TÌNH HÌNH KINH TẾ-XÃ HỘI THÁNG 5 VÀ 5 THÁNG ĐẦU NĂM 2007
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Nông nghiệp: Lúa đông xuân: Trong tháng 5, các địa phương phía Nam tập trung thu hoạch lúa đông xuân, năng suất ước tính đạt 58,6 tạ/ha, xấp xỉ vụ đông xuân năm 2006; sản lượng ước tính đạt 10,8 triệu tấn, tăng 24,7 nghìn tấn (+0,2%). Vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch xong, năng suất đạt 60,3 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng đạt 9,1 triệu tấn, tăng 75 nghìn tấn. Sản lượng lúa đông xuân các tỉnh vùng Đồng Tháp Mười đạt khá (An Giang đạt 1,64 triệu tấn, tăng 66 nghìn tấn; Kiên Giang 1,6 triệu tấn, tăng 44 nghìn tấn; Đồng Tháp 1,4 triệu tấn, tăng 78 nghìn tấn; Tiền Giang 531 nghìn tấn, tăng 29,3 nghìn tấn). Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ bị ảnh hưởng của dịch bệnh và thời tiết không thuận nên diện tích lúa đông xuân giảm so với năm 2006 (Duyên hải Nam Trung Bộ giảm 1,5 nghìn ha; Đông Nam Bộ 4,6 nghìn ha; Tây Nguyên giảm 428 ha).
Các địa phương phía Bắc mới bắt đầu thu hoạch lúa đông xuân, vì thời gian thu hoạch lúa đông xuân ở các tỉnh phía Bắc thường muộn hơn so với các tỉnh phía Nam. Tính đến trung tuần tháng 5, các địa phương phía Bắc mới thu hoạch được trên 10% tổng diện tích 1139,8 nghìn ha lúa đông xuân đã gieo cấy, vì vậy hiện nay đang là thời gian thu hoạch rộ lúa đông xuân.
Lúa hè thu: Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, tính đến trung tuần tháng 5, các địa phương phía Nam đã gieo sạ 1031,1 nghìn ha lúa hè thu, bằng 83,4% cùng kỳ; trong đó đồng bằng sông Cửu Long 948,1 nghìn ha, bằng 82,6%, do các địa phương chỉ đạo lùi thời điểm xuống giống và mưa to đã làm ảnh hưởng đến tiến độ gieo sạ.
Tiến độ gieo trồng nhiều loại cây màu vụ hè thu đều chậm so với cùng kỳ năm trước. Tính đến 15/5/2007, cả nước đã gieo trồng được 555,2 nghìn ha ngô, bằng 91,3% cùng kỳ năm trước; sắn 171,4 nghìn ha, bằng 89,4%; khoai lang 120,9 nghìn ha, bằng 99%; thuốc lá 20,7 nghìn ha, bằng 81,8%; lạc, đậu tương đều xấp xỉ cùng kỳ (lạc 178 nghìn ha; đậu tương 106,2 nghìn ha); riêng rau, đậu các loại 421 nghìn ha, bằng 108,6%.
Chăn nuôi: Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/4/2007, tổng đàn lợn cả nước bằng 98,6% cùng thời điểm năm 2006 (giảm 384 nghìn con), chủ yếu do đàn lợn thịt giảm 1,6% và giảm nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng (Hải Dương giảm 16%, Hà Tây giảm 9%, Thái Bình giảm 6%). Nguyên nhân đàn lợn giảm nhiều là do dịch lở mồm long móng xuất hiện ở một vài địa phương, dịch bệnh “tai xanh” ở lợn xuất hiện ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng, số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ giảm và những hộ/trang trại nuôi quy mô lớn chỉ duy trì đàn mà chưa mở rộng quy mô. Đàn bò tăng từ 5-7% so với cùng thời điểm năm trước, chủ yếu tăng ở các tỉnh miền núi, Duyên hải Nam Trung Bộ do có nguồn thức ăn dồi dào. Đàn gia cầm được khôi phục, song còn chậm, ước tính tăng từ 6-8% so với 1/4/2006 và chủ yếu phát triển đàn gia cầm ở hộ có quy mô nhỏ.
