TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 01 NĂM 2005
(Tóm tắt báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 01 - 2005)
Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI, đã thông qua Nghị quyết số 33/2004/QH11 về dự toán ngân sách Nhà nước, Nghị quyết số 34/2004/QH11 về phân bổ ngân sách, Nghị quyết số 36/2004/QH11 về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước và Nghị quyết số 41/2004/QH11 về nhiệm vụ năm 2005 với các mục tiêu chủ yếu là: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,5%. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,2%; giá trị tăng thêm tăng 3,8%. Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 16%; giá trị tăng thêm tăng 11%. Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 8,2%. Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 6,5%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 36,5% GDP. Tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động, trong đó xuất khẩu lao động 7 vạn người; số học sinh học nghề tuyển mới tăng 12%; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 7%; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống 25%; giảm tỷ lệ sinh 0,04%.
Triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 194/2004/QĐ-TTg và Quyết định số 209/2004/QĐ-TTg giao dự toán ngân sách Nhà nước và nhiệm vụ kế hoạch năm 2005.
Cuối tháng 12 năm 2004, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị với các Bộ, ngành, địa phương bàn về các giải pháp triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005. Sau Hội nghị, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2005 đưa ra 6 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2005.
Hiện nay, các Bộ, ngành, Tổng công ty 91, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang khẩn trương tổ chức triển khai việc phân bổ và giao kế hoạch cho các đơn vị cơ sở, đồng thời tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 01 của Chính phủ, tập trung chỉ đạo thực hiện kế hoạch ngay từ đầu năm, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ, xuất khẩu, đầu tư và một số lĩnh vực xã hội, phòng chống tai nạn giao thông.
I. TÌNH HÌNH KINH DOANH, XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ
1. Về sản xuất, kinh doanh
(1) Theo báo cáo của Bộ Công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1 ước đạt hơn 35,2 nghìn tỷ đồng, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 25,9% (doanh nghiệp do Trung ương quản lý tăng 23,9%, địa phương tăng 30,7%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 44,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 29,8%.
So với tháng 1 năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp của nhiều mặt hàng có tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp, cũng như nhiều tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng cao.
Tuy nhiên, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1 đạt cao so với cùng kỳ là do Tết Nguyên đán năm 2004 diễn ra trong tháng 1, trong khi năm 2005 Tết Nguyên đán sẽ diễn ra trong tháng 2. So với tháng 12/2004, giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp giảm 3,3%, tương đương 1.199 tỷ đồng. Nhiều sản phẩm công nghiệp có mức sản xuất thấp hơn tháng trước như: xe đạp hoàn chỉnh giảm 46,6%; sứ vệ sinh giảm 32,6%; thuốc ống các loại giảm 23,2%; ô tô các loại giảm 23,7%; thuốc trừ sâu giảm 22,2%; máy công cụ giảm 21,5%; xe máy các loại giảm 19,2%; giấy bìa các loại giảm 14,5%; quần áo dệt kim giảm 12,7%; xà phòng các loại giảm 10%;…
Sản xuất công nghiệp của nhiều địa phương cũng thấp hơn so với tháng 12/2004: Hà Nội giảm 39%; Hải Phòng giảm 16,4%; Vĩnh Phúc giảm 7,1%; Hà Tây giảm 4,3%; Hải Dương giảm 10,1%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 8,6%; Cần Thơ giảm 1,5%.
(2) Sản xuất nông nghiệp bảo đảm tiến độ gieo trồng; tuy nhiên, ngành nông nghiệp đang gặp khó khăn do hạn hán và dịch cúm gia cầm tái phát.
Trong tháng 1, các tỉnh phía Nam tiếp tục thu hoạch lúa mùa và gieo cấy vụ Đông Xuân, các tỉnh phía Bắc tập trung gieo cấy vụ Đông Xuân và trồng rau đậu, cây công nghiệp ngắn ngày.
Đến ngày 15/01/2005, cả nước đã gieo cấy được gần 1,8 triệu ha lúa Đông Xuân, bằng 97,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các tỉnh phía Nam đã gieo cấy được trên 1,7 triệu ha, gần 95% diện tích gieo cấy và chậm hơn cùng kỳ 1,6% do các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ bị hạn. Riêng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã gieo cấy được 1,45 triệu ha, bằng 97% diện tích gieo cấy. Các tỉnh phía Bắc tập trung chủ yếu làm đất, gieo mạ, đã gieo cấy được 87,5 nghìn ha.
