37,7%; Vĩnh Long 48 nghìn ha, tăng 33,6%; Đồng Tháp 85,4 nghìn ha, tăng 19,7%.
Tuy nhiên, thời tiết đang vào mùa mưa là nguyên nhân làm phát sinh sâu bệnh trên diện tích lúa đã gieo cấy. Dịch vàng lùn, lùn xoắn lá đã xuất hiện trên trà lúa thu đông ở một số địa phương phía Nam (Vĩnh Long 220 ha; Cần Thơ 70 ha). Bệnh khô vằn, sâu cuốn lá, rầy nâu làm 53 nghìn ha lúa mới cấy bị nhiễm (Nghệ An 16,5 nghìn ha; Ninh Bình 3 nghìn ha; Yên Bái 1,7 nghìn ha; Quảng Nam 1,5 nghìn ha). Các địa phương đang tích cực áp dụng phương pháp canh tác ba giảm-ba tăng, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng nguyên tắc quy định, làm tốt công tác cải tạo đồng ruộng và thực hiện các biện pháp tổng hợp khác để phòng trừ sâu bệnh, nhằm hạn chế thiệt hại cho lúa.
Gieo trồng các loại rau, màu nhìn chung đảm bảo tiến độ. Tính đến trung tuần tháng Tám, cả nước đã gieo trồng được 958,9 nghìn ha ngô, bằng 103,8% cùng kỳ năm trước; 131,6 nghìn ha khoai lang, bằng 107,9%; 168,2 nghìn ha đậu tương, bằng 94,1%; 213,2 nghìn ha lạc, bằng 101,7%; 662,7 nghìn ha rau, đậu, bằng 105,8%.
Chăn nuôi trong tháng nhìn chung phát triển ổn định và có xu hướng tăng do dịch bệnh trên gia súc, gia cầm cơ bản đã được khống chế. Đặc biệt giá các sản phẩm từ trâu, bò và gia cầm đang ở mức cao đã khuyến khích người nuôi đầu tư mở rộng sản xuất. Riêng chăn nuôi lợn do chi phí đầu vào tăng nên đã hạn chế phần nào đến việc mở rộng quy mô đàn. Tính đến ngày 24/8/2011, dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở 02 tỉnh là: Dịch cúm gia cầm ở Nghệ An và dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Quảng Ngãi.
Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 8 năm 2011
b. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 8/2011 ước tính đạt 54 nghìn ha, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 13,5 triệu cây, tăng 0,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 432 nghìn m3, tăng 9,3%; sản lượng củi khai thác đạt 2,6 triệu ste, tăng 1,4%. Tính chung tám tháng năm nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 137,5 nghìn ha, bằng 93% cùng kỳ năm 2010; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 137,6 triệu cây, tăng 0,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2781 nghìn m3, tăng 11,5%; sản lượng củi khai thác đạt 19,1 triệu ste, tăng 2,4%.
Do thời tiết tiếp tục nắng nóng, khô hạn nên hiện tượng cháy rừng vẫn xảy ra ở một số địa phương, đặc biệt là khu vực miền Trung. Bên cạnh đó, tình trạng chặt, phá rừng trái phép còn xuất hiện rải rác tại một số nơi vùng Tây Bắc và Tây nguyên. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Tám là 112 ha, gồm 65 ha rừng bị cháy và 47 ha rừng bị chặt phá. Tính chung tám tháng năm 2011, diện tích rừng bị thiệt hại là 1860 ha, gồm diện tích rừng bị cháy 921 ha; diện tích rừng bị chặt, phá 939 ha.
c. Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản tháng 8/2011 ước tính đạt 475 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá 349 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm 79 nghìn tấn, tăng 5,6%.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tháng Tám ước tính đạt 281 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá 200 nghìn tấn, tăng 5,8%; tôm 69 nghìn tấn, tăng 6,2%. Nuôi cá tra mặc dù đang trong kỳ thu hoạch nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn về thị trường, đặc biệt là nhu cầu tiêu thụ tại thị trường châu Âu giảm nên giá cá tra nguyên liệu ở mức thấp, do đó diện tích thả nuôi tại các địa phương có xu hướng giảm. Một số địa phương có diện tích thả nuôi giảm nhiều là: Vĩnh Long 321 ha, giảm 20% so với cùng kỳ năm trước; Cần Thơ 714 ha, giảm 9,7%; Bến Tre 620 ha, giảm 5,7%; Đồng Tháp 1425 ha, giảm 2,5%.
Nuôi tôm sú tại một số địa phương bị ảnh hưởng của dịch bệnh phát sinh do người nuôi tự phát đào ao mở rộng diện tích trong khi cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đầy đủ. Sóc Trăng là tỉnh bị thiệt hại nặng nhất nên sản lượng trong tháng chỉ đạt 300 tấn, giảm 35% so với cùng kỳ năm trước; Long An 1080 tấn, giảm 27,7%. Tuy nhiên, sản lượng tôm nuôi nhìn chung giữ ổn định do tôm sú trên phần diện tích nuôi thân thiện với môi trường tiếp tục cho sản lượng khá (Cà Mau đạt 10 nghìn tấn, tăng 10,7%; Bạc Liêu 5,6 nghìn tấn, tăng 8,9%) và nuôi tôm thẻ chân trắng cho năng suất cao (Long An đạt 3,7 nghìn tấn, gấp 2,3 lần cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 1,7 nghìn tấn, gấp 2,3 lần; Sóc Trăng 1,3 nghìn tấn, gấp 3,8 lần; Ninh Thuận 1 nghìn tấn, gấp 2,5 lần).
Thời tiết biển tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy sản. Bên cạnh đó, ngư dân các địa phương được khuyến khích áp dụng và nhân rộng mô hình khai thác theo hướng tổ, đội kết hợp nhằm tiết kiệm chi phí nên sản lượng thủy sản khai thác không bị ảnh hưởng nhiều từ giá xăng, dầu tăng cao. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Tám ước tính đạt 194 nghìn tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 174 nghìn tấn, tăng 3,1%.
Tính chung tám tháng năm 2011, sản lượng thủy sản ước tính đạt 3469 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước , bao gồm sản lượng nuôi trồng đạt 1843 nghìn tấn, tăng 5,2%; sản lượng khai thác đạt 1626 nghìn tấn, tăng 1,7%.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2011 tăng 4,3% so với tháng trước và tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số sản xuất công nghiệp tám tháng năm nay tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Công nghiệp khai thác mỏ giảm 0,7%; công nghiệp chế biến tăng 10,7%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 9,8%.
Một số ngành sản phẩm công nghiệp chủ yếu có chỉ số sản xuất tám tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 60,9%; sản xuất đường tăng 43,3%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 22,8%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 16,9%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 16,3%; sản xuất bia tăng 14,9%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 14,9%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 14,6%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 14,3%. Một số ngành sản phẩm có chỉ số sản xuất tăng khá là: Sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 13,8%; sản xuất giày dép tăng 13,7%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 11,8%; sản xuất xi măng tăng 10,6%; sản xuất, tập trung và phân phối điện tăng 10,1%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 9,2%. Một số ngành sản phẩm có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thuốc lá tăng 6,6%; sản xuất khai thác, lọc và phân phối nước 6,0%; sản xuất các thực phẩm khác chưa được phân vào đâu tăng 4,7%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên giảm 2,3%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 2,9%; sản xuất xe có động cơ giảm 4,2%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 21,8%; đóng và sửa chữa tàu giảm 25,7%.
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bảy tháng đầu năm nay tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước. Các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 63,6%; sản xuất đồ gốm sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ xây dựng) tăng 60,7%; sản xuất đường tăng 48,4%; sản xuất gạch, ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 36,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 32,3%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng chậm hoặc giảm là: Sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 14,8%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 14,5%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 14,3%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 14,2%; sản xuất sản phẩm bơ sữa tăng 14%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 11%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 10,1%; sản xuất giày dép tăng 9,9%; sản xuất xi măng tăng 7,7%; sản xuất sắt, thép tăng 4,7%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 7,2%; sản xuất bia tăng 6,7%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 4,0%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 9,6%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện giảm 11,7%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/8/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,8% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, các ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 87,5%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 65,8%; sản xuất bia và mạch nha tăng 58,6%; sản xuất giày dép tăng 45,6%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 41,6%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 39,9%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 39,1%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện tăng 38,8%; sản xuất xi măng, vôi, vữa tăng 38,0%.
Theo kết quả điều tra lao động của 4279 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chỉ số sử dụng lao động tháng 8/2011 ước tính tăng 0,5% so với tháng trước; số lao động tháng Tám giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 7,9%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 2,9% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 1,5%. Trong ba ngành công nghiệp cấp I, lao động ngành khai thác mỏ tháng Tám tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước; lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 4,6%; lao động ngành sản xuất, phân phối điện, ga và nước giảm 6,9%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Tám và tám tháng năm 2011
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp tháng Tám và tám tháng năm 2011
3. Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tám ước tính đạt 18,5 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 4,6 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương 13,9 nghìn tỷ đồng. Tính chung tám tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 111,1 nghìn tỷ đồng, bằng 58,3% kế hoạch năm và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2010, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 26,9 nghìn tỷ đồng, bằng 64,2% kế hoạch năm và tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là 2721 tỷ đồng, bằng 74,1% và tăng 16,5%; Bộ Công Thương 2419 tỷ đồng, bằng 59,3% và tăng 10,6%; Bộ Y tế 634 tỷ đồng, bằng 70,5% và tăng 6,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 612 tỷ đồng, bằng 68,1% và tăng 7,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 403 tỷ đồng, bằng 72,3% và tăng 5%; Bộ Xây dựng 396 tỷ đồng, bằng 40,3% và giảm 10,7%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 84,2 nghìn tỷ đồng, bằng 56,7% kế hoạch năm và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn là: Hà Nội đạt 11,1 nghìn tỷ đồng, bằng 55,2% kế hoạch năm và tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2010; thành phố Hồ Chí Minh 8,9 nghìn tỷ đồng, bằng 62,8% và tăng 8,2%; Đà Nẵng 4,9 nghìn tỷ đồng, bằng 85,9% và tăng 4,3%; Quảng Ninh 2,9 nghìn tỷ đồng, bằng 64,4% và giảm 1,3%; Bà Rịa-Vũng Tàu 2,1 nghìn tỷ đồng, bằng 63,6% và tăng 6,1%; Hậu Giang 1,8 nghìn tỷ đồng, bằng 107,4% và tăng 7,2%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 24/8/2011 đạt 9567,6 triệu USD, bằng 73,8% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 7943,3 triệu USD của 582 dự án được cấp phép mới (giảm 30% về vốn và giảm 34,2% về số dự án so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 1624,3 triệu USD của 168 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tám tháng năm 2011 ước tính đạt 7,3 tỷ USD, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong các ngành kinh tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài tám tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có số vốn đăng ký lớn nhất với 4614 triệu USD, bao gồm 3590,6 triệu USD vốn đăng ký mới và 1023,4 triệu USD vốn tăng thêm; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2525,3 triệu USD vốn đăng ký mới; ngành xây dựng đạt 670,9 triệu USD, bao gồm 529,3 triệu USD vốn đăng ký mới và 141,6 triệu USD vốn tăng thêm.
Trong tám tháng, cả nước có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Hải Dương dẫn đầu về vốn đăng ký với 2472,7 triệu USD, chiếm 31,1% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh 1601,6 triệu USD, chiếm 20,2%; Bà Rịa-Vũng Tàu 548 triệu USD, chiếm 6,9%; Hà Nội 446 triệu USD, chiếm 5,6%; Tây Ninh 436 triệu USD, chiếm 5,5%; Hưng Yên 278,4 triệu USD, chiếm 3,5%.
Trong số 39 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam tám tháng năm 2011, Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) là nhà đầu tư lớn nhất với 2797,4 triệu USD, chiếm 35,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 1330,9 triệu USD, chiếm 16,8%; Nhật Bản 642,2 triệu USD, chiếm 8,1%; CHND Trung Hoa 461,4 triệu USD, chiếm 5,8%; Hàn Quốc 412,9 triệu USD, chiếm 5,2%; Ma-lai-xi-a 346,9 triệu USD, chiếm 4,4%.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tám và tám tháng năm 2011
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 24/8/2011
4. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/8/2011 ước tính đạt 411,4 nghìn tỷ đồng, bằng 69,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa 251,1 nghìn tỷ đồng, bằng 65,7%; thu từ dầu thô 62 nghìn tỷ đồng, bằng 89,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 94,8 nghìn tỷ đồng, bằng 68,3%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 61,1% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 60,4%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 65,1%; thuế thu nhập cá nhân bằng 80,3%; thu phí xăng dầu bằng 59,3%; thu phí, lệ phí bằng 53,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/8/2011 ước tính đạt 450,7 nghìn tỷ đồng, bằng 62,1% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 95,9 nghìn tỷ đồng, bằng 63,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 90,9 nghìn tỷ đồng, bằng 62,6%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể 295,7 nghìn tỷ đồng, bằng 63%; chi trả nợ và viện trợ 59,1 nghìn tỷ đồng, bằng 68,7%.
5. Thương mại, giá cả và dịch vụ
a. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tám tháng năm 2011 ước tính đạt 1224,4 nghìn tỷ đồng, tăng 22,2% so với cùng kỳ năm 2010, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 3,9%. Trong tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tám tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 968,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,1% tổng mức và tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 133,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,9% và tăng 21,5%; dịch vụ đạt 110,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,0% và tăng 22,7%; du lịch đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 14,8%.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám và tám tháng năm 2011
b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tám ước tính đạt 8,3 tỷ USD, giảm 11% so với tháng trước và tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung tám tháng năm 2011, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 60,8 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 28,1 tỷ USD, tăng 32,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 32,7 tỷ USD, tăng 34,6%.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tám tháng năm nay tăng cao một mặt do lượng xuất khẩu một số mặt hàng tăng như: Sắn và sản phẩm sắn tăng 47%; sắt thép tăng 33,2%; xăng dầu tăng 25%; cà phê tăng 11,4%; gạo tăng 6,5%; cao su tăng 5,6%. Mặt khác do đơn giá một số mặt hàng xuất khẩu tăng như: Giá hạt tiêu tăng 67,7%; giá cao su tăng 57,2%; giá cà phê tăng 53,9%; giá hạt điều tăng 47,7%; giá dầu thô tăng 44,9%, giá xăng dầu tăng 39,6%, giá sắn và sản phẩm sắn tăng 28%. Một số mặt hàng trọng yếu có kim ngạch xuất khẩu tám tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Hàng dệt may đạt 9 tỷ USD, tăng 28,2%; dầu thô đạt 5 tỷ USD, tăng 51,5%; giày dép đạt 4,2 tỷ USD, tăng 29,2%; thủy sản đạt 3,8 tỷ USD, tăng 26,7%; gạo đạt 2,6 tỷ USD, tăng 11%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt 2,5 tỷ USD, tăng 9,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,4 tỷ USD, tăng 12,8%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 2,3 tỷ USD, tăng 23,9%; cà phê đạt 2,1 tỷ USD, tăng 71,4%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tám ước tính đạt 9,1 tỷ USD, tăng 10,7% so với tháng trước và tăng 22,6% % so với cùng kỳ năm trước. Tính chung tám tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 67 tỷ USD, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 36,9 tỷ USD, tăng 21,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 30,1 tỷ USD, tăng 31,1%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tám tháng của một số mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 9,6 tỷ USD, tăng 9,5%; xăng dầu 6,9 tỷ USD, tăng 55%; vải 4,5 tỷ USD, tăng 33,1%; sắt thép 4,1 tỷ USD, tăng 8,8%; điện tử, máy tính và linh kiện 3,9 tỷ USD, tăng 28%; chất dẻo 3 tỷ USD, tăng 27,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép gần 2 tỷ USD, tăng 16%; hóa chất 1,7 tỷ USD, tăng 33,5%. Đơn giá nhập khẩu một số mặt hàng tăng cao là một trong những nguyên nhân đẩy kim ngạch nhập khẩu tám tháng năm nay tăng, trong đó giá xăng dầu tăng 47%; giá khí đốt hoá lỏng tăng 26%; giá phân bón tăng 25%; giá chất dẻo tăng 21%; giá cao su tăng 20%; giá sắt thép tăng 25%.
Nhập siêu tháng Tám ước tính đạt 800 triệu USD, bằng 9,6% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu tám tháng năm nay ước tính đạt 6,2 tỷ USD, bằng 10,2% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nếu loại trừ xuất, nhập khẩu vàng và các sản phẩm vàng, nhập siêu tám tháng ước tính 7,96 tỷ USD, bằng 13,6 % kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Hàng hoá xuất khẩu tháng Tám và tám tháng năm 2011
Hàng hoá nhập khẩu tháng Tám và tám tháng năm 2011
c. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2011 tăng 0,93% so với tháng trước, mức tăng đã giảm nhiều và đây là tháng có chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 1% sau 11 tháng. Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng này tăng 1,35% (Thực phẩm tăng 1,55%), tuy cao hơn mức tăng chung nhưng đã giảm nhiều so với mức 2,12% của tháng trước (Thực phẩm tăng 3,20%). Nhóm giáo dục tăng 1,13%, cao hơn mức 0,26% của tháng Bảy, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng tăng lên khi năm học mới bắt đầu. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác có mức tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm gồm: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,89%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,79%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,55%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,51%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,34%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,25%; giao thông tăng 0,21%; bưu chính viễn thông giảm 0,06%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2011 tăng 15,68% so với tháng 12/2010; tăng 23,02% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân tám tháng năm nay tăng 17,64% so với bình quân cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá vàng tháng 8/2011 tăng 8,7% so với tháng trước; tăng 15,33% so với tháng 12/2011và tăng 47,63% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2011 tăng 0,26% so với tháng trước; tăng 0,32% so với tháng 12/2011 và tăng 8,64% so với cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng Tám năm 2011
d. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách tám tháng năm nay ước tính đạt 1836,2 triệu lượt khách, tăng 13,2% và 79,4 tỷ lượt khách.km, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, vận tải hành khách đường bộ ước tính đạt 1686,7 triệu lượt khách, tăng 13,6% và 59 tỷ lượt khách.km, tăng 12,4%; đường sông đạt 127,1 triệu lượt khách, tăng 9,0% và 2,7 tỷ lượt khách.km, tăng 13,5%; đường hàng không đạt 9,7 triệu lượt khách, tăng 14,7% và 14,3 tỷ lượt khách.km, tăng 10,8%; đường biển đạt 4,5 triệu lượt khách, tăng 3,2% và 274,5 triệu lượt khách.km, tăng 4,3%; đường sắt đạt 8,3 triệu lượt khách, tăng 2,6% và 3,2 tỷ lượt khách.km, tăng 3,8% .
Khối lượng hàng hóa vận chuyển tám tháng năm nay ước tính đạt 526,8 triệu tấn, tăng 11,1% và 144,7 tỷ tấn.km, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 495,9 triệu tấn, tăng 12,2% và 47,5 tỷ tấn.km, tăng 8,4%; vận tải ngoài nước đạt 30,9 triệu tấn, tăng 4,1% và 97,1 tỷ tấn.km, tăng 0,7%. Vận tải hàng hoá đường bộ tám tháng ước tính đạt 402 triệu tấn, tăng 12,3% và 21,7 tỷ tấn.km, tăng 11,0%; đường sông đạt 83 triệu tấn, tăng 9,4% và 10,9 tỷ tấn.km, tăng 10,9%; đường biển đạt 36,7 triệu tấn, tăng 5,0% và 109 tỷ tấn.km, tăng 1,0%; đường sắt đạt 4,9 triệu tấn, giảm 5,5% và 2,8 tỷ tấn.km, tăng 5,0%.
Vận tải hành khách và hàng hoá tám tháng 2011
e. Bưu chính, viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới tám tháng năm 2011 đạt 6,7 triệu thuê bao, giảm 24,7% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm 40,2 nghìn thuê bao cố định, giảm 74,8% và gần 6,7 triệu thuê bao di động, giảm 23,7%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 8/2011 ước tính đạt 128,8 triệu thuê bao, tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,5 triệu thuê bao cố định, tăng 0,4% và 113,3 triệu thuê bao di động, tăng 4,8%.
Số thuê bao internet băng rộng trên cả nước tính đến hết tháng 8/2011 ước tính đạt 4,1 triệu thuê bao, tăng 17,5% so với cùng thời điểm năm trước. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 8/2011 đạt 31,3 triệu người, tăng 22,9% so với cùng thời điểm năm trước. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông tám tháng ước tính đạt 98,4 nghìn tỷ đồng, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2010.
f. Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta tám tháng năm 2011 ước tính đạt 3963,3 nghìn lượt người, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2390,8 nghìn lượt người, tăng 12,9%; đến vì công việc 660,1 nghìn lượt người, giảm 2%; thăm thân nhân đạt 666,2 nghìn lượt người, tăng 70,7%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 3336,6 nghìn lượt người, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2010; đến bằng đường biển 27,9 nghìn lượt người, giảm 14,1%; đến bằng đường bộ 598,8 nghìn lượt người, giảm 4,7%.
Trong tám tháng năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Trung Quốc đạt 884,1 nghìn lượt người, tăng 47,8%; Hàn Quốc 346,4 nghìn lượt người, tăng 4,5%; Hoa Kỳ 316,8 nghìn lượt người, tăng 7,1%; Nhật Bản 306,8 nghìn lượt người, tăng 10,5%; Cam-pu-chia 276,3 nghìn lượt người, tăng 67,3%; Đài Loan 253,9 nghìn lượt người, tăng 11,5%; Ôx-trây-li-a 202,6 nghìn lượt người, tăng 9,9%; Ma-lai-xi-a 156,7 nghìn lượt người, tăng 18,4%; Pháp 141,8 nghìn lượt người, tăng 3,1%; Xin-ga-po 115,3 nghìn lượt người, tăng 9,1%.
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng Tám và tám tháng năm 2011
6. Một số vấn đề xã hội
a. Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng 8/2011, cả nước có 18,8 nghìn hộ thiếu đói, giảm 38,6% và 84,9 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 34,3% so với cùng kỳ năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 16,9 nghìn tấn lương thực và 9,2 tỷ đồng.
b. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng 8/2011, trên địa bàn cả nước có 8,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 911 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 165 trường hợp mắc viêm não virút, 184 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 87 trường hợp mắc cúm A (H1N1). Tính chung tám tháng năm nay, cả nước có 31,1 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (27 trường hợp tử vong); 4,8 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút; 620 trường hợp mắc viêm não virút (15 trường hợp tử vong); 380 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 587 trường hợp mắc cúm A (H1N1) (14 trường hợp tử vong). Đặc biệt, bệnh dịch tay chân miệng đang lây lan với tốc độ nhanh và diễn biến phức tạp. Trong tám tháng, cả nước đã có 32,5 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (81 trường hợp tử vong), riêng tháng 8 ghi nhận 11,8 nghìn trường hợp (24 trường hợp tử vong).
Trong tháng đã phát hiện thêm 990 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng 8/2011 lên 242,2 nghìn người, trong đó 97,7 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và gần 51 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Tình trạng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa có xu hướng giảm. Tính chung tám tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 75 vụ ngộ độc thực phẩm với nhiều vụ ngộ độc tập thể, làm hơn 3,9 nghìn trường hợp bị ngộ độc, trong đó 9 người tử vong.
c. Tai nạn giao thông
Trong tháng 7/2011 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1093 vụ tai nạn giao thông, làm chết 910 người và làm bị thương 848 người. So với cùng kỳ năm 2010, số vụ tai nạn giao thông tăng 5,8%, số người chết tăng 2% và số người bị thương tăng 22,9%. Tính chung bảy tháng năm 2011, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7902 vụ tai nạn giao thông, làm chết 6620 người và làm bị thương 6064 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 0,8%, số người chết tăng 1%, số người bị thương tăng 2,8%. Bình quân một ngày trong bảy tháng năm nay, cả nước có 37 vụ tai nạn giao thông, làm chết 31 người và làm bị thương 29 người.
d. Thiệt hại do thiên tai gây ra
Thiên tai xảy ra trong tháng gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư của một số địa phương. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 7 người chết và mất tích; 274 ngôi nhà bị ngập, tốc mái và cuốn trôi; 35 km đê, kè, kênh mương và hơn 14 km đường xe cơ giới bị sạt lở; 2,3 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng. Nghệ An là địa phương bị thiệt hại nặng (Chủ yếu do bão số 3) với gần 15 km kênh mương và 3 km đường xe cơ giới bị sạt lở; 2,2 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính gần 225 tỷ đồng (Nghệ An thiệt hại gần 158 tỷ đồng), riêng bão số 3 làm thiệt hại hơn 180 tỷ đồng.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