Dịch bệnh: Trong tháng 5/2007, dịch cúm gia cầm đã tái phát tại 13 xã, thuộc 10 huyện của 5 tỉnh Sơn La, Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An và Cần Thơ. Đã tiêu hủy toàn bộ 16,4 nghìn con gia cầm của các đàn bị nhiễm bệnh, trong đó số gia cầm bị chết là 3,6 nghìn con. Đến ngày 22/5/2007 cả nước có 60/64 địa phương đã và đang triển khai công tác tiêm phòng đợt 1 năm 2007, trong đó có 34 tỉnh, thành phố đã cơ bản hoàn thành tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm lần 1 đợt 1. Tổng số gia cầm được tiêm là 117,2 triệu con (73,5 triệu con gà, 40,5 triệu con vịt, 3,2 triệu con ngan). Hiện nay, còn 5 xã thuộc 2 tỉnh Gia Lai và Thái Nguyên có các ổ dịch lở mồm, long móng xảy ra chưa qua 21 ngày.
Lâm nghiệp: Trong tháng 5/2007, thời tiết thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 14,9 nghìn ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ; trồng cây phân tán 21,4 triệu cây, tăng 0,9%; sản lượng gỗ khai thác 117,5 nghìn m3, tăng 1,3%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2007, diện tích rừng trồng tập trung đạt 68,1 nghìn ha, tăng 0,3% so với cùng kỳ; trồng cây phân tán 104,6 triệu cây, tăng 1,1%; sản lượng gỗ khai thác 711,6 nghìn m3, tăng 1,1%. Công tác bảo vệ rừng được thực hiện chặt chẽ nên hiện tượng cháy rừng đã giảm so với tháng trước. Tính chung 5 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 2743,5 ha, trong đó rừng bị cháy 2238,4 ha (Sơn La 1036 ha, Yên Bái 765,5 ha).
Thuỷ sản: Sản lượng thuỷ sản tháng 5/2007 ước tính đạt 306,5 nghìn tấn, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nuôi trồng tăng 14,2%, khai thác tăng 3% (khai thác biển 170 nghìn tấn, tăng 3,2%). Nuôi trồng thuỷ sản đạt 120,2 nghìn tấn, tăng khá do diện tích nuôi cá tra, cá basa tiếp tục được mở rộng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã đến kỳ thu hoạch tăng cao và một số diện tích tôm sú bắt đầu cho thu hoạch. Khai thác thuỷ sản tháng 5/2007 ước tính đạt 186,3 nghìn tấn, tăng so với cùng tháng năm trước do thời tiết ổn định và nóng dần, cá và sứa xuất hiện nhiều; đồng thời thuận lợi cho tàu thuyền ra khơi khai thác. Tuy nhiên, do giá nhiên liệu tăng làm hiệu quả khai thác không cao. Tính chung 5 tháng đầu năm 2007, tổng sản lượng thuỷ sản đạt 1512,1 nghìn tấn, tăng 7,1% so với cùng kỳ; trong đó nuôi trồng 572,5 nghìn tấn, tăng 15,5%, khai thác 939,6 nghìn tấn, tăng 2,5%.
Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 5 năm 2007
2. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5/2007 tính theo giá so sánh ước tính tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 7,3% (doanh nghiệp Nhà nước do trung ương quản lý tăng 6,4%, doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý tăng 9,1%), khu vực ngoài Nhà nước tăng 20% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,2% (dầu mỏ và khí đốt giảm 3,3%, các sản phẩm khác tăng 26,3%). Trong các sản phẩm công nghiệp chủ yếu, đường mật các loại tăng 43,7%; bia tăng 20,9%; giấy, bìa các loại tăng 23,8%; thuốc viên tăng 30,7%; xà phòng tăng 20,2%; xi măng tăng 23,7%; thép cán tăng 19,9%; máy công cụ tăng 22,2%; động cơ điện tăng 22,2%; máy biến thế tăng 68,7%; ti vi lắp ráp tăng 24,5%; ô tô các loại tăng 57,9%; xe máy các loại tăng 42,5%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giảm so với cùng tháng năm trước như dầu thô khai thác tiếp tục giảm 6,7%, quần áo dệt kim giảm 12,3%; động cơ điêzen giảm 6%; xe đạp hoàn chỉnh giảm 74,5%...