Tính đến 15/1/2005, các tỉnh phía Nam thu hoạch được 843,8 nghìn ha lúa mùa, chiếm 97% diện tích gieo cấy và bằng 113,3% so với cùng kỳ, trong đó các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long đã thu hoạch hơn 236 nghìn ha bằng 60% diện tích gieo cấy và 91% so với cùng kỳ.
Các tỉnh phía Bắc đã gieo trồng được hơn 108 nghìn ha cây công nghiệp ngắn ngày, bằng 118% so với cùng kỳ năm 2004. Diện tích gieo trồng rau đậu các loại đạt 220 nghìn ha, bằng 94% so với cùng kỳ năm trước.
Về thuỷ sản: Tổng sản lượng thuỷ sản tháng 1 ước đạt 267 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2004.
Do thời tiết rét đậm kéo dài ảnh hưởng đến thời gian bám biển của ngư dân, vì vậy, sản lượng khai thác thuỷ sản tháng 1/2005 tăng không đáng kể, ước đạt gần 142 nghìn tấn, tăng 0,35% so với cùng kỳ năm 2004.
Nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá, tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản trong tháng ước đạt 125 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước.
Về lâm nghiệp, ước tháng 1 năm 2005 trồng rừng tập trung đạt 10,2 nghìn ha, trồng cây phân tán đạt 28,6 triệu cây, chăm sóc rừng trồng đạt 13,2 nghìn ha, khoanh nuôi tái sinh và trồng dặm đạt 68,8 nghìn ha. Từ đầu năm đến ngày 20 tháng 1 năm 2005 đã xảy ra 3.382 vụ vi phạm lâm luật, trong đó xảy ra 55 vụ cháy rừng làm thiệt hại 81,3 ha rừng; 386 vụ phá rừng và khai thác rừng trái phép. Lực lượng kiểm lâm đã xử lý 3.531 vụ, trong đó xử phạt hành chính 3.492 vụ, xử lý hình sự 39 vụ; tịch thu 52 ô tô máy kéo, 167 xe máy, trên 2.126 m3 gỗ tròn, 2.075 m3 gỗ xẻ, 6.178 kg động vật rừng, thu nộp ngân sách trên 12 tỷ đồng.
Ngành nông nghiệp đang phải đối mặt với một số khó khăn cần tập trung giải quyết:
Một là, dịch cúm gia cầm đang bùng phát trở lại và ngày càng có thêm nhiều điểm phát dịch mới được phát hiện. Tính đến ngày 21/1/2005, dịch đã xảy ra ở 189 xã, 74 huyện, 23 tỉnh, thành phố và tổng số gia cầm chết bệnh, phải tiêu huỷ hiện lên tới trên 362 nghìn con, bao gồm gà, vịt, ngan và chim cút. Các tỉnh bị dịch cúm gia cầm tái phát là: Ninh Thuận, Lâm Đồng, Bình Phước, Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu, Hậu Giang, Trà Vinh, An Giang, Cà Mau, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Kiên Giang, Hà Nam, Hải Dương, thành phố Hà Nội, Quảng Nam,…
Số điểm dịch tăng lên ngày một nhiều và có nguy cơ bùng phát mạnh trong thời gian tới gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và kinh tế của người dân. Hiện nay, các tỉnh, thành phố, các Bộ, ngành, cơ quan liên quan đang khẩn trương và quyết liệt triển khai công tác phòng chống dịch theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ nhằm ngăn chặn nạn dịch lây lan.
Hai là, hạn hán đang diễn ra trên diện rộng, đặc biệt là tình trạng thiếu nước phục vụ gieo cấy lúa vụ Đông Xuân ở các tỉnh miền Bắc vùng Đồng bằng Trung du Bắc Bộ. Mực nước hiện nay trên các sông, hồ ở mức thấp hơn cả năm 2004, là năm được coi là năm hạn hán khốc liệt nhất trong suốt 40 năm qua.
