Tình hình kinh tẾ - xã hỘi tháng 01 năm 2007
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
a. Nông nghiệp
Lúa đông xuân: Tính đến ngày 15/1, cả nước đã gieo cấy 1865,4 nghìn ha, bằng 99,5% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 106,5 nghìn ha, bằng 76,3%, các địa phương phía Nam gieo sạ được 1758,9 nghìn ha, bằng 101,3%. Các tỉnh đồng bằng sông Hồng mới gieo được 24 nghìn ha mạ, tiến độ chậm, chỉ bằng 75% cùng kỳ năm trước (Hà Nam bằng 65%, Nam Định bằng 15%,…) và đã cấy 4,2 nghìn ha lúa sớm, bằng 65%; nguyên nhân gieo cấy chậm do mực nước các sông thấp hơn cùng kỳ các năm trước, nên thiếu nguồn nước. Các tỉnh Bắc Trung bộ gieo cấy 89,3 nghìn ha, bằng 95% cùng kỳ năm trước, do thu hoạch vụ đông muộn lại gặp mưa lớn nên giải phóng đất cấy lúa xuân chậm. Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, do giá lúa vẫn ở mức cao đã kích thích nông dân đẩy mạnh xuống giống lúa đông xuân, diện tích gieo sạ ước tính đạt 1493 nghìn ha, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước (An Giang 229,7 nghìn ha, tăng 1%, Kiên Giang 266,7 nghìn ha, tăng 4%, Long An 228,3 nghìn ha, tăng 19%).
Dịch bệnh rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá tiếp tục gây hại trên cây lúa mùa và lúa đông xuân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; toàn vùng có trên 85 nghìn ha lúa bị nhiễm rầy nâu, 43 nghìn ha lúa bị bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, trong đó nhiễm nặng khoảng 20 nghìn ha, đã tiêu huỷ trên 7 nghìn ha.
Thu hoạch lúa mùa ở các tỉnh phía Nam, tính đến trung tuần tháng 01/2007 đạt 669,2 nghìn ha, bằng 107,6% vụ mùa năm trước, trong đó đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 246,7 nghìn ha, chiếm 66% diện tích xuống giống và bằng 121,8% cùng kỳ. Năng suất trên diện tích đã thu hoạch ước tính đạt mức xấp xỉ năng suất vụ mùa năm trước.
Thu hoạch cây vụ đông ở các tỉnh phía Bắc đạt trên 75% diện tích cây đã được trồng vụ đông 2006-2007, trong đó ngô thu hoạch 80%, đậu tương 90%, khoai tây 80%. Nhìn chung, năng suất nhiều loại cây trồng giảm so với vụ đông năm trước, do thời tiết không thuận; ước tính sản lượng một số cây đạt thấp so với vụ đông năm trước, do giảm cả về diện tích và năng suất như: sản lượng ngô bằng 95%; rau, đậu bằng 90%; lạc bằng 90%; riêng đỗ tương bằng 110% do tăng diện tích.
Tiến độ gieo trồng các cây vụ xuân khác chậm, do thiếu nước (diện tích ngô gieo cấy được 213,5 nghìn ha, bằng 97,6% cùng kỳ năm trước, khoai lang 82,2 nghìn ha, bằng 95,6%; lạc 33,4 nghìn ha, bằng 91,8%; rau, đậu các loại 214,6 nghìn ha, bằng 95,6%...)
Chăn nuôi, ước tính đàn trâu tiếp tục giảm, đàn bò tăng trên 10%, đàn lợn đạt xấp xỉ cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm tăng khoảng 5% (do dịch cúm gia cầm tái phát nên có xu hướng giảm so với tháng 12). Dịch cúm gia cầm xảy ra ở một số địa phương và có diễn biến phức tạp. Tính đến ngày 21/1 dịch cúm gia cầm xảy ra và chưa qua 21 ngày ở 38 xã, phường của 18 huyện, thị xã thuộc 7 tỉnh, thành phố là Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, Sóc Trăng và Cần Thơ. Các Bộ, ngành và địa phương đã tăng cường kiểm tra, giám sát và tổ chức tiêu hủy gia cầm mắc bệnh, vệ sinh môi trường, kiểm dịch gia súc, gia cầm tại các lò giết mổ tập trung và tiêm phòng bổ sung cho 5,2 triệu con gia cầm (gần 1 triệu con gà và 4,2 triệu con vịt). Cũng đến ngày 21/1/2007 cả nước có 13 xã của 9 huyện thuộc 6 tỉnh, thành phố là Cao Bằng, Tuyên Quang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Phú Thọ và Cần Thơ có dịch lở mồm, long móng ở gia súc chưa qua 21 ngày với 638 con trâu, bò và 241 con lợn mắc bệnh .