Tính chung 5 tháng đầu năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp tính theo giá so sánh ước tính tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2006, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 7,9% (doanh nghiệp Nhà nước do trung ương quản lý tăng 10,8%, doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý tăng 2,1%), khu vực ngoài nhà nước tăng 20,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,3% (dầu mỏ và khí đốt giảm 2,3%, các sản phẩm khác tăng 24%).
Công nghiệp 5 tháng đầu năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do một số sản phẩm của công nghiệp chế biến tăng cao hơn mức tăng chung, trong khi than sạch khai thác tăng ở mức 8,7%, dầu thô khai thác giảm 7,6% và điện sản xuất chỉ tăng ở mức tăng 12%. Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chế biến chủ yếu có tốc độ tăng cao trong 5 tháng đầu năm đã góp phần quyết định cho tăng trưởng chung như: Thủy sản chế biến tăng 16,7%; bia các loại tăng 20,2%; thuốc trừ sâu tăng 23,9%; gạch lát tăng 27,4%; thép cán tăng 20,9%; động cơ điện tăng 40,2%; máy biến thế tăng 20,8%; ô tô các loại tăng 40,8%; xe máy các loại tăng 36,5%... Tuy nhiên, một số sản phẩm công nghiệp chế biến quan trọng còn tăng ở mức thấp hơn mức tăng chung hoặc sụt giảm so với cùng kỳ năm trước như: quần áo may sẵn tăng 15,4%; vải lụa thành phẩm tăng 13,6%; giấy, bìa các loại tăng 13,4%; xi măng tăng 12,1%; phân hóa học chỉ tăng 3,6%; ga hóa lỏng giảm 15,9%;
quần áo dệt kim giảm 11,7%; xút giảm 2,6%; xe đạp giảm 71,3%.
Các tỉnh, thành phố có qui mô công nghiệp lớn có tốc độ tăng cao so với 5 tháng đầu năm trước như: Hà Nội tăng 20%; Hải phòng tăng 18,5%; Vĩnh Phúc tăng 55,7%; Hà Tây tăng 18%; Bình Dương tăng 23%; Đồng Nai tăng 22,6%; Cần Thơ tăng 17,3% ; riêng thành phố Hồ Chí Minh có qui mô công nghiệp lớn nhất cả nước, chỉ tăng 12,1% và Bà rịa - Vũng tàu tăng nhẹ (+0,4%) so với cùng kỳ năm trước, do dầu thô khai thác tiếp tục giảm.
Giá trị sản xuất công nghiệp
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
3. Đầu tư
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tháng 5/2007 (Bao gồm vốn dự án và chương trình mục tiêu) ước tính thực hiện 8,5 nghìn tỷ đồng, bằng 8,9% kế hoạch cả năm, trong đó vốn do trung ương quản lý 3,04 nghìn tỷ đồng, bằng 8,6%; vốn địa phương quản lý 5,46 nghìn tỷ đồng, bằng 9,1%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2007, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ước tính thực hiện 35 nghìn tỷ đồng, bằng 36,7% kế hoạch cả năm, trong đó vốn do trung ương quản lý 12,8 nghìn tỷ đồng, bằng 36,2%; vốn địa phương quản lý 22,2 nghìn tỷ đồng, bằng 37%.
Một số Bộ có tỷ lệ vốn thực hiện khá trong 5 tháng đầu năm như: Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 43% kế hoạch năm; Bộ Y tế 41,8%; Bộ Công nghiệp 40,9%; Bộ Văn hoá Thông tin 39,4%; Bộ Thuỷ sản 36,9%. Đáng chú ý là một số bộ có số vốn đầu tư thực hiện khá lớn, nhưng tỷ lệ thực hiện so với kế hoạch năm còn thấp như: Bộ Giao thông Vận tải 5 tháng qua thực hiện 1725,5 tỷ đồng, mới bằng 22,8% kế hoạch năm; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 678,8 tỷ đồng, bằng 31,4%. Những địa phương có khối lượng vốn thực hiện lớn trong 5 tháng đầu năm 2007 là: Hà Nội 1773,8 tỷ đồng, bằng 30,7% kế hoạch năm; thành phố Hồ Chí Minh 1724,8 tỷ đồng, bằng 20,8%; Đà Nẵng 764,1 tỷ đồng, bằng 36,4%; Bà Rịa-Vũng Tàu 659,4 tỷ đồng, bằng 33,9%; Thanh Hoá 515,2 tỷ đồng, bằng 39,6%; Đồng Nai 414,1 tỷ đồng, bằng 34,9%; Hải Phòng 371,2 tỷ đồng, bằng 26,9%; Nghệ An 347,2 tỷ đồng, bằng 27,6%...