Trong thời gian qua các tỉnh hầu như không có mưa, lượng dòng chảy trên các sông, suối suy giảm nhanh và ở mức nước rất thấp so với trung bình nhiều năm từ 30-50%. Mức nước sông Hồng tại Hà Nội vào ngày 10/01 chỉ còn ở mức 2,06m (thấp hơn cùng kỳ năm 2004 là 0,16m). Do không có nguồn sinh thuỷ bổ sung, nên mức nước ở các hồ lớn và vừa đều thấp hơn mức nước thiết kế từ 1-5 mét, dung tích chỉ đạt từ 20-70% dung tích thiết kế. Lượng trữ nước ở các hồ thuỷ điện đều thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái và thấp hơn với mức thiết kế là 0,6-10,5 mét. Theo dự báo của Trung tâm khí tượng thuỷ văn, trong thời gian tới lượng mưa sẽ thấp hơn trung bình nhiều năm, như vậy vụ Đông Xuân sẽ thiếu nước nghiêm trọng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã tổ chức các đoàn công tác xuống địa phương chỉ đạo công tác chống hạn. Tình hình hạn hán có thể làm giảm năng suất lúa và cây trồng.
2. Về dịch vụ
Các hoạt động thương mại trên thị trường trở nên nhộn nhịp hơn do chuẩn bị phục vụ Tết Nguyên đán. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội tháng 1 năm 2005 ước đạt 37,7 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với tháng trước, trong đó thành phần kinh tế cá thể chiếm 63%, kinh tế tư nhân chiếm 18,2%, kinh tế nhà nước 15,4%, kinh tế tập thể 1%, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2,4%.
Tình hình chuẩn bị Tết Nguyên đán
Hầu hết các nhà sản xuất và đại lý của các mặt hàng đều đã chuẩn bị các phương án sản xuất và cung ứng sản phẩm, đảm bảo đáp ứng tối đa nhu cầu tăng cao vào dịp Tết. Theo đánh giá của Sở Thương mại Hà Nội, nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết của nhân dân tại Thủ đô tăng khoảng 25-30%, tập trung chủ yếu vào những mặt hàng lương thực - thực phẩm thiết yếu như gạo tăng khoảng 2 nghìn tấn, thịt lợn tăng khoảng 7 nghìn tấn, thịt bò tăng khoảng 1 nghìn tấn, thuỷ hải sản, rau quả, bánh mứt kẹo tăng cao. Để đảm bảo ổn định thị trường trong dịp Tết, hiện nay Sở Thương mại Hà Nội đã chủ động chuẩn bị khối lượng hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp tết của nhân dân, đồng thời yêu cầu các Ban quản lý chợ trên địa bàn Hà Nội tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra, xử lý, chống kinh doanh và tiêu thụ hàng giả, hàng lậu, hàng kém chất lượng, không rõ xuất xứ. Đặc biệt, trước nguy cơ bùng phát trở lại dịch cúm gia cầm, công tác kiểm dịch thú y, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đã được đặt lên hàng đầu.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, các đơn vị, cơ sở sản xuất và kinh doanh trên địa bàn thành phố đã áp dụng nhiều chương trình khuyến mại, giảm giá, tập trung chủ yếu đối với nhóm hàng điện tử, điện máy, đồ thời trang và một số loại nước giải khát.
Giá các mặt hàng bánh kẹo, đặc biệt bánh kẹo nhập khẩu tăng sớm và mạnh hơn do sự điều chỉnh giá của các nhà phân phối trên thị trường kéo theo sự tăng giá của bánh kẹo sản xuất trong nước. Tuy nhiên, do sớm đưa ra chiến lược phục vụ Tết, các nhà sản xuất trong nước đã nắm bắt đúng thị hiếu cuả người tiêu dùng cả về chất lượng lẫn kiểu dáng, hình thức, nhờ đó lượng tiêu thụ bánh mứt kẹo sản xuất trong nước tăng lên đáng kể.
Hoạt động du lịch diễn ra sôi nổi, trong tháng 1 năm 2005, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng nhiều, ước đạt 280-300 nghìn lượt khách, tăng trên 17% so với cùng kỳ, bình quân mỗi ngày có trên 6 nghìn lượt khách nhập cảnh qua sân bay Tân Sơn Nhất. Hiện nay, nhiều khách sạn cao cấp tại các trung tâm du lịch như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang đạt tỷ lệ sử dụng phòng trên 90%; nhu cầu khách sạn cao cấp từ 3 sao trở lên có thời điểm không đáp ứng kịp. Tuy nhiên, cần có các phương án tích cực hạn chế ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, bảo đảm an toàn thực phẩm để thu hút hơn nữa lượng khách du lịch trong thời gian tới.
Mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông hoạt động ổn định và phát triển.