b. Lâm nghiệp
Kế hoạch sản xuất lâm nghiệp chưa được giao kịp thời nên các địa phương chủ yếu tập trung bảo vệ, chăm sóc diện tích rừng hiện có, nghiệm thu diện tích rừng trồng tập trung của năm trước và chuẩn bị đất, giống cây lâm nghiệp để trồng rừng, triển khai trồng cây nhân dân dịp Tết Nguyên đán và khai thác gỗ theo kế hoạch còn lại của năm trước. Sản lượng gỗ khai thác tháng 1/2007 ước tính đạt 193 nghìn m3, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước; củi khai thác 2130 nghìn ste, tăng 1,4%. Công tác bảo vệ rừng được thực hiện tốt, nên mặc dù đang là mùa hanh, khô trong tháng chỉ xảy ra 3 vụ cháy rừng nhỏ ở tỉnh Phú Thọ, với diện tích thiệt hại là 18 ha.
c. Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản tháng 01/2007 ước tính đạt 296,2 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nuôi trồng tăng 7,3% và khai thác giảm 1,7% (khai thác biển giảm 1,3%). Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng ước tính đạt 108,4 nghìn tấn, trong đó cá 75,2 nghìn tấn, tăng 8,5% và tôm 18,1 nghìn tấn, tăng 4,6%. Nuôi trồng thuỷ sản tháng này tăng khá, do nuôi cá tiếp tục phát triển nhờ đa dạng các hình thức nuôi và cá tra, cá ba sa được giá; tôm sú, tôm càng xanh đang vụ thu hoạch. Khai thác thuỷ sản tháng này giảm, do thời tiết trên các ngư trường diễn biến phức tạp, biển động mạnh và ảnh hưởng của các đợt gió mùa đông bắc, nên mặc dù đang vào vụ cá bắc và giá xăng dầu giảm nhưng các tàu, thuyền hạn chế ra khơi đánh bắt.
2. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất theo giá so sánh ước tính tăng 26%, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 17,5% (Trung ương quản lý tăng 20,9%, địa phương quản lý tăng 9%); khu vực ngoài Nhà nước tăng 35,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24,9% (Dầu mỏ và khí đốt tăng 2%, các ngành khác tăng 30,3%). Sản xuất công nghiệp tháng 01 năm nay ước tính tăng cao so với cùng tháng năm trước, một phần do yếu tố mùa vụ. Tháng Một năm nay là tháng giáp Tết Nguyên đán nên các đơn vị đẩy mạnh sản xuất theo chu kỳ cuối năm, nhất là các mặt hàng phục vụ Tết như thực phẩm, vật liệu xây dựng, đồ dùng gia đình, đồ dùng cá nhân; số ngày nghỉ trong tháng 01 năm ngoái nhiều hơn vì có đến 3 ngày nghỉ Tết Bính Tuất. Mặt khác, các đơn vị đã chuẩn bị được các hợp đồng và điều kiện ổn định cho sản xuất đầu năm 2007, không có khó khăn đột xuất.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng trên 20% so với tháng 01/2006 như: than sạch khai thác tăng 35%, thuỷ sản chế biến tăng 29,9%, đường, mật tăng 21,3%, bia tăng 22%, giấy bìa tăng 26,2%, xút NaOH tăng 34,9%, xi măng tăng 47,2%, thép cán tăng 52%, sứ vệ sinh tăng 68,2%, gạch lát tăng 31,1%, động cơ diezen tăng 83,3%, động cơ điện tăng 19,6%, ô tô lắp ráp tăng 40,1%, xe máy lắp ráp tăng 32,7% và điện phát ra tăng 22,7%. Tuy nhiên, trong tháng 01/2007 cũng còn một số sản phẩm chưa đạt mức sản xuất của năm trước hoặc giảm sút mạnh như: dầu thô khai thác bằng 91,3%, ga hoá lỏng, máy biến thế, ti vi lắp ráp các loại, xe đạp hoàn chỉnh bằng 23,1%...