Nhìn chung, tình hình thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước chưa cao, nguyên nhân chủ yếu là do gặp khó khăn trong giải phóng mặt bằng tại một số dự án trọng điểm; sự biến động của giá cả; nhiều dự án phải thay đổi quy mô do hạn chế về nguồn vốn; tình trạng các nhà thầu thiếu vốn.
Tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Từ đầu năm đến 22/5/2007,
đã cấp phép cho 278 dự án với tổng số vốn đăng ký 2,9 tỷ USD. Nếu tính cả 577,1 triệu USD vốn đăng ký bổ sung vào 141 dự án đã được cấp phép các năm trước và 771,9 triệu USD vốn của 87 dự án cấp phép cuối năm 2006 nhưng chưa tính vào năm trước thì tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đăng ký là
4,3 tỷ USD.
Trong số 365 dự án mới được cấp phép, có 218 dự án với số vốn 2,08 tỷ USD đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 59,7% số dự án và 56,2% tổng vốn đăng ký. Khu vực dịch vụ có 127 dự án và 1,54 tỷ USD, chiếm 34,8% số dự án và 41,5% tổng vốn đăng ký; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 20 dự án và 83,9 triệu USD, chiếm 5,5% số dự án và 2,3% tổng vốn đăng ký.
Trong các địa phương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới được cấp phép, Bà Rịa - Vũng Tàu có số vốn đăng ký đứng đầu trong cả nước với 699,7 triệu USD, chiếm 18,9% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Thừa Thiên-Huế 553,4 triệu USD, chiếm 15%; Hậu Giang 280 triệu USD, chiếm 7,6%; Quảng Ngãi 260 triệu USD, chiếm 7%; Bình Dương 254,9 triệu USD, chiếm 6,9%; Hà Nội 253 triệu USD, chiếm 6,8%; thành phố Hồ Chí Minh 206 triệu USD, chiếm 5,6%.
Có 33 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào nước ta, trong đó Singapore có khối lượng vốn đăng ký dẫn đầu với 776,7 triệu USD, chiếm 21% tổng vốn đăng ký; Hàn Quốc 731,8 triệu USD, chiếm 19,8%; Ấn Độ 527,3 triệu USD, chiếm 14,3%; British Virgin Islands 347,5 triệu USD, chiếm 9,4%; Nhật Bản 187,6 triệu USD, chiếm 5,1%; Thái Lan 181,9 triệu USD, chiếm 4,9%; Đài Loan 167,2 triệu USD, chiếm 4,5%; Hoa Kỳ 166,3 triệu USD, chiếm 4,5%...
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài 01/01 - 22/5/2007
4. Thương mại, giá cả và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 5 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 277,8 nghìn tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước 28,7 nghìn tỷ đồng, giảm 7%; kinh tế tập thể 2,8 nghìn tỷ đồng, tăng 24,6%; kinh tế cá thể 159,7 nghìn tỷ đồng, tăng 26,8%; kinh tế tư nhân 79,1 nghìn tỷ đồng, tăng 28,3% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7,5 nghìn tỷ đồng, tăng 27%. Trong tổng mức, thương nghiệp chiếm 81,9%, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn, nhà hàng chiếm 11,8%, tăng 21,3%; dịch vụ chiếm 5%, tăng 24,7% và du lịch lữ hành chỉ chiếm 1,3%, tăng 33,7%.