Trong tháng 1, phát triển mới 125 điểm phục vụ bưu chính viễn thông, nâng tổng số lên gần 14,7 nghìn điểm phục vụ trên toàn quốc, trong đó có gần 7 nghìn điểm Bưu điện - Văn hoá xã. Phát triển mới 249,8 nghìn thuê bao điện thoại, nâng tổng số có trên mạng là hơn 10,4 triệu máy (trong đó VNPT: hơn 10 triệu; doanh nghiệp mới: 384,8 nghìn), đạt mật độ 12,68 máy điện thoại/100 dân. Phát triển mới 112 ngàn thuê bao Internet, trong đó có 3.200 thuê bao Internet băng rộng ADSL nâng tổng số lên 2.012 nghìn thuê bao Internet, trong đó có 55 nghìn thuê bao băng rộng tại các tỉnh, thành phố. Tổng số người sử dụng dịch vụ Internet là hơn 6 triệu (tăng 239,4 nghìn), đạt mật độ 7,4%. Tổng dung lượng đường truyền Internet quốc tế là 1.892Mb/s.
Các doanh nghiệp Bưu chính viễn thông đang tích cực tổ chức mạng lưới, điểm phục vụ với các phương án dự phòng hạn chế nghẽn mạch nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin tăng cao của nhân dân trong những ngày đầu năm mới và đón Xuân Ất Dậu 2005.
Thực hiện công văn số 6829/VPCP-CB của Văn phòng Chính phủ, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã triển khai thực hiện tăng chuyển phát Công báo đến các xã, phường, thị trấn và các điểm bưu điện văn hoá xã trên toàn quốc.
Hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách được đẩy mạnh. Trong tháng 1 năm 2005, vận tải hàng hoá ước đạt 26,1 triệu tấn vận chuyển và 6,6 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 6,2% về tấn vận chuyển và 7,6% về tấn luân chuyển so với cùng kỳ năm 2004 (tốc độ tăng tương ứng cùng kỳ là 4,5% và 3,4%); vận chuyển hành khách đạt hơn 89 triệu lượt hành khách và gần 5 tỷ HKkm, tăng 8,7% về hành khách vận chuyển và 11,2% về hành khách luân chuyển (tốc độ tăng tương ứng cùng kỳ là 4% và 6,2%). Ngành vận tải đang chuẩn bị các phương án đáp ứng tốt nhất nhu cầu vận chuyển và đi lại của nhân dân trong dịp Tết.
Trong tháng 12/2004 đã xảy ra 1.387 vụ tai nạn giao thông, làm thiệt mạng 1.021 người (giảm 5 vụ nhưng số người chết tăng 41 người so với tháng 11/2004).
3. Về hoạt động xuất khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tháng 1 năm 2005 ước đạt 2 tỷ USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 2,2%) nhưng vẫn thấp hơn tháng 12/2004 (tháng 12 đạt 2,3 tỷ USD); các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 710 triệu USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ. Các mặt hàng có tốc độ xuất khẩu tăng cao so cùng kỳ năm 2004 là: dây điện và dây cáp điện tăng 52,2%, hàng điện tử điện máy tăng 25%, sản phẩm nhựa tăng 66,7%, sản phẩm gỗ tăng 40,8%, máy vi tính và linh kiện tăng 36,4%, thuỷ sản tăng 19,4%, gạo tăng 131,5%, hạt tiêu tăng 25%, hạt điều tăng 87,5%, chè tăng 25%.
Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 2,2 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm trước tăng 12,1%), trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 780 triệu USD, tăng 20%. Một số mặt hàng có tốc độ tăng nhập khẩu rất cao là linh kiện, phụ tùng ô tô tăng 73,9%, ôtô nguyên chiếc tăng 31,3%, xe máy nguyên chiếc tăng 117,4%, linh kiện xe máy tăng 56,3%, bông các loại tăng 100%, sợi các loại tăng 33%, linh kiện điện tử tăng 25%, máy móc thiết bị phụ tùng tăng 20,5%.
Nhập siêu trong tháng 1 khoảng 200 triệu USD, chiếm 10% so với kim ngạch xuất khẩu, bằng mức nhập siêu so với cùng kỳ năm trước.
4. Đầu tư phát triển
Ước thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước tháng 1 năm 2005 đạt 4.500 tỷ đồng, bằng 7,1% kế hoạch năm (cùng kỳ đạt 6,1% kế hoạch).