Nhìn chung các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có qui mô sản xuất công nghiệp lớn đều có giá trị sản xuất công nghiệp tháng 01 tăng so với cùng kỳ năm trước nhưng với chênh lệch khá lớn giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp so với tháng 01/2006 trên địa bàn Vĩnh Phúc tới 69,5%, trong khi Hà Nội tăng 19%, Hải Phòng tăng 23,6%, thành phố Hồ Chí Minh tăng 26,3%, Bình Dương tăng 45%, Đồng Nai tăng 21,1%, riêng Bà Rịa-Vũng Tàu chỉ tăng 3,2% (chủ yếu do dầu thô khai thác giảm). Nhờ có tốc độ tăng cao, với tỷ trọng lớn các tỉnh có đóng góp nhiều vào tăng giá trị sản xuất công nghiệp tháng 01/2007 là thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Hải Phòng và Vĩnh Phúc.
3. Đầu tư
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tháng 01/2007 (Bao gồm vốn dự án và chương trình mục tiêu) ước tính thực hiện 6,6 nghìn tỷ đồng, bằng 6,9% kế hoạch cả năm. Vốn đầu tư do trung ương quản lý thực hiện 2,51 nghìn tỷ đồng, bằng 7,1%, trong đó Bộ Giao thông Vận tải 632,8 tỷ đồng, bằng 8,4%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 100,6 tỷ đồng, bằng 4,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 84,7 tỷ đồng, bằng 6,9%; Bộ Y tế 75 tỷ đồng, bằng 7%; Bộ Văn hoá Thông tin 23 tỷ đồng, bằng 6,8%; Bộ Công nghiệp 16 tỷ đồng, bằng 8,4%; Bộ Thuỷ sản 15,4 tỷ đồng, bằng 6,2%; Bộ Xây dựng 6,7 tỷ đồng, bằng 4,5%. Vốn do địa phương quản lý đạt 4,08 nghìn tỷ đồng, bằng 6,8%, trong đó Hà Nội 413 tỷ đồng, bằng 7,1%; Hải Phòng 75,5 tỷ đồng, bằng 5,5%; Quảng Ninh 90 tỷ đồng, bằng 9,1%; Thanh Hoá 110 tỷ đồng, bằng 8,5%; thành phố Hồ Chí Minh 455,2 tỷ đồng, bằng 5,5%; Bà Rịa - Vũng Tàu 167,7 tỷ đồng, bằng 8,6%...
Nhìn chung, vốn thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương trong tháng đạt thấp so với kế hoạch năm và chủ yếu là thực hiện khối lượng các dự án chuyển tiếp từ cuối năm 2006. Kế hoạch vốn của nhiều dự án mới chưa kịp triển khai đến các chủ đầu tư, chủ dự án. Hiện nay, các chủ dự án đang tích cực hoàn tất các thủ tục cần thiết cho công tác triển khai các dự án mới, nhằm tạo thuận lợi cho thực hiện tiến độ giải ngân ngay từ những tháng đầu trong quý I/2007.
Tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Từ đầu năm đến 20/1, cả nước có 29 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 305 triệu USD (bình quân vốn đăng ký 1 dự án đạt 10,5 triệu USD); 10 dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm 45 triệu USD. Tính chung cả vốn cấp mới và vốn tăng thêm là 350 triệu USD.
4. Thương mại, giá cả và dịch vụ
Thị trường trong nước tháng 01/2007 khá sôi động vì là tháng giáp Tết, nhu cầu mua sắm của dân cư và các hộ gia đình tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước tính tăng 21,3% so với cùng tháng năm trước, trong đó kinh tế Nhà nước, chiếm 11,8% tổng mức, tăng 1,6%; kinh tế cá thể chiếm 61%, tăng 24,9%; kinh tế tư nhân chiếm 23,5%, tăng 23,7%. Theo ngành kinh doanh, thương nghiệp chiếm 81,8% tổng mức, tăng 20,9%; khách sạn, nhà hàng tăng 21,9%; dịch vụ tăng 26,9% và du lịch tăng 10,9%. Thị trường Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đều có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước, Hà Nội tăng 21,2% và thành phố Hồ Chí Minh tăng 26,8%.