Giá tiêu dùng tháng 5/2007 tăng 0,77% so với tháng trước, tăng 4,32% so với tháng 12/2006 và tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, giá tiêu dùng tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa và dịch vụ, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,04% (lương thực tăng 0,62%; thực phẩm tăng 0,95% và ăn uống ngoài gia đình tăng gần 2%, là tác nhân chính của tăng giá nhóm này cũng như tăng giá chung so với tháng trước); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,9%; các nhóm thiết bị đồ dùng gia đình; dược phẩm, y tế; phương tiện đi lại, bưu điện đều tăng ở mức 0,6%, riêng phân nhóm bưu chính viễn thông giữ ở mức giá tháng trước. So với tháng 12/2006, giá tiêu dùng tháng 5/2007 cũng tăng ở tất cả các nhóm nhưng với mức độ khác nhau, trong đó nhà ở, vật liệu xây dựng có mức tăng cao nhất (+6,8%), tiếp đến là các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,7%; đồ uống, thuốc lá tăng 3,5%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 3%; các nhóm còn lại tăng phổ biến ở mức 0,7-2,8%. So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 5 của các nhóm có mức tăng cao có xu hướng tương tự như so với tháng 12/2006, trong đó nhà ở và vật liệu xây dựng, tăng 10,6%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tăng 9,2%; đồ uống thuốc lá và may mặc, mũ nón, giày dép đều tăng 6,1%.
Giá vàng tháng 5/2007 tăng 2,3% so với tháng trước, tăng 7,1% so với tháng 12/2006, nhưng đã giảm 1% so với cùng kỳ năm trước. Giá đô la Mỹ tháng 5/2007 tăng nhẹ so với tháng trước (+0,2%), nhưng giảm 0,2% so với tháng 12/2006 và không đổi so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương 5 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 39,49 tỷ USD, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 18,4% và nhập khẩu tăng 26,9%. Do nhập khẩu 5 tháng đầu năm nay tăng mạnh và cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu nên nhập siêu cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước, đạt mức 3,26 tỷ USD, bằng 18% kim ngạch xuất khẩu; các con số tương ứng của cùng kỳ năm trước là 1,54 tỷ USD và 10,1%.
Xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 18,12 tỷ USD, tăng 2,8 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, bình quân mỗi tháng xuất khẩu 3,62 tỷ USD (cùng kỳ năm trước đạt 3 tỷ USD). Trong tổng kim ngạch, khu vực kinh tế trong nước 7,95 tỷ USD, tăng 23,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô đạt 7,09 tỷ USD, tăng 31% và dầu thô 3,08 tỷ USD, giảm 10,7%. Có trên 20 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó dệt may đạt 2,7 tỷ USD, tăng 24,3%; giày dép 1,5 tỷ USD, tăng 7,9%; thủy sản 1,3 tỷ USD, tăng 16,2%; cà phê 1,1 tỷ USD, tăng 121,4% (trong đó lượng xuất khẩu 776 nghìn tấn, tăng 74,7% và giá xuất khẩu 26,6%); sản phẩm gỗ 947 triệu USD, tăng 22,7%; điện tử, máy tính 744 triệu USD, tăng 18,5%; dây điện và cáp điện 303 triệu USD, tăng 19,2%.
Một số mặt hàng có kim ngạch giảm so với cùng kỳ, trong đó có hai mặt hàng lớn là dầu thô và gạo. Xuất khẩu dầu thô đạt kim ngạch cao nhất trong các mặt hàng xuất khẩu, nhưng giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lượng xuất khẩu 6,4 triệu tấn, giảm 6,2% và giá giảm 4,8%; xuất khẩu gạo 611 triệu USD, giảm 4,4% (mặc dù giá xuất khẩu gạo bình quân 5 tháng tăng 15,5% nhưng không bù được lượng xuất khẩu giảm tới 17,2%, chỉ đạt 1,9 triệu tấn); xe đạp và phụ tùng xe đạp đạt 41 triệu USD, giảm 38,5%.
Thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm nay tiếp tục phát triển tích cực, trong đó các thị trường lớn vẫn là Mỹ, EU và châu Á. Thị trường Mỹ đạt 2,8 tỷ USD, tăng 23,1% và chiếm thị phần gần 20% với các mặt hàng lớn như dệt may 1,2 tỷ USD, tăng 32,9%; giày dép 290 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ 267 triệu USD. Thị trường EU cũng gần 2,8 tỷ USD, tăng 26,5% và chiếm thị phần 19,4%, trong đó đứng đầu là Đức 604 triệu USD, tăng 32%; Anh 422 triệu USD, tăng 14,1%; Hà Lan 320 triệu USD, tăng 28,7%; I-ta-li-a 269 triệu USD, tăng 37%; Pháp 264 triệu USD, tăng 7,8%. Thị trường châu Á tiếp tục tăng nhẹ, trong đó thị trường Nhật Bản 1,6 tỷ USD, tăng 2,5%; Trung Quốc 1 tỷ USD, tăng nhẹ so cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu 5 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 21,37 tỷ USD, tăng 26,9% so cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 13,54 tỷ USD, tăng 26,8% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7,83 tỷ USD, tăng 27%; bình quân mỗi tháng nhập khẩu 4,27 tỷ USD, đáng lưu ý là tốc độ nhập khẩu hàng hoá trong tháng 5 so với cùng kỳ đã chững lại, chỉ tăng 9,2%
Kim ngạch nhập khẩu 5 tháng đầu năm nay của máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và nguyên, nhiên vật liệu chủ yếu phục vụ cho sản xuất trong nước đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Trừ số ô tô nguyên chiếc nhập khẩu giảm 18%, các mặt hàng thống kê được về lượng nhập khẩu đều tăng so với cùng kỳ năm trước, là yếu tố tích cực của nhập khẩu 5 tháng. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng có kim ngạch cao nhất, đạt 3,6 tỷ USD, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó châu Á là nơi cung cấp chủ yếu (khoảng 50%), tăng 32,8%. Nhập khẩu xăng, dầu 2,67 tỷ USD, tăng 11,7%, do nhu cầu tiêu thụ trong nước tăng với lượng nhập khẩu 5,3 triệu tấn, tăng 15,7%. Nhập khẩu sắt, thép 1,7 tỷ USD, tăng 64,7% (lượng nhập khẩu 3 triệu tấn, tăng 39,5%); vải đạt 1,5 tỷ USD, tăng 27,1%; cả hai mặt hàng thép và vải đều có nguồn cung cấp chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Hồng Kông. Nhập khẩu hàng điện tử, máy tính và linh kiện tăng 35,7%; chất dẻo tăng 27,4% so với 5 tháng đầu năm trước; hóa chất tăng 46,7%; tân dược tăng 23,4%; thuốc trừ sâu tăng 21,6%; thức ăn gia súc và nguyên, phụ liệu tăng 69,2%. Nhập khẩu ô tô 313 triệu USD, tăng 23,7% so với 5 tháng đầu năm trước; xe máy 289 triệu USD, tăng 44,6%.
Vận chuyển hành khách 5 tháng đầu năm ước tính đạt 624,9 triệu lượt khách và 27,1 tỷ lượt khách.km, tăng 8,3% về lượt khách và tăng 10,4% về lượt khách.km so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các đơn vị do trung ương quản lý đạt 11,7 triệu lượt khách và 8 tỷ lượt khách.km, tăng 4,5% về lượt khách và 15,4% về lượt khách.km, chủ yếu do tăng vận chuyển trên các tuyến đường dài; các đơn vị vận tải do địa phương quản lý năng động và đáp ứng kịp thời nhu cầu của hành khách nên khối lượng vận chuyển tương đối lớn, đạt 613,2 triệu lượt khách, chiếm 98% tổng số, tăng 8,3% và 19,1 tỷ lượt khách.km, tăng 8,5%. Theo ngành vận tải, vận chuyển hành khách bằng đường bộ có mức tăng ổn định và cao hơn mức tăng chung, tăng 9,2% về lượt khách và tăng 9,1% về lượt khách.km; tương ứng, đường sông tăng 1,9% và tăng 2,2%; đường hàng không luôn có tốc độ tăng cao nhất, tăng 16,9% và tăng 17,1%; đường biển tăng 5,6% và tăng 5,7%; riêng đường sắt khối lượng vận chuyển giảm 3,4% nhưng khối lượng luân chuyển tăng 10,1%.
Vận chuyển hàng hoá 5 tháng đầu năm ước tính đạt 151,2 triệu tấn và 37,3 tỷ tấn.km, tăng 7,6% về số tấn và tăng 6,9% về số tấn.km so với cùng kỳ năm 2006, trong đó tháng 5 đang là thời gian thi công cao điểm của các công trình và nguồn hàng lưu chuyển Bắc-Nam khá dồi dào, vận chuyển hàng hoá đã đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất cũng như nối liền khoảng cách giữa sản xuất, trao đổi và tiêu dùng. Trong các ngành vận tải, vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ đạt 103,1 triệu tấn và 5 tỷ tấn.km, tăng 8,9% về số tấn và tăng 9,1% về số tấn.km so với 5 tháng đầu năm trước; đường biển 15,6 triệu tấn và 28 tỷ tấn.km, tăng 5,6% và tăng 6,6%; tương tự, đường sông tăng 5,7% và tăng 5,9%; đường sắt và đường hàng không có lượng vận chuyển nhỏ đều giảm so với cùng kỳ.
Khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 5 ước tính đạt 304,8 nghìn lượt khách, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2006, trong đó khách đến chủ yếu bằng đường hàng không và tăng 26%, bằng đường biển tăng 9,9%; khách đến bằng đường bộ đã tăng trở lại so với tháng trước nhưng vẫn giảm 24,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 1,8 triệu lượt người, tăng 12,4% so với cùng kỳ. Trong đó, đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng chung là lượng khách đến với mục đích du lịch, nghỉ ngơi, đạt 1,1 triệu lượt người (chiếm 61,6%), tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2006; thăm thân nhân 281,6 nghìn lượt người, tăng 22,1%; vì công việc 240,8 nghìn lượt người, tăng 4,8% và khách đến với mục đích khác chỉ chiếm 8,7%, giảm 15,3%.
Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có nhiều khách đến và tốc độ tăng cao như: Hàn Quốc 223,2 nghìn lượt người, tăng 22,6%; Hoa Kỳ 181,7 nghìn lượt người, tăng 11,6%; Nhật Bản 179,2 nghìn lượt người, tăng 22,7%; Đài Loan 126,9 nghìn lượt người, tăng 9,6%; riêng khách đến từ Trung Quốc do các quy định về giấy thông hành nên lượng khách đến nước ta giảm, từ chỗ dẫn đầu về lượng khách quốc tế đến Việt Nam nay xếp vị trí thứ 2 sau Hàn Quốc, đạt 222 nghìn lượt người, giảm 16,2%. Một số nước có lượng khách đến trên bốn vạn lượt người như Ma-lai-xi-a, Pháp, Anh, Đức, Ca-na-da có tốc độ tăng từ 15,3% đến 63%. Khách đến từ Lào, Cam-pu-chi-a giảm
đáng kể.
Bưu chính, viễn thông: Thị trường bưu chính, viễn thông, đặc biệt là thị trường thông tin di động đầy triển vọng đang mở thêm ra nhiều cơ hội kinh doanh cũng như hội nhập quốc tế cho các doanh nghiệp. Trong tháng 5 số thuê bao điện thoại phát triển mới ước tính đạt 1,7 triệu. Tính chung 5 tháng đầu năm nay, số thuê bao phát triển mới của toàn ngành ước tính đạt 7,4 triệu thuê bao, tăng 166,5% so với cùng kỳ năm 2006, nâng tổng số thuê bao trên cả nước tính đến hết tháng 5/2007 lên 34,8 triệu thuê bao, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông đạt 20,3 triệu thuê bao. Số thuê bao internet phát triển mới trong tháng 5 ước tính đạt 132,3 nghìn thuê bao, nâng tổng số thuê bao tính đến hết tháng 5/2007 lên 4,5 triệu.
Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông 5 tháng đầu năm ước tính đạt 24 nghìn tỷ đồng, trong đó doanh thu của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông 16,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 68,7%) với 15,5 nghìn tỷ đồng doanh thu viễn thông, 656 tỷ đồng doanh thu bưu chính và 709 tỷ đồng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông khác.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 5 tháng đầu năm 2007
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 5 năm 2007
Xuất khẩu tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2007
Nhập khẩu tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2007
Vận tải hành khách và hàng hoá 5 tháng đầu năm 2007
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2007
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2007 ước tính bằng 34,2% dự toán cả năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 36% (thu từ doanh nghiệp nhà nước bằng 36%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không kể dầu thô bằng 29,9%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 39,2%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 47,9%; thu phí xăng dầu bằng 34,1%; thu phí, lệ phí bằng 41,8%). Thu từ dầu thô mới đạt 28,3% dự toán cả năm, chủ yếu do giá dầu thô biến động thất thường, giá dầu thô xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm giảm 4,8%, thêm vào đó, lượng xuất khẩu cũng giảm trên 6%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 36,6%; thu viện trợ bằng 38%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2007 ước tính bằng 32,7% dự toán cả năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 29,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 29,2%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 36,5%; chi trả nợ và viện trợ bằng 34,1%; chi cải cách tiền lương bằng 29,9%;
6. Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng 5/2007 có gần 85 nghìn hộ với 383 nghìn nhân khẩu bị thiếu đói, chiếm 0,7% tổng số hộ và số nhân khẩu nông nghiệp của cả nước. So với tháng trước, mặc dù số hộ thiếu đói giảm 21,2% nhưng số nhân khẩu thiếu đói tăng 1,9%, chủ yếu là thiếu đói ở các hộ đông nhân khẩu. So với thời điểm cuối tháng 5/2006, số hộ thiếu đói và số nhân khẩu thiếu đói đều giảm 23%. Thiếu đói trong tháng 5/2007 tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. Để hỗ trợ các hộ thiếu đói khắc phục khó khăn, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân đã trợ giúp khoảng 4 nghìn tấn lương thực và hàng tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh
Trong tháng 5/2007 có 1,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét; 3,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết và 570 trường hợp mắc bệnh viêm gan virút. Như vậy, tính từ đầu năm đến 20/5/2007, cả nước có 21,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt rét (giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2006); 10,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (giảm 4,9%) và 2,5 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan virút (giảm 14,8%). Cũng trong 5 tháng vừa qua, đã có 316 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 155 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do mô cầu.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng đã phát hiện thêm 1,8 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước tính đến 20/5/2007 lên 125,1 nghìn người, trong đó 23,9 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và gần 13,7 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 5/2007, tại Đà Nẵng, Cần Thơ, Yên Bái, Bạc Liêu, Quảng Ninh, Hà Giang và Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra 8 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 231 trường hợp bị ngộ độc. Tính chung 5 tháng đầu năm 2007 đã có hơn 2,1 nghìn trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, trong đó 21 người đã tử vong.
Tai nạn giao thông
Trong tháng 4/2007 (từ tháng này, báo cáo về tai nạn giao thông sẽ được thống kê với số liệu tính trọn tháng thay vì phạm vi số liệu các tháng báo cáo trước đây tính từ ngày 22 tháng trước đến 21 tháng báo cáo số liệu), trên phạm vi cả nước đã xảy ra 1242 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1127 người và bị thương 883 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn tăng 18,6%; số người chết tăng 20,4% và số người bị thương tăng 8,7%. So với cùng kỳ năm trước, tai nạn giao thông tăng 36 vụ; số bị chết tăng 71 người; số bị thương giảm 43 người. Tai nạn giao thông trong tháng 4/2007 tăng cao là do trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5 lượng người tham gia giao thông tăng cao, nhất là trên các tuyến quốc lộ.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2007, trên phạm vi cả nước đã xảy ra 5,3 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 4,7 nghìn người và bị thương 4,1 nghìn người. So với 4 tháng đầu năm 2006, số vụ tai nạn tăng 3,1%, số người chết tăng 7,8%, số người bị thương tăng 2,7%. Bình quân một ngày trong 4 tháng đầu năm nay xảy ra 44 vụ tai nạn giao thông, làm chết 40 người và làm bị thương 34 người.
Thiệt hại do lụt bão
trong tháng 5/2007 đã xảy ra hiện tượng lốc xoáy, mưa đá, giông, sét tại nhiều tỉnh như Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Trà Vinh,... gây thiệt hại về người và tài sản. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 6 người chết và 28 người bị thương; khoảng 1300 ha lúa, hoa màu bị ngập, hư hại; 2000 m kênh mương bị sạt lở; hơn 600 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và ngập nước; hàng nghìn nhà ở bị ssạt lở, tốc mái. Tổng giá trị thiệt hại ước tính khoảng 45,7 tỷ đồng. Ngay sau khi thiên tai xảy ra, các địa phương đã tiến hành công tác khắc phục hậu quả, thu dọn hiện trường và tổ chức cứu trợ, giúp đỡ các gia đình gặp nạn ổn định sản xuất và đời sống.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
|