Chấp hành Nghị quyết của Quốc hội, nhiều Bộ, ngành, địa phương đã triển khai phân bổ vốn đầu tư giao cho các đơn vị cơ sở thực hiện. Tính đến ngày 20 tháng 1 năm 2005 đã có 25 Bộ, ngành có văn bản triển khai kế hoạch năm 2005 với số vốn bằng 75% tổng số vốn được giao kế hoạch. Các Bộ có khối lượng vốn đầu tư ngân sách lớn như Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Quốc phòng, Bộ Công An, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Tư pháp đã sớm triển khai kế hoạch giao cho các đơn vị cơ sở thực hiện theo đúng quy định về thời gian. Hầu hết các tỉnh, thành phố (62/64) đã triển khai kế hoạch tới các cơ sở với số vốn đầu tư bằng 96,5% số vốn được giao kế hoạch (còn 2 tỉnh chưa giao kế hoạch là Tuyên Quang và thành phố Hải Phòng).
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với các cơ quan liên quan tiến hành rà soát kế hoạch phân bổ vốn đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương và đã kịp thời có ý kiến bằng văn bản đối với một số Bộ, ngành và địa phương trong triển khai phân bổ vốn đầu tư chưa phù hợp so với quy định, đồng thời tiến hành tổng hợp tình hình triển khai kế hoạch đầu tư phát triển năn 2005 của các Bộ, ngành và địa phương để báo cáo Chính phủ trong Quý I năm 2005.
Vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch tháng 1 ước đạt 1200 tỷ đồng, bằng 4% kế hoạch năm, trong đó nguồn vốn trong nước cho vay theo kế hoạch thực hiện thấp, chỉ đạt 700 tỷ đồng bằng 3,8% kế hoạch năm.
Thu hút vốn ODA: Từ đầu năm đến nay chỉ mới ký kết hiệp định Tài chính và Bản thoả thuận về dự án “Khôi phục và quản lý rừng bền vững ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên” do Cộng hoà Liên bang Đức tài trợ trị giá 9,7 triệu EUR (khoảng 14 triệu USD).
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tháng 1 tăng khá so với cùng kỳ, đặc biệt là vốn đăng ký mới. Tổng vốn của các dự án được cấp giấy phép mới và đăng ký tăng thêm đạt 395 triệu USD, tăng 3% so với cùng kỳ, trong đó vốn đầu tư được cấp giấy phép mới là 375 triệu USD với 56 dự án, tăng 210% về vốn đăng ký và tăng 12% về số dự án so với cùng kỳ năm trước; vốn tăng thêm đạt 20 triệu USD với 10 lượt dự án tăng vốn, bằng 8% về vốn và bằng 83% về số dự án so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ước đạt 214 triệu USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2004.
5. Tài chính, tiền tệ, giá cả
Thu ngân sách nhà nước 15 ngày đầu tháng 1 ước đạt 6.280 tỷ đồng, bằng 3,4% dự toán, tăng 200 tỷ đồng so với 15 ngày đầu tháng 12 năm 2004 và đạt tốc độ thu cùng kỳ năm trước. Các khoản thu trong kỳ đạt khá là thu nội địa ước đạt 2.912 tỷ đồng, bằng 3,4% dự toán năm (trong đó thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước ước đạt 1.150 tỷ đồng, bằng 3,1% dự toán; thu từ khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 460 tỷ đồng, bằng 2,9% dự toán); thu từ dầu thô đạt 1.568 tỷ đồng, bằng 4,1% dự toán.
Chi ngân sách nhà nước 15 ngày đầu tháng 1 ước đạt 8.850 tỷ đồng (bao gồm cả số đã ứng chi từ tháng 12 năm 2004). Trong đó, chi cho các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, quản lý nhà nước đạt 3.545 tỷ đồng, bằng 3,5% dự toán; thanh toán các khoản chi trả nợ đến hạn 2.300 tỷ đồng, bằng 6,6% dự toán; chi đầu tư xây dựng cơ bản khoảng 3.00 tỷ đồng, bằng 4,8% dự toán.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 1,1% so với tháng 12 năm 2004, bằng mức tăng cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng 1,7% (lương thực tăng 1,4%, thực phẩm tăng 1,9%), đồ uống và thuốc lá tăng 0,8%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,8%; hàng may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,7%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 0,9%, các mặt hàng còn lại khác đều tăng nhẹ. Chỉ số giá vàng giảm 2% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 3,1%), chỉ số giá đô la Mỹ giữ nguyên không thay đổi (cùng kỳ giảm 0,3%).
