Tình hình kinh tế-xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2006
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp
Lúa mùa: Tính đến trung tuần tháng 10/2006, các tỉnh miền Bắc thu hoạch được 827,4 nghìn ha lúa mùa, chiếm 69,5% diện tích gieo cấy và bằng 102,1% cùng kỳ năm trước, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Hồng thu hoạch 401,2 nghìn ha, bằng 104,1%; các tỉnh Bắc Trung Bộ thu hoạch 183 nghìn ha, bằng 107%. Một số tỉnh có tiến độ thu hoạch nhanh như Hải Dương 94%, Hà Nam 91%, Thanh Hoá 96% diện tích gieo cấy; các tỉnh Hà Tây, Hưng Yên cơ bản đã thu hoạch xong. Nhìn chung, năng suất lúa trên diện tích thu hoạch chỉ đạt xấp xỉ cùng kỳ, do một số diện tích lúa mùa gặp mưa khi đang vào hạt và một số diện tích bị rầy nâu gây hại nên phải thu hoạch sớm. Các tỉnh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên tiếp tục gieo sạ lúa mùa, ước tính đạt thấp hơn so với cùng kỳ năm trước và phát triển không đều do mưa nhiều. Ở các tỉnh Đông Nam Bộ diện tích lúa mùa bị sâu bệnh gây hại nặng trên diện rộng (Thành phố Hồ Chí Minh 3,2 nghìn ha, Bình Thuận 7,5 nghìn ha, Tây Ninh 0,5 nghìn ha) nên khả năng cho năng suất thấp hơn vụ mùa năm 2005.
Lúa hè thu: Tính đến giữa tháng 10/2006, cả nước đã thu hoạch được 2145,1 nghìn ha lúa hè thu và thu đông, chiếm 92% diện tích gieo sạ, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1737,6 nghìn ha, chiếm 91% diện tích. Theo ước tính sơ bộ của các địa phương, năng suất lúa hè thu toàn vùng giảm từ 1-3tạ/ha so với vụ hè thu năm 2005 do sâu bệnh tiếp tục gây hại trên diện rộng và thời tiết không thuận. Một số tỉnh năng suất lúa hè thu ước tính giảm như: Cần Thơ giảm 2,7tạ/ha, Long An giảm 1,3tạ/ha, An Giang giảm 1,3 tạ/ha… Cùng với việc thu hoạch vụ hè thu, bà con nông dân cũng được khuyến cáo vệ sinh đồng ruộng thật tốt để cắt đứt nguồn lưu tồn dịch hại cho vụ đông xuân.
Cây trồng khác: Đến thời điểm này, các địa phương đã gieo trồng được 180,5 nghìn ha ngô bằng 110,9% cùng kỳ năm trước; khoai lang đạt 61 nghìn ha, bằng 125,8%; đậu tương đạt 66,5 nghìn ha, bằng 130,6%; rau đậu đạt 95,6 nghìn ha, bằng 137,4%.
Chăn nuôi: Trong tháng, các địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác tiêm phòng vắc xin đợt 2 cho gia súc, đặc biệt là ở các tỉnh miền Trung nguy cơ lây lan dịch bệnh từ nước lũ do bão số 6 gây ra. Tính đến 20/10, dịch lở mồm long móng vẫn xảy ra ở 25 xã, 15 huyện thuộc 6 tỉnh là Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Hà Giang, Quảng Ngãi, Sơn La và Lạng Sơn với số gia súc mắc bệnh trong 21 ngày qua là 391 con trâu bò, 23 con lợn. Công tác tiêm phòng cho đàn gia cầm cũng được các địa phương tiếp tục đẩy mạnh, tuy vậy vẫn còn chậm do thiếu vắc xin. Hiện nay, đã có 58 tỉnh, thành phố tiêm phòng vắc xin đợt 2 cho đàn gia cầm với 104,5 triệu con, chủ yếu cho đàn gà trên diện rộng.
Lâm nghiệp: Thời tiết trong tháng có mưa nhiều, đã tạo thuận lợi cho hoạt động trồng rừng. Diện tích rừng trồng tập trung tháng 10 ước tính đạt 14,6 nghìn ha và số cây trồng phân tán đạt 18,9 triệu cây.