Giá tiêu dùng tháng 01/2007 tăng cao hơn mức tăng của các tháng trước, phù hợp với tập quán tăng tiêu dùng vào tháng Chạp của năm âm lịch, đặc biệt tăng ở các nhóm hàng phục vụ đón Tết như hàng lương thực, thực phẩm; đồ uống và thuốc lá; đồ dùng cá nhân và vật liệu xây dựng phục vụ việc hoàn thiện các công trình xây dựng dân dụng. Trong các vùng địa lý kinh tế, giá tiêu dùng tăng bằng hoặc trên mức tăng chung là đồng bằng sông Hồng tăng 1,2%, Tây Bắc tăng 1,2%, Tây Nguyên tăng 1,4% và Đông Nam Bộ tăng 1,1%; các vùng còn lại tăng phổ biến từ 0,8% đến 1%. Chỉ số giá tiêu dùng so với tháng trước tăng 1,1%, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,1%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,7%; hàng may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1% và nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 3,1%; các nhóm còn lại tăng phổ biến từ 0,1% đến 0,2%.
So với tháng 01/2006 giá tiêu dùng tháng này tăng 6,5%, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 7,4%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 8,3% (xi măng và thép xây dựng đã bắt đầu tăng so với năm trước). Giá vàng tháng 01/2007 đã giảm 1,1% so với tháng trước, nhưng vẫn còn tăng tới 20,9% so với tháng 01/2006; tương ứng giá đô la Mỹ giảm 0,1% và tăng 0,9%.
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương tháng 01/2007 ước tính đạt 6,7 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 7,7% và nhập khẩu tăng 30,8% (đây là tốc độ tăng khá cao so với tốc độ tăng xuất khẩu và so với nền tương đối thấp của nhập khẩu tháng đầu năm trước). Do nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu, nên nhập siêu tháng 01/2007 là 100 triệu USD, bằng 3% kim ngạch xuất khẩu (tháng 01/2006 nhập khẩu chỉ đạt mức 2,6 tỷ USD và tăng rất thấp so với cùng kỳ, nên tháng 01/2006 đã xuất siêu 466 triệu USD).
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 01/2007 ước tính đạt 3,3 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước 1,56 tỷ USD, tăng 23% so với cùng kỳ năm trước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 1,15 tỷ USD, tăng 8,9% và dầu thô 595 triệu USD, giảm 20,2% (giá giảm 14,4%, bình quân 410,3 USD/tấn và lượng giảm 6,7%). Bên cạnh dầu thô, kim ngạch xuất khẩu gạo tháng này cũng giảm đáng kể, do giảm mạnh lượng xuất khẩu chỉ còn bằng 17,9% lượng gạo xuất khẩu trong tháng 01/2006. Do vậy, cả hai mặt hàng này đã làm giảm đáng kể tốc độ tăng xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu hàng dệt may ước tính đạt 500 triệu USD, tăng 2,6% so với cùng kỳ; giày, dép 350 triệu USD, tăng 8,6% và được khai thác chủ yếu ở các thị trường EU, Mỹ với mẫu mã đa dạng, chất lượng tốt; thủy sản 250 triệu USD, tăng 39,7% (tuy nhiên, thị trường Nhật Bản đang gặp khó khăn do phía bạn tăng cường kiểm dịch vệ sinh thực phẩm đối với hàng thuỷ sản Việt Nam). Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản tăng khá cao, trong đó nhiều mặt hàng tăng được lượng xuất khẩu: cà phê đạt 210 triệu USD, tăng tới 137,1% (lượng tăng 85,3%); cao su 104 triệu USD, tăng 17,8% (lượng tăng 12,6%); hạt điều tăng 20,1% (lượng tăng 43,9%); hạt tiêu tăng 19,6% (lượng tăng 5,1%). Tuy nhiên trong tháng này, còn có một số mặt hàng giảm như gốm sứ, than đá và xe đạp.
Nhập khẩu tháng 01/2007 ước tính đạt 3,4 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước 2,1 tỷ USD, tăng 33,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1,3 tỷ USD, tăng 27,2%.
Nhìn chung, nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và hầu hết các vật tư, nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất trong nước trong tháng 01/2007 đều có mức tăng trưởng tương đối cao, trong đó một số nguyên liệu tăng khá về lượng nhập khẩu. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 500 triệu USD, tăng 33,9% so với cùng kỳ; xăng dầu 503 triệu USD, tăng 47,4% (trong đó lượng tăng 29,5%), đóng góp 20,2% vào mức tăng chung; sắt thép 232 triệu USD, tăng 48,4% (lượng tăng 38,5%); vải 180 triệu USD, tăng 15,2%. Kim ngạch nhập khẩu giấy các loại tăng 35,7%; tân dược tăng 34,8%; chất dẻo tăng 21,3%; nguyên phụ liệu dệt, may, da tăng 17,7%; hoá chất tăng 17,2%; ô tô tăng tới 44,4% (ô tô nguyên chiếc tăng 6%); xe máy tăng 18,9% (xe máy nguyên chiếc giảm 14,7%).