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 năm 2005 so với tháng 1 năm 2004 tăng 9,7% (cùng kỳ tăng 3,2%), trong đó lương thực, thực phẩm tăng 15,5% (lương thực tăng 13,5%, thực phẩm tăng 17,4%), nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 7,1% (cùng kỳ 4,4%), dược phẩm y tế tăng 8,7%, phương tiện đi lại, bưu điện tăng 6,2%, đồ dùng và dịch vụ khác tăng 5,3%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 4%, hàng may mặc, mũ nón giầy dép tăng 3,7%, nhóm hàng văn hóa, thể thao, giải trí tăng 2,1%, đồ uống và thuốc lá tăng 1,6%, nhóm hàng hoá phục vụ giáo dục giảm 2,2%. Chỉ số giá vàng tăng 6,1%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,7%.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI
1. Lao động việc làm
Tháng 1/2005 ước tạo việc làm cho 150 nghìn người, trong đó xuất khẩu lao động và chuyên gia 5.549 người (Đài Loan là 4.500 người, Malaixia: 320 người; Hàn Quốc: 350 người; Lào: 300 người; còn lại là các nước khác).
Về tình hình xuất khẩu lao động, từ ngày 20/01/2005, phía Đài Loan đã chính thức đình chỉ tiếp nhận lao động Việt Nam trong lĩnh vực lao động giúp việc và lao động chăm sóc người bệnh. Tuy nhiên, lao động xuất khẩu sang Đài Loan ở các lĩnh vực khác vẫn được tiếp tục.
Trước tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn, không thực hiện đúng hợp đồng lao động tại Đài Loan, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã thực hiện nhiều giải pháp để khắc phục; tuy nhiên số lao động bỏ trốn đến nay vẫn còn trên 7 nghìn người (khoảng 9% số người làm việc tại Đài Loan). Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã thực hiện một số giải pháp để khắc phục tình trạng trên.
2. Y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
Gần 1 tháng đầu năm 2005, cả nước đã có 8 người mắc bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus H5N1, trong đó 6 người đã tử vong. Do dịch cúm gia cầm có chiều hướng gia tăng, Bộ Y tế đã chỉ đạo các cơ quan chức năng như Viện Vệ sinh dịch tễ, Viện Pasteur, các Sở Y tế tổ chức giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời các trường hợp mắc bệnh; hướng dẫn khử trùng triệt để; giám sát chặt chẽ các cơ sở điều trị, khu vực bệnh nhân cư trú để sớm phát hiện, cách ly và điều trị kịp thời các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh; phối hợp với các ngành liên quan sử lý môi trường tại các khu vực có gà chết hàng loạt, không để lây sang người; tuyên truyền, giới thiệu về cách phòng chống bệnh cúm trong mùa Đông Xuân.
Các bệnh khác như bệnh tả, thương hàn, viêm não vi rút, sốt rét, sốt xuất huyết... nhìn chung được khống chế nên không có dịch bệnh xảy ra. Tuy nhiên, do thời tiết lạnh giá ở các tỉnh từ miền Trung trở ra nên số bệnh nhi viêm phế quản, viêm phổi tăng cao tại các bệnh viện Trung ương, nhất là bệnh viện Nhi và các khoa nhi ở các bệnh viện đa khoa địa phương bệnh nhân tăng nhiều gây ra tình trạng quá tải.
3. Văn hóa, thông tin; phát thanh, truyền hình
Trong tháng 1 năm 2005, ngành văn hoá thông tin tập trung tuyên truyền về an toàn giao thông, phòng chống ma túy, HIV, AIDS, phòng chống dịch cúm gia cầm, vận động nhân dân đóng góp ủng hộ các nạn nhân bị thảm họa sóng thần… Các đơn vị nghệ thuật đang xây dựng các chương trình nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng xuân Ất Dậu. Nhiều hoạt động văn hóa thông tin khác được tổ chức ở một số tỉnh, thành phố như tổ chức lễ hội "Ngày hội tuổi thơ" tại thành phố Hồ Chí Minh, “Liên hoan văn hóa cồng chiêng các dân tộc Tây Nguyên” ở Đắc Lắc, chương trình ca múa nhạc kỷ niệm 75 năm thành lập Đảng ở Thái Nguyên… Đài Truyền hình Việt Nam đã tổ chức Liên hoan Truyền hình toàn quốc năm 2005 tại thành phố Hạ Long (Quảng Ninh) với sự tham gia đông đảo nhất từ trước đến nay (83 đơn vị và 583 tác phẩm dự thi).