Tính chung 10 tháng năm 2006, tổng diện tích rừng trồng tập trung của cả nước đạt 162,3 nghìn ha, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2005; số cây trồng phân tán 187,4 triệu cây, giảm 0,9%; sản lượng gỗ khai thác 2601,3 nghìn m3, tăng 0,2%. Diện tích rừng được chăm sóc 10 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước tăng 1%; diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh tăng 0,8%.
Công tác phòng, chống cháy rừng được các địa phương quan tâm và chỉ đạo chặt chẽ. Do vậy, diện tích rừng bị thiệt hại do cháy và chặt phá rừng giảm nhiều. Tính chung 10 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại ước tính 4721,5 ha, giảm 46,8% so với cùng kỳ năm trước.
Thuỷ sản: Sản lượng thuỷ sản tháng 10 ước tính đạt 348,8 nghìn tấn, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nuôi trồng 197 nghìn tấn, tăng 18,3%; khai thác 151,8 nghìn tấn, giảm 1,3% (khai thác biển 130,5 nghìn tấn, giảm 2,8%). Nuôi trồng thuỷ sản tháng 10 năm nay có nhiều thuận lợi như môi trường các vùng nước nuôi khá ổn định; giá tôm nguyên liệu và cá tra, ba sa tăng so với tháng trước do các nhà máy tăng cường thu mua nguyên liệu chế biến phục vụ xuất khẩu. Sản lượng cá nuôi tăng 20,9%; tôm tăng 11,4%. Một số địa phương phát triển mạnh phong trào nuôi cá tra như An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp... Khai thác thuỷ sản tháng 10 đạt thấp do ảnh hưởng của cơn bão số 6 và áp thấp nhiệt đới, đồng thời giá nhiên liệu vẫn ở mức cao. Tính chung 10 tháng, tổng sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 3045,7 nghìn tấn, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng 1343,1 nghìn tấn, tăng 19,4%; sản lượng khai thác 1702,6 nghìn tấn, tăng 0,8%.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng 10 tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước, giá trị sản xuất theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 46,6 nghìn tỷ đồng, tăng 17,4%, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 8,4% (Trung ương quản lý tăng 11,9%, địa phương quản lý giảm 1,2%); khu vực ngoài Nhà nước tăng 24,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,9% (Dầu mỏ và khí đốt giảm 11,5%; các ngành khác tăng 27%).
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao so với mức tăng chung như: Quần áo may sẵn tăng 17,6%; sứ vệ sinh tăng 29,6%; máy công cụ tăng 23,3%; động cơ điezen tăng 26,5%; xe máy lắp ráp các loại tăng 27,1%. Một số sản phẩm quan trọng đối với nền kinh tế tuy có mức tăng thấp hơn mức tăng chung nhưng vẫn giữ được mức tăng trên 11% như: Điện phát ra tăng 16,2%; thép cán tăng 15,5%; phân hóa học tăng 14,8%; than sạch khai thác tăng 11,8%; vải lụa thành phẩm tăng 11,5%; thủy sản chế biến tăng 11,1%.
Tính chung 10 tháng năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 411,6 nghìn tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,3% (Trung ương quản lý tăng 12,2%; địa phương quản lý tăng 1,5%); khu vực ngoài Nhà nước tăng 22,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5% (Dầu mỏ và khí đốt giảm 4,9%, các ngành khác tăng 25,1%).
Nhiều ngành công nghiệp chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp giữ được tốc độ tăng cao ổn định đã quyết định tốc độ tăng cao của toàn ngành công nghiệp 10 tháng so với cùng kỳ năm 2005 như khai thác than, tăng 20,8%; sản xuất thực phẩm và đồ uống, tỷ trọng 21,4%, tăng xấp xỉ 17%; sản xuất các sản phẩm từ da, giả da, tỷ trọng 4,7%, tăng trên 18%; sản xuất các sản phẩm từ gỗ, tỷ trọng tuy chỉ chiếm 2% nhưng tăng tới 28,8%, nhờ tăng mạnh xuất khẩu; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic, tỷ trọng 5,2%, tăng trên 26% (trong đó, sản phẩm bằng plastic 10 tháng tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước); sản xuất các sản phẩm từ kim loại, tỷ trọng 4,1%, tăng xấp xỉ 24% (trong đó, sản xuất dây và cáp điện cho xuất khẩu 10 tháng tăng mạnh); sản xuất thiết bị điện tăng xấp xỉ 28%; sản xuất radio và thiết bị truyền thông tăng 18%; sản xuất các phương tiện vận tải khác (chủ yếu là đóng và sửa chữa tàu thuyền), tỷ trọng 4,3%, tăng xấp xỉ 23%. Hiện ngành đóng tàu, đặc biệt là đóng tàu vận tải hàng hoá tải trọng lớn ở một số trung tâm đóng tàu lớn của Việt Nam như: Hải Phòng, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh đang được chú trọng phát triển và ngày càng thu hút được nhiều hợp đồng sản xuất từ các nước phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh,...
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giữ được tốc độ tăng cao so với mức tăng chung của toàn ngành là: Than sạch khai thác tăng 20,8%; quần áo may sẵn tăng 18,5%; thuốc ống các loại tăng 19,4%; sứ vệ sinh tăng 18,9%. Một số sản phẩm có mức tăng trên 10% như: Thủy sản chế biến tăng 12,2%; vải lụa thành phẩm tăng 13,3%; giấy bìa các loại tăng 12,5%; thuốc trừ sâu tăng 14,9%; xi măng tăng 11,5%; xe máy lắp ráp các loại tăng 13,7%; điện phát ra tăng 13,1%. Tuy nhiên, một số sản phẩm vẫn chưa đạt mức sản xuất của 10 tháng năm trước như: Dầu thô khai thác bằng 91,7%; phân hóa học bằng 97,3%; máy công cụ bằng 66,7%; máy biến thế bằng 57,3%; ôtô lắp ráp các loại bằng 68%; xe đạp bằng 53,4%...
Hầu hết các tỉnh, thành phố có qui mô sản xuất công nghiệp lớn đều đạt tốc độ tăng trưởng 10 tháng cao so với mức tăng chung như: Hà Nội tăng 17,6%; Hải Phòng tăng 17,6%; Vĩnh Phúc tăng 21,1%; Hà Tây tăng 22,5%; Hải Dương tăng 23,6%; Quảng Ninh tăng 18,1%; Bình Dương tăng 19,1%; Đồng Nai tăng 20,6%; Cần Thơ tăng 21,8%. Riêng thành phố Hồ Chí Minh tăng 13,2% và Bà Rịa-Vũng Tàu chỉ tăng 5,4% (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm).
3. Đầu tư
Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 10/2006 ước tính thực hiện 5,9 nghìn tỷ đồng, bằng 10,5% kế hoạch năm, trong đó các đơn vị trung ương quản lý thực hiện 1,6 nghìn tỷ đồng, bằng 9,4%; các đơn vị địa phương quản lý 4,3 nghìn tỷ đồng, bằng 11%. Tính chung 10 tháng năm 2006, vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước tính thực hiện 50,3 nghìn tỷ đồng, bằng 89,6% kế hoạch cả năm. Vốn đầu tư do trung ương quản lý 10 tháng đạt 15,4 nghìn tỷ đồng, bằng 88,5% kế hoạch năm, trong đó Bộ Giao thông Vận tải 5,45 nghìn tỷ đồng, bằng 81,9%; Bộ Xây dựng 2,39 nghìn tỷ đồng, bằng 115,9% (chủ yếu do công trình Trung tâm Hội nghị Quốc gia được khẩn trương hoàn thành phục vụ tổ chức Hội nghị APEC vào tháng 11/2006); Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 1,75 nghìn tỷ đồng, bằng 87,9%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 748,5 tỷ đồng, bằng 84,5%; Bộ Y tế 748,3 tỷ đồng, bằng 83,3%; Bộ Văn hoá Thông tin 363,3 tỷ đồng, bằng 84,9%; Bộ Thuỷ sản 159,1 tỷ đồng, bằng 82,4%; Bộ Công nghiệp 116,6 tỷ đồng, bằng 80,5%.
Vốn đầu tư do địa phương quản lý ước tính đạt 34,9 nghìn tỷ đồng, bằng 90,1%, trong đó một số địa phương có khối lượng vốn thực hiện lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh 5,72 nghìn tỷ đồng, bằng 71,6% kế hoạch năm; Hà Nội 3,26 nghìn tỷ đồng, bằng 70,8%; Đà Nẵng 2,03 nghìn tỷ đồng, bằng 93,4%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1,72 nghìn tỷ đồng, bằng 83,6%; Đồng Nai 1,16 nghìn tỷ đồng, bằng 89,6%; Thanh Hoá 1,11 nghìn tỷ đồng, bằng 99%.
Tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Từ đầu năm đến 20/10/2006 cả nước có 705 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 4,78 tỷ USD, bình quân vốn đăng ký 1 dự án đạt 6,8 triệu USD. Ngoài ra, trong 10 tháng năm nay đã có 422 lượt dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm khoảng 1,71 tỷ USD, nâng tổng số vốn đầu tư nước ngoài trong 10 tháng năm 2006 (bao gồm cả vốn cấp mới và vốn tăng thêm) lên gần 6,5 tỷ USD.
Đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép trong 10 tháng tập trung chủ yếu vào khu vực công nghiệp và xây dựng với 477 dự án và 3,1 tỷ USD, chiếm 67,6% số dự án và 65% tổng vốn đăng ký; tiếp theo là khu vực dịch vụ 181 dự án và 1,57 tỷ USD, chiếm 25,7% số dự án và 32,8% tổng vốn đăng ký; khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản 47 dự án và 106 triệu USD, chiếm 6,7% số dự án và 2,2% tổng vốn đăng ký.
Trong các địa phương, thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu cả nước với 190 dự án và 1151,7 triệu USD, chiếm 27% tổng số dự án và 24,1% vốn đăng ký; Bình Dương 153 dự án và 666,3 triệu USD, chiếm 21,7 số dự án và 13,9% vốn đăng ký; Hà Nội 89 dự án và 530,3 triệu USD, chiếm 12,6% số dự án và 11,1% số vốn đăng ký; Bà Rịa - Vũng Tàu 9 dự án và 509,5 triệu USD; chiếm 1,3% số dự án và 10,7% vốn đăng ký; Đồng Nai 67 dự án và 275,3 triệu USD...; riêng Quảng Ngãi chỉ có 1 dự án nhưng vốn đăng ký lên đến 556 triệu USD.
Có 38 quốc gia và vùng lãnh thổ được cấp mới giấy phép đầu tư vào Việt Nam, trong đó Đặc khu HC Hồng Công (Trung Quốc) tiếp tục là đối tác có số vốn đầu tư lớn nhất với 833,5 triệu USD, chiếm 17,4% tổng vốn đăng ký; Hàn Quốc 770,4 triệu USD, chiếm 16,1%; Hoa Kỳ 635,6 triệu USD, chiếm 13,3%; Quần đảo Cay-men 576 triệu USD, chiếm 12,1%; Nhật Bản 556,4 triệu USD, chiếm 11,6%; Quần đảo Vigin thuộc Anh 319,8 triệu USD, chiếm 6,7%; Xin-ga-po 223,6 triệu USD, chiếm 4,7%...
4. Thương mại, giá cả và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 10 tháng theo giá thực tế ước tính đạt 470 nghìn tỷ đồng, tăng 20,5% so cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt 59 nghìn tỷ đồng, tăng 9,2%; kinh tế tập thể đạt 4,6 nghìn tỷ đồng, tăng 20,5%; kinh tế cá thể đạt 294,2 nghìn tỷ đồng, tăng 21,9%; kinh tế tư nhân đạt 100,1 nghìn tỷ đồng, tăng 24,1% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 12,1 nghìn tỷ đồng, tăng 20,5%. Xét theo ngành kinh doanh, thương nghiệp ước tính đạt 383 nghìn tỷ đồng, tăng 19,7% so cùng kỳ năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 56,8 nghìn tỷ đồng, tăng 21,4%; du lịch đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, tăng 28,7% và dịch vụ đạt 26,8 nghìn tỷ đồng, tăng 31,2%.
Giá tiêu dùng tháng 10/2006 tăng 0,2% so với tháng trước, giảm 0,1 điểm phần trăm so với mức tăng giá 0,3% trong tháng 9. Như vậy, sau khi tăng lương trong tháng này giá tiêu dùng vẫn diễn biến ở mức bình thường, chứng tỏ phản ứng của thị trường là tích cực. Trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,5%, chủ yếu do giá lương thực tăng ở mức 1,3%; nhà ở, vật liệu xây dựng và phương tiện đi lại, bưu điện đều giảm so với tháng trước, trong khi đó giá dược phẩm và dịch vụ y tế tăng 0,6% và giáo dục tăng 1,6% (tăng gần 1 điểm phần trăm so với giá giáo dục tháng 9) chủ yếu do từ cuối tháng 9 đến nay là thời gian nhập học của đa số các trường thuộc hệ thống đào tạo. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng còn lại tăng phổ biến ở mức 0,2- 0,5%.
So với cuối năm 2005 giá tiêu dùng tháng 10/2006 tăng 5,4% và tăng ở tất cả mười nhóm hàng hoá và dịch vụ, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống có mức tăng cao nhất (+5,9%); nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 5,6%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 4,4%; các nhóm còn lại tăng phổ biến từ 3% đến 5%. So với tháng 10 năm 2005 giá tiêu dùng tháng 10/2006 tăng 6,7%, trong đó tăng cao là các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 7,9%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,9% và phương tiện đi lại, bưu điện tăng 3,4% (giá bưu chính viễn thông giảm, chỉ bằng 97,3% giá tháng 10 năm trước). Bình quân 10 tháng giá tiêu dùng tăng 7,6%.
Giá vàng tháng 10/2006 tiếp tục xu hướng giảm so với tháng trước và chỉ bằng 96,9% giá tháng 9 (tháng 9 bằng 97,1% giá tháng 8), chủ yếu do giá vàng trên thị trường thế giới giảm. Do vậy giá vàng tháng 10 so với cuối năm trước chỉ tăng 21,1% và chỉ còn tăng 31,3% so với tháng 10 năm ngoái. Nhìn chung, do nhu cầu mua vàng tích trữ của người dân tăng cao nên giá vàng trong nước tuy giảm nhưng vẫn cao hơn giá vàng thế giới. Giá đô la Mỹ tăng 0,2% so với tháng 9, tăng thêm 0,1 điểm phần trăm so với tốc độ tăng 0,1% của tháng 9 và như vậy tăng 0,8% so với cuối năm trước và tăng 0,9% so với tháng 10 năm trước.
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương 10 tháng 2006 ước tính đạt 69,74 tỷ USD, tăng 22,3% so cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 32,87 tỷ USD, tăng 24,2% và nhập khẩu đạt 36,87 tỷ USD, tăng 20,7%. Xuất khẩu có tốc độ tăng cao hơn nhập khẩu nên mức chênh lệch xuất nhập khẩu được thu hẹp dần, mức nhập siêu 10 tháng 2006 là 3997 triệu USD, ngang mức nhập siêu của cùng kỳ năm trước, nhưng tỷ lệ so với xuất khẩu đã được cải thiện hơn, chỉ bằng 12,2% kim ngạch xuất khẩu (tỷ lệ này cùng kỳ năm trước là 15,5%).
Kim ngạch xuất khẩu tháng 10 tăng mạnh cả ở khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu thô), ước tính đạt 3,4 tỷ USD, cao hơn mức thực hiện 3,29 tỷ USD của tháng 9, trong đó khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu 1,5 tỷ USD, tăng 31,6% so với cùng kỳ và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 1,3 tỷ USD, tăng 32%; riêng dầu thô xuất khẩu đạt thấp, ước tính chỉ khoảng 600 triệu USD, giảm 7,6%. Các mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng cao là giày dép, điện tử máy tính, dây điện và cáp điện, sản phẩm nhựa, cà phê, rau quả, cao su, thuỷ sản và sản phẩm gỗ.
Tính chung 10 tháng, trị giá xuất khẩu đã đạt khoảng 87,1% so kế hoạch năm 2006, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 13,85 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô 11,91 tỷ USD, tăng 32,4%; dầu thô 7,1 tỷ USD, tăng 15,9%. Lượng xuất khẩu dầu thô 10 tháng mới đạt 13,8 triệu tấn, để đạt kế hoạch xuất khẩu cả năm là 18 triệu tấn, thì mỗi tháng còn lại phải xuất khẩu được 2,1 triệu tấn và như vậy là quá cao so với mức bình quân đã thực hiện trong 10 tháng.
Dệt may là mặt hàng có kim ngạch cao thứ 2 trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, ước tính 10 tháng đạt xấp xỉ 5 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ và đóng góp 16,6% vào mức tăng chung. Các thị trường lớn là Mỹ với kim ngạch 2,42 tỷ USD, tăng 26,5% so với cùng kỳ; EU xấp xỉ 1 tỷ USD, tăng 49%; Nhật Bản 470 triệu USD, tăng 4%... Xuất khẩu giày dép 2,9 tỷ USD, tăng 19,9% so với cùng kỳ, trong đó thị trường Mỹ tăng tới 31%. Một số mặt hàng khác có kim ngạch tăng cao, đáng kể là: Dây điện và cáp điện tăng 38,1%; than đá tăng 37,8%; sản phẩm nhựa tăng 35%; điện tử, máy tính tăng 20,2%...
Xuất khẩu thuỷ sản 2,7 tỷ USD, tăng 23,2%, trong đó tháng 10 đạt mức cao nhất từ đầu năm đến nay với 350 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản có chiều hướng tăng giảm khác nhau, trong đó tăng ở các mặt hàng cà phê tăng 37,6%; rau quả tăng 13,4%; cao su tăng 86,3%; hạt tiêu tăng 38%; hạt điều tăng 1,8%; chè tăng 21,9% và giảm ở một số mặt hàng như: gạo giảm 7,8%; lạc giảm 67,1%. Xét về lượng, hầu hết các mặt hàng nông sản đều có lượng tăng khá như: cao su tăng 31,2%; hạt tiêu tăng 19,3%; hạt điều tăng 21,5%; chè 26,3%... Tuy nhiên, một số nông sản xuất khẩu lượng giảm so với cùng kỳ năm trước là: gạo giảm 9,5%; cà phê giảm 6,6%; lạc giảm 73,2%.
Kim ngạch nhập khẩu 10 tháng năm 2006 ước tính đạt 36,87 tỷ USD, tăng 20,7% so cùng kỳ năm trước và đạt 86,7% kế hoạch năm 2006, trong đó khu vực kinh tế trong nước 23,34 tỷ USD, tăng 20,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 13,53 tỷ USD, tăng 20,8%.
Nhập khẩu hầu hết các nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước đều có xu hướng tăng cao. Nhập khẩu máy móc, thiết bị 10 tháng 5,32 tỷ USD, tăng 23% so với cùng kỳ (trong đó nhập từ thị trường Nhật Bản khoảng 1 tỷ USD, Trung Quốc 798 triệu USD, Đài Loan 496 triệu USD, Xin-ga-po 421 triệu USD); nhập khẩu xăng dầu 9,37 triệu tấn, giảm 2,7%, nhưng kim ngạch đạt 5,12 tỷ USD, tăng 22,3%, do giá vẫn cao hơn nhiều so với cùng kỳ. Nhập khẩu sắt, thép 2,42 tỷ USD, giảm 4,2% so với 10 tháng năm ngoái, trong khi lượng nhập khẩu 10 tháng tăng 1,3%, chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu thép thành phẩm trong nước tăng cao (nhập khẩu phôi thép giảm 9,1% về lượng và 8,6% về kim ngạch). Nhập khẩu vải gần 2,4 tỷ USD, tăng 22,9% chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu, trong khi nhập nguyên phụ liệu dệt, may, da, 10 tháng giảm 12,7%, do sản xuất trong nước đã dần thay thế được hàng nhập khẩu (10 tháng năm trước tăng 2,6%). Một số mặt hàng khác có kim ngạch tăng trong 10 tháng qua là: giấy các loại tăng 35%; chất dẻo tăng 28%; thuốc trừ sâu tăng 26,4%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 20,1%; hoá chất tăng 19,8%. Riêng 2 mặt hàng ô tô và xe máy đều giảm về kim ngạch, trong đó ô tô giảm 39,5% và xe máy giảm 6,5%.
Vận chuyển hành khách 10 tháng năm 2006 ước tính đạt 1153,7 triệu lượt khách và 48,9 tỷ lượt khách.km, so với cùng kỳ năm 2005 tăng 9,1% về lượt khách và tăng 9,8% về lượt khách.km. Trong đó, vận tải trong nước thực hiện 1151,1 triệu lượt khách và 41,3 triệu lượt khách.km, tăng 9,1% về số khách và 8,3% về số khách.km; vận tải ngoài nước thực hiện 2,6 triệu lượt khách và 7,6 tỷ lượt khách.km, tăng 14,4% về số khách và tăng 18,6% về số khách.km. Trong các ngành vận tải, vận chuyển hành khách bằng đường bộ đạt 987,7 triệu lượt khách, chiếm 85,6% số lượt hành khách vận chuyển, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách bằng đường biển tăng 11,5%, đường hàng không tăng 12,8% và đường sông tăng 3,9%. Khối lượng hành khách luân chuyển chủ yếu do tăng luân chuyển bằng đường bộ và đường hàng không. Riêng vận chuyển hành khách bằng đường sắt giảm cả về khối lượng vận chuyển và khối lượng luân chuyển.
Vận tải hàng hoá: Tháng 10 thời tiết thuận lợi cho hoạt động của ngành vận tải, ngoài ra còn là tháng đầu quý 4, các ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ đang trong giai đoạn đẩy mạnh tiến độ sản xuất để đảm bảo hoàn thành kế hoạch năm nên nhu cầu vận chuyển hàng hoá cao, tạo nguồn hàng dồi dào cho ngành vận tải. Vận chuyển hàng hoá 10 tháng năm 2006 ước tính đạt 287,6 triệu tấn và 72,6 tỷ tấn.km, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,9% về tấn và tăng 9% về số tấn.km. Trong đó, vận chuyển hàng hoá tuyến trong nước thực hiện 270,7 triệu tấn và 26,4 tỷ tấn.km, tăng 8,3% về tấn và tăng 12,6% về tấn.km; vận chuyển hàng hoá tuyến ngoài nước thực hiện 16,9 triệu tấn và 46,2 tỷ tấn.km, tăng 0,9% và tăng 7,1%. Vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ tăng 9% về tấn và tăng 9,2% về tấn.km; tương tự, đường biển tăng 5,6% và tăng 9,3%; đường sông tăng 6,8% và tăng 7%; đường hàng không tăng 13,4% và tăng 16,7%, riêng đường sắt khối lượng vận chuyển xấp xỉ cùng kỳ năm trước nhưng khối lượng luân chuyển tăng 5,7%, do tăng các tuyến vận tải đường dài.
Khách quốc tế đến Việt Nam 10 tháng năm 2006 ước tính đạt 2,95 triệu lượt người, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2005. Trong đó, khách đến với mục đích du lịch, nghỉ ngơi 1,68 triệu lượt người, tăng 0,7%; đi công việc 469,3 nghìn lượt người, tăng 17,5%; thăm thân nhân 486,8 nghìn lượt người, tăng 13,7%; riêng khách đến với các mục đích khác 316,7 nghìn lượt người, giảm 10,3%.
Một số nước và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta lớn và có tốc độ tăng cao như: Hàn Quốc 338,9 nghìn lượt người, tăng 29,3%; Hoa Kỳ 322,3 nghìn lượt người, tăng 17%; Nhật Bản 311,8 nghìn lượt người, tăng 17,7%. Khách đến từ một số nước như Thái Lan, Na Uy, Xin-ga-po, Đan Mạch, Ma-lai-xi-a tuy không nhiều nhưng có mức tăng khá cao, tăng từ 22,2% đến 39,7%.
Trong khi đó, khách đến từ Trung Quốc 456,2 nghìn người, giảm 26,6% so với 10 tháng năm trước; từ Đài Loan 229,9 nghìn lượt người, giảm 2,8%; từ Campuchia 134,5 nghìn lượt người, giảm 12,7%...
5. Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10 ước tính đạt 77,9% kế hoạch năm, trong đó các khoản thu nội địa đạt 73,5%, thu từ dầu thô đạt 87,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 75,2%; thu viện trợ đạt 96%. Trong các khoản thu nội địa, thu từ kinh tế Nhà nước đạt 76%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không kể dầu thô đạt 59,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước đạt 79,3%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 79,5%; thu phí xăng dầu 66,6%; thu phí, lệ phí đạt 90,1%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10 ước tính đạt 76,6% kế hoạch năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 72,9% (chi đầu tư xây dựng cơ bản 72%); chi thường xuyên 81,6%; chi trả nợ và viện trợ 85,3%.
6. Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng 10/2006 có gần 27 nghìn hộ với 123,6 nghìn nhân khẩu bị thiếu đói, chiếm 0,2% tổng số hộ và số nhân khẩu nông nghiệp của cả nước. Tình hình thiếu đói trong tháng đã giảm rõ rệt: So với tháng trước, số hộ thiếu đói giảm 13,1% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 16,2%; so với thời điểm cuối tháng 10/2005, số hộ thiếu đói giảm 66,4% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 63,9%. Để hỗ trợ các hộ thiếu đói khắc phục khó khăn, từ đầu năm đến nay các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân đã trợ giúp 6,4 nghìn tấn lương thực và 7,6 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh
Trong tháng 10/2006 có 5,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 6,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết và hơn 30 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút. Tính từ đầu năm đến 20/10/2006, cả nước có 58,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 49,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết và 5,2 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút. Như vậy, so với cùng kỳ năm 2005, số trường hợp mắc bệnh sốt rét giảm 15,1% trong khi số trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết tăng 39,4% và mắc bệnh viêm gan virút tăng 13,9%.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng 10/2006 đã phát hiện thêm 920 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 20/10/2006 lên 113,6 nghìn người, trong đó 19,5 nghìn bệnh nhân AIDS và gần 11,4 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 10/2006, tại thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bình Định, Phú Thọ, Hà Tây và Hà Nội đã xảy ra 10 vụ ngộ độc thực phẩm với 546 trường hợp bị ngộ độc. Tính từ đầu năm đến nay, cả nước đã có hơn 5,6 nghìn trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, tăng 73% so với cùng kỳ năm 2005, trong đó 56 người đã tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 9/2006 (từ 22/8 đến 21/9), trên phạm vi cả nước đã xảy ra 1184 vụ tai nạn giao thông, làm chết 987 người và bị thương 870 người. Mặc dù tai nạn giao thông trong tháng 9 đã giảm cả về số vụ và mức độ thiệt hại về người so với tháng trước (số vụ tai nạn giảm 5,1%; số người chết giảm 6%; số người bị thương giảm 14,4%), nhưng so với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông vẫn tăng 7,2%; số người chết tăng 8,2%.
Tính chung 9 tháng năm 2006, trên địa bàn cả nước xảy ra 10,8 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 9,4 nghìn người và bị thương 8,3 nghìn người. So với cùng kỳ năm 2005, số vụ tai nạn giao thông tăng 0,3%; số người chết tăng 8,5%; riêng số người bị thương giảm 6,9%. Bình quân một ngày trong 9 tháng đầu năm nay xảy ra 40 vụ tai nạn, làm chết 34 người và làm bị thương 30 người.
Thiệt hại do lụt bão
Từ giữa tháng 9 đến nay đã xảy ra bão, lũ, mưa to và lốc xoáy tại nhiều địa phương trong cả nước, đặc biệt là cơn bão số 6 đã đổ bộ trực tiếp vào nước ta tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên như: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum... Mặc dù trước khi bão số 6 đổ bộ vào đất liền, các cấp, các ngành, các địa phương đã tổ chức phòng chống tích cực: Trên 60 nghìn tàu thuyền được hướng dẫn về nơi trú ẩn và khoảng 5 vạn hộ dân được di dời khẩn cấp đến nơi an toàn..., tuy nhiên do đây là cơn bão có cường độ rất mạnh nên thiệt hại vẫn rất nặng nề.
Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm gần 80 người chết, mất tích và trên 500 người bị thương, chủ yếu là do bão số 6. Trên 11 nghìn ha lúa bị ngập và hư hại, trong đó mất trắng gần 2 nghìn ha; 50,7 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hại, trong đó mất trắng 33 nghìn ha; 10,2 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hại; 2,8 nghìn phòng học và trên 20 nghìn nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hàng trăm nghìn nhà ở bị sạt lở, tốc mái, ngập nước. Bão số 6 cũng gây thiệt hại đối với nhiều công trình phòng chống lụt bão, hệ thống điện và nhiều công trình giao thông. Tổng giá trị thiệt hai ước tính khoảng 10 nghìn tỷ đồng, trong đó Đà Nẵng thiệt hại 5,2 nghìn tỷ đồng; Thừa Thiên-Huế 2,9 nghìn tỷ đồng; Quảng Nam 1,6 nghìn tỷ đồng.