Vận chuyển hành khách tháng 01/2007 ước tính đạt 119,4 triệu lượt khách và 4992,1 triệu lượt khách.km, tăng 8,4% về lượt khách và tăng 10% về lượt khách.km so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các đơn vị vận tải do trung ương quản lý vận chuyển 1,6 triệu lượt khách và 1477,1 triệu lượt khách.km, tăng 4,9% về lượt khách và tăng 13,1% về lượt khách.km; các đơn vị vận tải do địa phương quản lý vận chuyển 117,8 triệu lượt khách và 3515 triệu lượt khách.km, tăng 8,4% và tăng 8,8%. Hầu hết các ngành vận tải đều tăng cả khối lượng vận chuyển và khối lượng luân chuyển, trong đó vận chuyển hành khách bằng đường bộ có mức tăng cao hơn mức tăng chung, tăng 9,2% về khối lượng vận chuyển và tăng 9,1% về khối lượng luân chuyển. Tương tự, vận chuyển hành khách bằng đường hàng không tăng 8,1% và tăng 7,4%; đường sông tăng 3,1% và tăng 4,8%; đường biển tăng 5,1% và tăng 5,7%. Đáng chú ý, vận chuyển hành khách bằng đường sắt sau nhiều tháng giảm so với cùng kỳ năm trước nay đã khôi phục trở lại do nhu cầu đi lại của nhân dân trong dịp Tết tăng cao, tăng 2,6% về số khách và tới 33% về số khách.km (chủ yếu là tăng vận chuyển trên tuyến đường dài).
Vận tải hành khách tháng 01/2007 diễn ra khá sôi động. Ở hầu hết các địa phương trong cả nước, ngành vận tải đã lên kế hoạch phục vụ Tết nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và đảm bảo tốt công tác trật tự an toàn giao thông. Công tác quản lý các bến xe khách, nhà ga và bán vé trước được tăng cường. Ngành vận tải đường sắt tăng cường thêm 6 đôi tàu Thống Nhất và 13 đôi tàu khách địa phương. Tổng công ty Hàng không Việt Nam cũng đã tổ chức tăng thêm các chuyến bay nội địa để phục vụ hành khách trong dịp Tết.
Vận chuyển hàng hoá: Tháng 01/2007 là tháng giáp Tết, nguồn hàng hoá vận chuyển phục vụ Tết dồi dào, ngoài ra, các địa phương tăng cường vận chuyển vật liệu đến các công trình xây dựng đã và đang khởi công để đẩy nhanh tiến độ. Vận chuyển hàng hoá tháng 01/2007 nhìn chung tăng trưởng khá, ước tính đạt 29,8 triệu tấn và 8062,9 triệu tấn.km, tăng 8,4% về tấn và tăng 8,3% về tấn.km so với cùng kỳ năm trước. Vận tải hàng hoá ở khối trung ương và địa phương đều tăng cả về số tấn và số tấn.km, tăng từ 7,8% đến 8,5%. Vận tải đường sắt do có sự chuẩn bị chu đáo từ trước cùng với nhu cầu vận chuyển hàng hoá Bắc - Nam tăng mạnh nên lượng vận chuyển tăng cao so với cùng kỳ năm trước: tăng 16% về tấn và tăng 33% về tấn.km. Con số tương ứng của đường bộ tăng 9,1% và tăng 9,1%; đường sông tăng 6,4% và tăng 6,2%; đường biển tăng 6,4% và tăng 7,3%; đường hàng không 4,4% và tăng 5,5%.
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 01/2007 ước tính đạt 369 nghìn lượt người, tăng 9,5% so với tháng 01/2006. Khách đến nước ta chủ yếu bằng đường hàng không chiếm 81,1%, tăng 21,8%; khách đến bằng đường bộ và đường biển đều giảm. Theo mục đích đến, khách đến du lịch, nghỉ ngơi đạt 236 nghìn lượt người, tăng 18,5%; đi công việc 50 nghìn người, tăng 28,3%; thăm thân nhân và các mục đích khác giảm 22,4% và giảm 2,2%.
Khách đến từ một số nước và vùng lãnh thổ đạt trên hai vạn lượt người như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôx-trây-lia vẫn giữ mức tăng trưởng ổn định, tăng từ 14,3% đến 37,1%; khách đến từ Thái Lan và Ma-lai-xi-a đạt trên một vạn lượt người, tăng 66,1% và tăng 87,5%; Khách đến từ Trung Quốc đạt 4,1 vạn lượt người, tăng 29,9% so với tháng trước nhưng giảm 12% so với cùng kỳ năm trước. Khách đến từ Hoa Kỳ đạt 41,5 nghìn lượt người giảm 6,4% so với cùng kỳ.
Bưu chính, Viễn thông: Trong tháng 01 thị trường viễn thông vẫn tiếp tục diễn ra sôi động. Nhân dịp Tết Đinh Hợi, các nhà cung cấp dịch vụ liên tục tổ chức khuyến mãi, tặng quà có giá trị lớn, tăng cường quảng cáo, tiếp thị để thu hút khách hàng. Số thuê bao điện thoại phát triển mới của toàn mạng tháng 01/2007 ước tính đạt hơn 1,5 triệu thuê bao, gấp tới 3,7 lần tháng 01/2006, chủ yếu tăng số thuê bao điện thoại di động, do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ viễn thông và sự đa dạng của các loại hình cung cấp dịch vụ.
Số thuê bao internet phát triển mới tháng 01/2007 ước tính đạt hơn 127 nghìn thuê bao, tăng 16,4% so với cùng kỳ. Tính đến hết tháng 01/2007, trên cả nước có khoảng 4,2 triệu thuê bao internet, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông khoảng 3,9 triệu thuê bao.
5. Thu chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng 01/2007 ước tính bằng 3% dự toán cả năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 3,2% (thu từ kinh tế Nhà nước bằng 2,9%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không kể dầu thô bằng 2,7%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 3,3%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 3,1%; thu phí xăng dầu 3%; thu phí, lệ phí bằng 3,2%). Thu từ dầu thô bằng 2,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 2,8%; thu viện trợ bằng 4,2%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng 01/2007 ước tính bằng 3,4% dự toán cả năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 3,3% (chi đầu tư XDCB bằng 3,3%); chi thường xuyên bằng 3,4% ; chi trả nợ và viện trợ bằng 5,9%.
6. Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng 01/2007 có 39,6 nghìn hộ với 174,1 nghìn nhân khẩu bị thiếu đói, chiếm 0,3% tổng số hộ và số nhân khẩu nông nghiệp của cả nước. So với thời điểm cuối tháng 01/2006, số hộ thiếu đói giảm 54,6% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 52,4%. Thiếu đói trong tháng xảy ra chủ yếu ở vùng Bắc Trung Bộ, trong đó Nghệ An có 78,7 nghìn nhân khẩu bị thiếu đói (chiếm 3,4% số nhân khẩu nông nghiệp của tỉnh); Thanh Hóa 30,8 nghìn nhân khẩu (chiếm khoảng 1%).
Tình hình dịch bệnh
Trong tháng 01/2007 có 5,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 3,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết và hơn 400 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút. So với cùng kỳ năm 2006, số trường hợp mắc bệnh sốt rét tăng 57% và mắc bệnh sốt xuất huyết tăng 176,1%. Cũng trong tháng, tại các tỉnh Đắk Lắk, Cà Mau, Quảng Ngãi và Kon Tum đã xảy ra 4 vụ ngộ độc thực phẩm với gần 60 trường hợp bị ngộ độc.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng 01/2007 đã phát hiện thêm 1,9 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 20/01/2007 lên 117,7 nghìn người, trong đó 20,4 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và gần 12,1 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 12/2006 (từ 22/11 đến 21/12) trên phạm vi cả nước đã xảy ra 1474 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1268 người và bị thương 1075 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn tăng 17,9%; số người chết tăng 20,5% và số người bị thương tăng 10,4%. So với cùng kỳ năm trước, tai nạn giao thông tăng 289 vụ; số bị chết tăng 286 người và số bị thương tăng 208 người.
Tính chung năm 2006, cả nước đã xảy ra 14,7 nghìn vụ tai nạn, làm chết 12,8 nghìn người và bị thương 11,3 nghìn người. So với năm 2005, số vụ tai nạn tăng 0,2%; số người chết tăng 10,7% và số người bị thương giảm 6,1%. Bình quân một ngày trong năm 2006 xảy ra 40 vụ tai nạn, làm chết 35 người và làm bị thương 31 người. Tai nạn giao thông trong năm 2006 chủ yếu xảy ra trên đường bộ, chiếm tới 96,2% số vụ; 97% số người chết và 98,3% số người bị thương.