4. Tình hình chuẩn bị Tết cho các đối tượng chính sách, đối tượng nghèo, khó khăn; cứu đói dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm 2005
Các địa phương tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng người có công, đối tượng xã hội, gia đình nghèo, khó khăn. Đặc biệt ở những địa phương chịu thiên tai năm 2004, các cấp lãnh đạo chính quyền đã chủ động nắm tình hình đời sống nhân dân và tổ chức hỗ trợ kinh phí kịp thời, bảo đảm cho mọi người đều được đón Tết.
Hạn hán, mưa lũ đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân các tỉnh Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai, Bình Thuận, Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị. Trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm 2005, theo dự kiến của các tỉnh sẽ có khoảng hơn 878 nghìn người bị thiếu đói từ 1 đến 3 tháng, trong đó nặng nề nhất là các tỉnh Đắc Lắc 175 nghìn người, Quảng Trị 129 nghìn người, Thừa Thiên - Huế 85,7 nghìn người, Quảng Ngãi hơn 84 nghìn người, Gia Lai hơn 83 nghìn người.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã làm việc với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ phương án hỗ trợ lương thực cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm 2005.
Tóm lại, qua 1 tháng tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 2005, tình hình kinh tế - xã hội nhìn chung tiếp tục duy trì được đà phát triển. Tuy nhiên, nổi lên một số vấn đề cần tập trung chỉ đạo thực hiện:
(1) Hạn hán nặng nề, đặc biệt ở các tỉnh Bắc Bộ làm ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Thời tiết khô hanh, hạn hán tạo ra nguy cơ cháy rừng cao...
(2) Dịch cúm gia cầm diễn biến phức tạp và có xu hướng lan rộng, tác động xấu đối với kết quả sản xuất của ngành nông nghiệp, thu nhập của người chăn nuôi và đang tạo ra dịch viêm đường hô hấp cấp lây lan sang người, tác động xấu đến sức khoẻ của nhân dân.
(3) Chỉ số giá có xu hướng tăng cao trở lại (chỉ số giá tháng 1/2005 cao hơn 0,5% so với tháng 12/2004), mặc dù chưa phải là tháng có Tết.
Nhiệm vụ đề ra cho năm 2005 khá cao, để bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2005, cần phải đạt được nhịp độ tăng trưởng cao ngay từ những tháng đầu năm ở tất cả các ngành. Các Bộ, ngành, địa phương cần nhanh chóng xây dựng chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 1 năm 2005 của Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước năm 2005, đồng thời, cần kịp thời khắc phục những khó khăn trong thời gian tới và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết 01 của Chính phủ, trước mắt tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách sau đây:
Một là, tiếp tục tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất kinh doanh:
Các địa phương vùng bị hạn phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan khẩn trương thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng chống hạn, bảo đảm đủ nước phục vụ gieo cấy vụ Đông Xuân hết diện tích; các địa phương có kế hoạch sử dụng nước tưới hợp lý, tiết kiệm, đồng thời chuyển một phần đất không có khả năng cung cấp đủ nước tưới sang trồng các loại rau mầu khác.
Do tình hình hạn hán kéo dài trên diện rộng, mực nước hiện nay trên các sông, hồ ở mức rất thấp, vì vậy ngành điện cần dự phòng các phương án sản xuất thay thế, bảo đảm cung cấp đủ nhu cầu điện cho các ngành sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong những tháng tới.
Tập trung các điều kiện đẩy mạnh phát triển công nghiệp để bảo đảm tốc độ tăng trưởng trong từng tháng của ngành công nghiệp ít nhất không thấp hơn mức kế hoạch cả năm của cả nước, đặc biệt là các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn, các địa phương có tỷ trọng công nghiệp lớn.
