Tình hình kinh tế - xã hội 7 tháng năm 2006
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp:
Lúa hè thu: Tính đến trung tuần tháng 7, các địa phương phía Nam gieo cấy 2022,1 nghìn ha lúa hè thu, bằng 99,1% cùng kỳ năm trước, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long xuống giống được khoảng 1755,2 nghìn ha, bằng 98,7%. Hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã chủ động được nước tưới nên gieo cấy hết diện tích: Long An bằng 110,9% cùng kỳ; Kiên Giang 102,3%; Cần Thơ 100,5%; Sóc Trăng 100,6%; riêng một số tỉnh do hạn hán đầu vụ nên không gieo cấy hết diện tích: Trà Vinh chỉ bằng 98%, Vĩnh Long 98,1%. Các tỉnh Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ thời tiết thuận nên tiến độ gieo cấy lúa hè thu nhanh hơn so với cùng kỳ năm trước (Phú Yên 102,3%, Bình Định 117%).
Theo báo cáo sơ bộ, năng suất trên diện tích trà lúa đã thu hoạch ở đồng bằng sông Cửu Long không cao hơn so với năm trước, do một số địa phương bị ảnh hưởng sâu bệnh, rầy nâu (Kiên Giang năng suất ước tính giảm khoảng 6,3 tạ/ha, Tiền Giang giảm 1,4 tạ/ha, An Giang giảm 3,2 tạ/ha).
Lúa mùa: Tính đến giữa tháng 7/2006, cả nước gieo cấy được 1144,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 113% cùng kỳ năm trước; trong đó miền Bắc gieo cấy được 1018,2 nghìn ha, bằng 115,5%, miền Nam 126,2 nghìn ha, bằng 96,6%. Mặc dù thời tiết nắng nóng ở miền Bắc đã ảnh hưởng đến tiến độ làm đất nhưng các địa phương đã chủ động đẩy nhanh gieo cấy lúa mùa sớm, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Hồng đã gieo cấy được khoảng 505,1 nghìn ha, bằng 123,8% cùng kỳ năm 2005. Đến nay, một số tỉnh đã cơ bản kết thúc gieo cấy lúa mùa như Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam...
Cây trồng khác: Đến thời điểm này, cả nước gieo trồng 822,5 nghìn ha ngô, bằng 100,7% so với cùng kỳ; 141,2 nghìn ha khoai lang, bằng 99,9%; 331,2 nghìn ha sắn, bằng 106%; 210,4 nghìn ha lạc, bằng 95,2%; 137,5 nghìn ha đậu tương, bằng 92%; 79,6 nghìn ha mía trồng mới, bằng 135,4%; 551 nghìn ha rau đậu các loại, xấp xỉ cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi: Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố chăn nuôi gia súc, gia cầm đang có xu hướng phát triển trở lại, nhưng còn chậm do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm và dịch bệnh lở mồm long móng gia súc khiến nhiều hộ chăn nuôi có tâm lý không tiếp tục đầu tư mở rộng. Tuy dịch cơ bản đã được khống chế nhưng hiện nay ngành thú y vẫn đang đẩy mạnh công tác tiêm phòng đợt 2 và kiểm soát những đàn gia súc, gia cầm có quy mô vừa và lớn trên địa bàn.
Lâm nghiệp:
Trong tháng, thời tiết có mưa ở các tỉnh phía Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng rừng, hầu hết các địa phương đã chuẩn bị đủ lượng cây giống và đất trồng rừng theo kế hoạch. Gỗ và các cây lâm sản khác đang bước vào vụ khai thác. Sản lượng gỗ khai thác 7 tháng ước tính đạt 1461 nghìn m3, trong đó Lâm Đồng 20,7 nghìn m3, Quảng Nam 83,6 nghìn m3. Cũng do thời tiết mưa nhiều nên ít xảy ra cháy rừng, trong tháng 7 chỉ có ba địa phương là Hà Tĩnh, Thừa Thiên-Huế và Đà Nẵng xảy ra cháy rừng nhưng thiệt hại không đáng kể.
Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản tháng 7 ước tính đạt 324,4 nghìn tấn, tăng 8,4% so với tháng 7 năm trước, trong đó cá tăng 7,7%; tôm tăng 15,3%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng khá, do đang trong vụ thu hoạch, ước tính đạt 139,5 nghìn tấn, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2005, trong đó cá tăng 19,9%, tôm tăng 20%. Sản lượng thuỷ sản khai thác ước tính đạt 184,9 nghìn tấn tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển 166 nghìn tấn, tăng 2,2%. Tính chung 7 tháng năm 2006, tổng sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 2021,9 nghìn tấn, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nuôi trồng 787,4 nghìn tấn, tăng 18,9% và khai thác 1234,5 nghìn tấn, tăng 2,3%.
2. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7 ước tính tăng khá so với cùng tháng năm trước (+18,6%), trong đó kinh tế Nhà nước tăng 10,4% (Trung ương quản lý tăng 12,3%, địa phương quản lý tăng 4,9%), kinh tế ngoài Nhà nước tăng 24,5% và kinh tế có đầu tư nước ngoài tăng 21,7% (dầu mỏ và khí đốt giảm 7,2%, chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác giảm 6,5%; các sản phẩm khác tăng 28%). Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng 7 tăng cao so với tháng 7 năm trước như: than sạch khai thác tăng 38,1%; quần áo dệt kim tăng 19,8%; thép cán tăng 15,5%; máy công cụ tăng 49,7%; động cơ điện tăng 22,5%. Nhiều sản phẩm tăng ở mức trên dưới 10% như điện tăng 11,3%, thuỷ sản chế biến tăng 10,4%, quần áo may sẵn tăng 12,6%; giấy, bìa các loại tăng 7,7%; xi măng tăng 6,7%; vật liệu xây dựng khác tăng từ 9-12%; riêng quạt điện và ti vi chỉ tăng chưa đến 1%. Bên cạnh đó một số sản phẩm thấp xa so với mức sản xuất của tháng 7/2005: phân hoá học chỉ bằng 68,3% cùng kỳ năm trước, máy biến thế bằng 60,9%, ô tô lắp ráp bằng 72,5%, xe đạp bằng 70,5%.
Tính chung 7 tháng năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực Nhà nước tăng 9,6% (Trung ương quản lý tăng 12,4%; địa phương quản lý tăng 2%); khu vực ngoài Nhà nước tăng 21,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8% (dầu mỏ và khí đốt giảm 4% và các sản phẩm khác tăng 24,2%).
Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng cho nền kinh tế và xuất khẩu duy trì tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung như: Than sạch khai thác tăng 24,6%; vải lụa tăng 17,5%; quần áo may sẵn tăng 22,3%; thuốc trừ sâu tăng 19,9%; thép cán tăng 16,1%...
3. Đầu tư
Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng 7/2006 uớc tính thực hiện 5,2 nghìn tỷ đồng, bằng 9,3% kế hoạch cả năm, trong đó các đơn vị Trung ương quản lý thực hiện 1,6 nghìn tỷ đồng, bằng 9,1%; các đơn vị địa phương quản lý 3,6 nghìn tỷ đồng, bằng 9,4%. Tính chung 7 tháng năm 2006, tổng vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước tính thực hiện 31,9 nghìn tỷ đồng, bằng 56,9% kế hoạch cả năm. Vốn đầu tư do ngân sách Trung ương quản lý thực hiện 10,2 nghìn tỷ đồng, bằng 58,6% kế hoạch năm, trong đó Bộ Giao thông Vận tải 3,8 nghìn tỷ đồng, bằng 57%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 1230,7 tỷ đồng, bằng 61,7%; Bộ Xây dựng 1234,6 tỷ đồng, bằng 74,6%; Bộ Y tế 434,4 tỷ đồng, bằng 48,4%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 422,4 tỷ đồng, bằng 47,7%; Bộ Văn hoá Thông tin 225,7 tỷ đồng, bằng 52,7%; Bộ Thuỷ sản bằng 49,6%; Bộ Công nghiệp bằng 53,2%. Vốn đầu tư do địa phương quản lý ước tính đạt 21,7 nghìn tỷ đồng, bằng 56,1% kế hoạch năm, trong đó Hà Nội 2,54 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1% kế hoạch năm; Hải Phòng 647,5 tỷ đồng, bằng 48,4%; Thanh Hoá 701,5 tỷ đồng, bằng 62,3%; Nghệ An 554,3 tỷ đồng, bằng 55,1%; Đà Nẵng 1326,3 tỷ đồng, bằng 61%; Đồng Nai 849,8 tỷ đồng, bằng 65,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1163,5 tỷ đồng, bằng 56,7% và thành phố Hồ Chí Minh 3,61 nghìn tỷ đồng, bằng 45,1%.
Tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Từ đầu năm đến 22/7, cả nước có 367 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 2,77 tỷ USD, bình quân vốn đăng ký 1 dự án cấp mới đạt 7,6 triệu USD. Trong 7 tháng qua cũng đã có 197 lượt dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm 642,7 triệu USD. Tính chung tổng số vốn cấp mới và tăng thêm 7 tháng năm 2006 là 3,42 tỷ USD.
Trong 7 tháng năm nay có 255 dự án được cấp giấy phép đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây dựng với số vốn đăng ký 1,61 tỷ USD, chiếm 69,5% số dự án và 57,9% tổng vốn đăng ký; khu vực dịch vụ 92 dự án và 1,15 tỷ USD, chiếm 25,1% số dự án và 41,3% tổng vốn đăng ký; khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản 20 dự án và 21,5 triệu USD, chiếm 5,4% số dự án và 0,8% tổng vốn đăng ký.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đứng đầu cả nước với 125 dự án và 1023,1 triệu USD, chiếm 34,1% tổng số dự án và 36,9% vốn đăng ký; tiếp đến là Hà Nội với 54 dự án và 499,2 triệu USD, chiếm 14,7% số dự án và 18% số vốn đăng ký; Bà Rịa - Vũng Tàu 320,9 triệu USD, chiếm 11,6% tổng vốn đăng ký; Hải Dương 118,5 triệu USD, chiếm 4,3%; Bình Dương 115,2 triệu USD, chiếm 4,2%...
Có 32 quốc gia và vùng lãnh thổ được cấp mới giấy phép đầu tư vào Việt Nam, trong đó Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) là đối tác có số vốn đầu tư lớn nhất với 619,6 triệu USD, chiếm 22,3% tổng vốn đăng ký; Hàn Quốc 492,8 triệu USD, chiếm 17,8%; Hoa Kỳ 444,2 triệu USD, chiếm 16%; Nhật Bản 319,6 triệu USD, chiếm 11,5%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 287,1 triệu USD, chiếm 10,4%.
4. Thương mại, giá cả và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 7 tháng đầu năm 2006 theo giá thực tế ước tính đạt 315,4 nghìn tỷ đồng, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong các khu vực, kinh tế Nhà nước đạt 38,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,2% tổng mức và tăng 7,9%; kinh tế tập thể chỉ chiếm 1% nhưng tăng 20,5%; kinh tế cá thể chiếm 63%, tăng 20,6%; kinh tế tư nhân chiếm 21,3%, tăng 25%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 2,5%, tăng 22%. Trong tổng mức, ngành thương nghiệp chiếm tỷ trọng 81,6% và tăng 19%; khách sạn nhà hàng, chiếm 12,1%, tăng 21,1%; dịch vụ chiếm 5,6%, tăng 28,3% và du lịch chiếm tỷ trọng nhỏ nhất 0,7% nhưng có tốc độ tăng cao nhất là 31,3%
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội 7 tháng đầu năm của Hà Nội ước tính đạt 30,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,8% tổng mức và tăng 23,2% so với cùng kỳ; thành phố Hồ Chí Minh đạt 71,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 22,7%, tăng 20,4%.
Giá tiêu dùng tháng 7/2006 tăng 0,4% so với tháng trước, ngang mức tăng giá của tháng 6, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,4% (lương thực tăng 0,4%; thực phẩm tăng 0,5%); nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,8%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,6%; hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại tăng phổ biến ở mức 0,2% đến 0,3%; riêng giá nhóm văn hoá thể thao, giải trí và phân nhóm bưu chính viễn thông không thay đổi so với tháng trước.
So với tháng 12/2005 giá tiêu dùng tháng 7/2006 tăng 4,4% và tăng ở tất cả mười nhóm hàng hoá và dịch vụ, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống có mức tăng cao nhất (+5,4%); nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 4,1%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng và đồ uống, thuốc lá đều tăng 3,6%; các nhóm còn lại tăng phổ biến từ 2% đến 3,5%; riêng nhóm giáo dục chỉ tăng 0,8%.
So với tháng 7 năm 2005 giá tiêu dùng tháng 7/2006 tăng 7,5%, trong đó tăng cao là các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 8,5%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 9,1% và phương tiện đi lại, bưu điện tăng 7,9% (giá bưu chính viễn thông giảm, chỉ bằng 92,5% giá tháng 7 năm trước). Với tỷ trọng gần 62% tổng chi tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, ba nhóm này đã đóng góp chính vào tăng giá tháng 7 so với cùng kỳ.
Giá vàng tháng 7/2006 giảm 3,1% so với tháng trước, giảm ít hơn mức giảm giá 5,6% của tháng 6 (so với tháng trước) nhưng vẫn còn tăng 25,8% so với tháng 12/2005 và tăng 44,7% so với tháng 7 năm trước. Tuy nhiên, giá vàng tháng 7 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp và bị ảnh hưởng chủ yếu bởi giá vàng trên thế giới. Giá đô la Mỹ ổn định, giảm 0,2% so với tháng trước, tăng 0,4% so với tháng 12/2005 và tăng 0,7% so với tháng 7 năm trước.
Tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá 7 tháng ước tính đạt 47,1 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2005. Trị giá nhập siêu 7 tháng 2,43 tỷ USD, bằng 10,9% kim ngạch xuất khẩu (thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ 19,6% của 7 tháng năm trước).
Xuất khẩu hàng hoá tháng 7 ước tính đạt 3,5 tỷ USD, ngang mức đã thực hiện trong tháng 6 (cao hơn khoảng 100 triệu USD so với 3,4 tỷ USD đã ước tính từ cuối tháng 6). So với tháng 7 năm trước, kim ngạch tháng 7/2006 tăng 21,9%, thấp hơn mức tăng chung của 6 tháng đầu năm nay do tốc độ tăng của một số mặt hàng chủ lực tháng 7 chững lại và đạt mức tăng thấp hơn 6 tháng như: dệt may tăng 25,7% (6 tháng tăng 33,6%); giày dép tăng 18,1% (6 tháng tăng 23,1%); sản phẩm nhựa tăng 27% (6 tháng tăng 30,7%); gạo giảm 31% (6 tháng tăng 1,2%); cao su tăng 79,4% (6 tháng tăng 122,7%); hạt tiêu tăng 40,2% ( 6 tháng tăng 45,1%); thuỷ sản tăng 18,4% (6 tháng tăng 27,2%).
Tính chung 7 tháng giá trị xuất khẩu hàng hoá đạt 22,34 tỷ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước 9,37 tỷ USD, tăng 21,3%, đóng góp 9,2 điểm phần trăm vào tăng chung; dầu thô 4,92 tỷ USD, tăng 22,4%, đóng góp 5,1 điểm phần trăm; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô 8,05 tỷ USD, tăng 33,5%, đóng góp 11,4 điểm phần trăm. Xuất khẩu của 20 trong tổng số 25 mặt hàng, nhóm hàng chủ yếu đều tăng, trong đó dầu thô vẫn là mặt hàng đứng đầu về kim ngạch. Xuất khẩu dầu thô 7 tháng năm 2006 ước tính đạt 4,92 tỷ USD, tăng 22,4% so với cùng kỳ, trong khi lượng dầu thô giảm 5,8%; dệt may 3,36 tỷ USD, tăng 32,1%; giày dép xấp xỉ 2,1 tỷ USD, tăng 22,3%; thuỷ sản 1,74 tỷ USD, tăng 25,5%; điện tử máy tính, tăng 19,8%; dây điện và cáp điện tăng 37,7%; sản phẩm nhựa tăng 30,1%; riêng xe đạp và phụ tùng xe đạp giảm 18,6%. Than đá là mặt hàng xuất khẩu đầu tiên hoàn thành và đã vượt 13% so với kế hoạch xuất khẩu năm 2006 với lượng than đá xuất khẩu của 7 tháng là 15,8 triệu tấn, tăng 67,2% và kim ngạch 498 triệu USD, tăng 35,4%.
Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản đạt khá, xuất khẩu cao su 7 tháng ước tính đạt 635 triệu USD và có mức tăng kỷ lục (+113,2%) so với cùng kỳ, do lợi thế về giá và chất lượng tốt hơn năm trước; xuất khẩu hạt tiêu hiện nay đứng đầu thế giới với lượng cung cấp 7 tháng năm 2006 là 89 nghìn tấn tương đương với 129 triệu USD, tăng 36,9% về lượng và 44,3% về kim ngạch; chè 55 triệu tấn, tăng 37,6% và kim ngạch 55 triệu USD, tăng 30,1%. Bên cạnh đó, một số nông sản giảm về kim ngạch như: gạo giảm 5,4%; lạc giảm 71,7%...
Kim ngạch nhập khẩu 7 tháng năm 2006 ước tính đạt 24,77 tỷ USD, tăng 16,5% so cùng kỳ năm trước và đạt 58,3% kế hoạch năm, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 15,76 tỷ USD, tăng 14,5% và đóng góp 56,7% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9 tỷ USD, tăng 20,3%, đóng góp 43,3%. Kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và hầu hết các vật tư, nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất trong nước đều tăng so với cùng kỳ năm trước: Kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 3,44 tỷ USD, tăng 16,3%; xăng dầu 3,67 tỷ USD, tăng 29%; chất dẻo tăng 22,9%; giấy các loại tăng 40,7%; sợi dệt tăng 46,5%; vải tăng 32,1%. Tuy nhiên, một số mặt hàng giảm về kim ngạch như: xe máy giảm 9,5%; sắt thép giảm 10,1%; nguyên phụ liệu dệt, may, da giảm 5,9%; lúa mỳ giảm 7,3%.
Lượng nhập khẩu của một số mặt hàng tăng nhưng với mức độ khác nhau, trong đó một số mặt hàng do giá tăng nên lượng nhập khẩu tăng thấp hơn kim ngạch hoặc lượng giảm như: sắt thép tăng 3,9%; chất dẻo tăng 13,9%; giấy các loại tăng 31,5%; bông tăng 5,2%; xăng dầu giảm 2,9%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng giảm cả về lượng và kim ngạch so với 7 tháng năm trước như: phôi thép lượng giảm 10,5%, kim ngạch giảm 13,2%; phân urê lượng giảm 20,8%, kim ngạch giảm 24,2%; ô tô nguyên chiếc lượng giảm 37,3%, kim ngạch giảm 41,1%.
Vận chuyển hành khách 7 tháng năm 2006 ước tính đạt 753,8 triệu lượt hành khách và 32,1 tỷ lượt hành khách.km, tăng 9,3% về lượt hành khách và tăng 10,3% về lượt hành khách.km so với cùng kỳ năm 2005. Theo cấp quản lý, các đơn vị vận tải trung ương vận chuyển 14,9 triệu lượt khách, tăng 3,1% và 10,2 tỷ hành khách.km, tăng 11,6%, các đơn vị vận tải địa phương vận chuyển 738,9 triệu lượt khách, tăng 9,4% và 21,9 tỷ lượt hành khách.km, tăng 9,8%.
Vận chuyển hành khách của các ngành vận tải vẫn giữ mức tăng trưởng ổn định so với cùng kỳ năm trước (trừ ngành đường sắt giảm 10,6% về số lượt khách và giảm 4,3% về lượt khách.km), trong đó đường sông tăng 4,7% về số lượt khách và tăng 3,7% về lượt khách.km; đường bộ tăng 10,2% và tăng 10,6%; đường biển tăng 11,6% và tăng 11%; đường hàng không tăng 13,7% và tăng 18,3%.
Vận chuyển hàng hoá 7 tháng năm 2006 ước tính đạt 197 triệu tấn và 50,1 tỷ tấn.km, tăng 10,1% về tấn và 10,3% về tấn.km so với cùng kỳ năm trước. Các công trình xây dựng đang vào thời kỳ thi công cao điểm, nguồn hàng vận chuyển từ Nam ra Bắc khá dồi dào đồng thời một số địa phương tiếp tục tiến hành xây dựng, cải tạo, nâng cấp các tuyến đường nội tỉnh, do đó các đơn vị vận tải ở hầu hết các ngành đều đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển. Vận chuyển hàng hoá ở các ngành đều đạt mức tăng cao: đường sắt tiếp tục đảm nhận vận chuyển hàng hoá ở những tuyến đường dài, tăng 2,8% về khối lượng vận chuyển và tăng 21,5% về khối lượng luân chuyển; đường biển tăng 8,2% và tăng 9,5%; đường sông tăng 8,6% và tăng 9,1%; đường bộ tăng 11% và tăng 12,1%; đường hàng không tăng 14% và tăng 19,7%.
Khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 7/2006 ước tính đạt 303 nghìn lượt khách, tăng 10,6% so với tháng trước và tăng 6% so với tháng 7/2005 (chủ yếu tăng số khách đến vì công việc và thăm người thân, trong khi khách đến du lịch, nghỉ ngơi chiếm hơn một nửa số khách vào trong tháng 7, không thay đổi so với tháng 7 năm trước).
Tính chung 7 tháng năm 2006, số khách đến Việt Nam ước tính đạt 2,15 triệu lượt khách, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ ngơi 1,22 triệu lượt người, tăng 3,6%; vì công việc 325,2 nghìn lượt người, tăng 24,9%; thăm thân nhân 345,8 nghìn lượt người, tăng 8,5%; khách đến với mục đích khác 254,1 nghìn lượt người, tăng 2,9%. Theo phương tiện vận chuyển, số khách đến bằng đường hàng không ước tính đạt 1,52 triệu lượt khách (chiếm 70,7%) và có mức tăng cao nhất (+18,1%); đường biển tăng 14%, trong khi khách đến bằng đường bộ có xu hướng giảm mạnh, giảm 18,5%. Khách đến từ Hàn Quốc đạt 236,5 nghìn người, tăng 32% so với 7 tháng năm trước; từ Nhật Bản 200 nghìn lượt người, tăng 22,9%; từ Mỹ 240,6 nghìn lượt người, tăng 17,9%; từ một số nước như Thái Lan, Na Uy, Đan Mạch, Nga, Đức, Ca-na-đa, Thuỵ Sĩ đều đạt mức tăng hai con số. Riêng khách đến từ Trung Quốc ước tính tiếp tục giảm trong tháng 7 so với cùng kỳ và số khách đến 7 tháng năm 2006 đạt 358,2 nghìn lượt người, bằng 77,4% cùng kỳ năm trước; khách đến từ Đài Loan đạt mức xấp xỉ cùng kỳ.
5. Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2006 ước tính đạt 56,5% kế hoạch năm và tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005. Các khoản thu nội địa đạt 55,1% kế hoạch năm, trong đó thu từ kinh tế quốc doanh 56,9%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 45,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh 60,1%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 59,7%; thu xổ số kiến thiết 64,2%; các khoản thu về nhà đất 52,3%. Thu từ dầu thô đạt 60,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 53,6%, trong đó thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu đạt 66%; thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu đạt 53,1%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước 7 tháng ước tính tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước và đạt 54,4% kế hoạch năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 51,4% (chi đầu tư xây dựng cơ bản 51,7%); chi trả nợ và viện trợ 55,7%; chi thường xuyên 58,7% (Chi sự nghiệp kinh tế 62,7%; chi quản lý hành chính 59,5%; chi lương hưu và bảo đảm xã hội 59,1%; chi y tế 57,9%; chi giáo dục, đào tạo, dạy nghề 57,8%). Bội chi ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2006 bằng 53,3% mức bội chi dự kiến cả năm, trong đó 70% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 30% vay nước ngoài.
6. Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng 7/2006 có 27,2 nghìn hộ với 131,8 nghìn nhân khẩu bị thiếu đói, chiếm 0,23% tổng số hộ và 0,25% số nhân khẩu nông nghiệp của cả nước. Tháng 7 là tháng có số hộ và số nhân khẩu thiếu đói thấp nhất kể từ đầu năm đến nay, đồng thời giảm mạnh so với tháng trước và cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, số hộ thiếu đói giảm 24%; số nhân khẩu thiếu đói giảm 23%. So với thời điểm cuối tháng 7/2005, số hộ thiếu đói giảm 49,5% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 48,2%. Để hỗ trợ các hộ thiếu đói khắc phục khó khăn, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân đã trợ giúp khoảng 5 nghìn tấn lương thực và 6,6 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh
Trong tháng 7/2006 có 4,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 4,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; hơn 500 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút và trên 200 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do mô cầu. Tính chung từ đầu năm đến 20/6/2006, cả nước có 33,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét, giảm 17,5% so với cùng kỳ năm trước; 23,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, tăng 52,7%; 3,5 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút, tăng 26%; 683 trường hợp viêm màng não do mô cầu, tăng 128,4%, trong đó 18 trường hợp đã tử vong.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng 7/2006 đã phát hiện thêm gần 1,2 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 20/6/2006 lên 110,4 nghìn người, trong đó 18,7 nghìn bệnh nhân AIDS và hơn 10,8 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng đã xảy ra 9 vụ với 430 trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, trong đó 3 người đã tử vong. Tính chung 7 tháng năm 2006, đã có gần 3,7 nghìn trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, trong đó 47 người đã tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 6/2006 (từ 22/5 đến 21/6), trên phạm vi cả nước đã xảy ra 1113 vụ tai nạn giao thông, làm chết 933 người và bị thương 811 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn giảm 15,8%; số người chết giảm 14% và số người bị thương giảm 24,3%. So với tháng 6/2005, tai nạn giao thông giảm 81 vụ; số bị chết giảm 31 người và số bị thương giảm 146 người. Như vậy, sau hai tháng tăng liên tiếp, tình hình tai nạn giao thông trong tháng 6 đã giảm so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước cả về số vụ, số người chết và bị thương.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2006, trên địa bàn cả nước xảy ra 7,5 nghìn vụ tai nạn, làm chết 6,4 nghìn người và bị thương 5,9 nghìn người (trong đó có 12 vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, làm chết 28 người và làm bị thương 106 người). So với cùng kỳ năm 2005, số vụ tai nạn giao thông giảm 1,5%; số người bị thương giảm 10,3%; riêng số người chết tăng 8,6%. Bình quân một ngày trong 6 tháng đầu năm nay xảy ra 42 vụ tai nạn, làm chết 36 người và làm bị thương 32 người.
Thiệt hại do lụt bão
Từ cuối tháng 6 đến nay đã xảy ra hiện tượng mưa lớn, lũ, lốc, sạt lở đất và sét đánh tại một số địa phương trên cả nước như: Thái Bình, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Nghệ An, Đắk Nông, Vĩnh Long,... Theo báo cáo sơ bộ, đã có 11 người chết và 5 người mất tích; 3,9 nghìn ha lúa, hoa màu bị ngập, hư hại, trong đó mất trắng 1,7 nghìn ha lúa; hàng trăm ngôi nhà ở bị sập đổ, cuốn trôi, tốc mái và nhiều công trình kinh tế-xã hội bị ảnh hưởng; giá trị thiệt hại ước tính gần 50 tỷ đồng.