Hai là, triển khai nhanh kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005:
Các Bộ, ngành và địa phương, các Tổng công ty 91 nhanh chóng triển khai kế hoạch đầu tư xây dựng; huy động tất cả các nguồn vốn và tổ chức chỉ đạo triển khai ngay từ đầu năm. Đối với các dự án từ ngân sách nhà nước, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng các Bộ, ngành và địa phương liên quan rà soát các dự án nhóm A. Các Bộ ngành và địa phương tổng rà soát các dự án nhóm B, C đang triển khai xây dựng và dự định khởi công năm 2005 về sự phù hợp với quy hoạch được duyệt, khả năng nguồn vốn đầu tư, thủ tục đầu tư và xây dựng để bảo đảm nâng cao hiệu quả đầu tư, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, không quyết định đầu tư đối với các công trình dự án chưa chắc chắn về nguồn vốn.
Các Bộ, ngành, địa phương khi phân bổ vốn đầu tư phải bảo đảm rà soát chặt chẽ để đình hoãn, dãn các công trình, dự án không phù hợp với quy hoạch được duyệt, không sát với yêu cầu thực tế của ngành, của địa phương và của thị trường. Không bố trí vốn cho các dự án chưa đủ các thủ tục về đầu tư và xây dựng theo quy định, chưa xác định rõ hiệu quả đầu tư.
Các Bộ, ngành, địa phương phải dành một khoản vốn đầu tư xây dựng trong kế hoạch năm 2005 để thanh toán nợ xây dựng cơ bản của các năm trước.
Ba là, phấn đấu bình ổn giá cả, thị trường, đặc biệt trong dịpTtết Nguyên đán.
Các Bộ, ngành, địa phương cần có biện pháp cụ thể kiểm soát tình hình giá cả, thị trường, ngăn chặn hiện tượng tăng giá, đặc biệt đối với những mặt hàng thiết yếu theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 177/VPCP-KTTH ngày 12/1/2005 của Văn phòng Chính phủ.
Bộ Công nghiệp bảo đảm đủ nguồn cung cấp ổn định các hàng hoá phục vụ sản xuất và tiêu dùng như xi măng, sắt thép, hoá chất, cơ khí, phân bón. Các Bộ có liên quan khẩn trương xây dựng Quy chế kinh doanh từng mặt hàng, nhóm hàng trọng yếu như phân bón, sắt thép, thuốc tân dược…Thực hiện nghiêm túc Quy chế quản lý kinh doanh xăng dầu. Bộ Tài chính nghiên cứu giảm thuế nhập khẩu clinker của các nước ngoài ASEAN.
Bốn là, thực hiện hiệu quả các biện pháp ngăn chặn dịch cúm gia cầm và phòng chống lây nhiễm cho người. Tổ chức tốt điều kiện cứu chữa người bị nhiễm bệnh.
Theo dõi sát diễn biến dịch bệnh để chủ động các giải pháp phòng chống. Thực hiện tốt các chỉ đạo của Chính phủ về phòng chống dịch cúm gia cầm, hạn chế thấp nhất các thiệt hại cho người chăn nuôi.
Các Bộ, ngành, địa phương có liên quan kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển gia cầm, đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán. Kiểm tra chặt chẽ để ngăn chặn việc nhập lậu gia cầm, sản phẩm gia cầm từ các nước láng giềng.
Bộ Y tế bổ sung đầy đủ, kịp thời trang thiết bị cấp cứu ở các tuyến điều trị, cấp cứu tại chỗ cho bệnh nhân nhiễm bệnh.
Ngành y tế nhanh chóng chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị, tổ chức khu vực cách ly để tiếp nhận những trường hợp nghi nhiễm cúm.
Năm là, tổ chức tốt việc đón Tết Ất Dậu lành mạnh, vui tươi, tiết kiệm.
Tăng cường công tác kiểm tra thị trường, hạn chế tình trạng hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, đặc biệt trên địa bàn các vùng sâu, vùng xa, những nơi do thu nhập và trình độ dân trí của người dân có hạn, không có điều kiện nhận biết chất lượng hàng hoá.
Chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị số 47-CT/TƯ ngày 30 tháng 12 năm 2004 của Ban Bí thư về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc tổ chức đón Tết Nguyên đán và Chỉ thị số 48/CT-TTg ngày 24 tháng 12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức đón tết Ất Dậu năm 2005 vui tươi, an toàn, lành mạnh nhưng tiết kiệm. Các Bộ, ngành, địa phương tổ chức chu đáo việc thăm hỏi, tặng quà cho thương binh, bệnh binh thân nhân liệt sĩ đồng thời vận động nhân dân giúp đỡ các gia đình nghèo khó khăn dể mọi người đón tết vui vẻ.
Bảo đảm trật tự an toàn giao thông, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông trong dịp Tết.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư