TÌNH HÌNH KINH TẾ-XÃ HỘI THÁNG 3 VÀ QUÝ I NĂM 2005
(Trích Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại cuộc họp thường kỳ tháng 3 năm 2005)
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ năm 2005 và dự toán ngân sách nhà nước năm 2005 với các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu sau: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,5%. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,2%; giá trị tăng thêm tăng 3,8%. Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 16%; giá trị tăng thêm tăng 11%. Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 8,2%. Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 6,5%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 36,5% GDP. Tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động, trong đó xuất khẩu lao động 7 vạn người; số học sinh học nghề tuyển mới tăng 12%; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 7%; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống 25%; giảm tỷ lệ sinh 0,04%.
Bước vào quý I năm nay, nước ta phải đương đầu với một số khó khăn về hạn hán tại Tây Nguyên và miền Trung; nguy cơ cao về cháy rừng ở diện rộng; dịch cúm gia cầm tái phát; giá cả một số nguyên, vật liệu gia tăng,… đã ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng kinh tế của quý I năm 2005.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành, Tổng công ty 91, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã khẩn trương giao kế hoạch cho các đơn vị cơ sở, đồng thời tập trung chỉ đạo giải quyết các khó khăn và triển khai thực hiện kế hoạch sản xuất, dịch vụ, xuất khẩu, đầu tư, các hoạt động xã hội.
Nhìn chung,trong quý I năm 2005, tình hình kinh tế-xã hội tiếp tục ổn định, đạt được một số kết quả khá như: sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tiếp tục tăng khá, sản xuất nông nghiệp tăng cao, xuất khẩu tiếp tục duy trì với tốc độ khá, thu ngân sách đạt khá, đầu tư phát triển đạt khá, nhất là khu vực dân cư, thị trường trong nước tiếp tục được mở rộng, tổng mức bán lẻ tăng cao… góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Các chỉ tiêu chủ yếu trong quý I năm 2005 đạt được như sau:
|
Quý I-2004
|
Quý I-2005
|
(1) Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
|
7,0
|
7,23
|
Trong đó: Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp (%)
|
0,2
|
4,1
|
Khu vực công nghiệp và xây dựng (%)
|
9,9
|
8,5
|
Khu vực dịch vụ(%)
|
6,6
|
7,0
|
GDP theo giá thực tế (nghìn tỷ đồng)
|
137,0
|
164,2
|
(2) Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (%)
|
15,6
|
14,4
|
(3) Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp (%)
|
0,8
|
5,0
|
(4) Giá trị các ngành dịch vụ, (%)
|
7,1
|
7,5
|
(5) Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ(%)
|
15,4
|
18,5
|
(6) Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (%)
|
15,1
|
16,2
|
Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu (%)
|
11,2
|
18,5
|
(7) Đầu tư xã hội so với GDP (%)
|
35
|
37
|
(8) Thu ngân sách nhà nước (nghìn tỷ đồng)
|
34,7
|
47,3
|
Thu NSNN so với dự toán (%)
|
23,2
|
25,8
|
Thu NSNN so với GDP (%)
|
25,3
|
28,8
|
(9) Chi ngân sách nhà nước (nghìn tỷ đồng)
|
37,1
|
51,8
|
(10) Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP (%)
|
1,7
|
2,7
|
(11) Chỉ số giá tiêu dùng (%)
|
4,9
|
3,7
|
(12) Tạo việc làm mới (nghìn người)
|
250
|
300
|
Tuy nhiên qua 3 tháng triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nổi lên một số vấn đề sau:
Tốc độ tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế đạt thấp hơn mức kế hoạch: Tốc độ tăng GDP mới đạt ở mức 7,2%, tuy cao hơn cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ tăng 7%), nhưng còn thấp xa so với mục tiêu của kế hoạch là 8,5%.
Điều đặc biệt cần lưu ý là tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước và thấp hơn nhiều so với mục tiêu kế hoạch đề ra, quý I chỉ tăng 14,4% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 15,6%) và thấp hơn so với mục tiêu là 16%. Giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng quá thấp đã ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng chung.
Tuy xuất khẩu tăng khá, nhưng bình quân mỗi tháng mới xuất được 2,2 tỷ USD/tháng, trong khi cần mức xuất khẩu bình quân là trên 2,5 tỷ USD/tháng.
Chỉ số giá tháng 3 tăng 0,1%, tuy đã thấp hơn nhiều so với 2 tháng trước đó nhưng chưa vững chắc, mặt bằng giá vẫn đứng ở mức cao, giá một số mặt hàng như xăng dầu, xi năng, thép, nguyên liệu chưa ổn định, dự báo sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế… cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế sự tăng giá trong những tháng còn lại.
Tình hình trật tự an toàn giao thông chưa có chuyển biến rõ nét, tai nạn giao thông vẫn là mối lo ngại sâu sắc của dư luận; tình trạng tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma tuý gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, số người nghiện mới tăng nhanh và hệ quả xấu về mặt xã hội đang là gánh nặng cho cộng đồng.
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 3 VÀ QUÝ I NĂM 2005.
1. Về sản xuất, kinh doanh
(1) Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp đạt thấp hơn mức kế hoạch đề ra, đặc biệt khu vực doanh nghiệp nhà nước có mức tăng rất thấp. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 3 năm 2005 ước đạt gần 36,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4% so với tháng 3 năm 2004, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng 5,2% (Trung ương tăng 6,9%; địa phương tăng 1,5%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,2%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,7%. Tính chung 3 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 14,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ 2004 đạt 15,6%; 2003: 15,1%), thấp hơn mức kế hoạch (kế hoạch 16%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 7,9% (Trung ương tăng 8,8%, địa phương tăng 6%), thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 12,2%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 25,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,5%. Do giá trị sản xuất đạt thấp, nên giá trị gia tăng của ngành công nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 39%/GDP, chỉ tăng 8,56% (cùng kỳ tăng 9,9%), đã ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế. Trong công nghiệp, khu vực DNNN lại có mức tăng quá thấp đã ảnh hưởng lớn đến toàn ngành.
Một số sản phẩm có tỷ trọng lớn nhưng gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ nên mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng bình quân chung của toàn ngành gồm: xi măng tăng 5,6%, thép cán tăng 10,6%, động cơ điện tăng 7,2%, điện phát ra tăng 12,4%, phân hoá học tăng 7,8%, gạch xây tăng 6,7%, quần áo may sẵn tăng 10%, bia tăng 11,3%, máy biến thế tăng 2,8%.
Nhiều sản phẩm quan trọng giảm so với cùng kỳ năm trước như dầu thô khai thác chỉ bằng 89,9%, khí đốt thiên nhiên bằng 99,5%, gas hoá lỏng bằng 93,4%, đường mật các loại bằng 85,2%, vải lụa thành phẩm bằng 99,9%, quần áo dệt kim bằng 89,1%, động cơ diezen bằng 83,7%, quạt điện dân dụng bằng 89,8%, xe đạp hoàn chỉnh bằng 77%.
Một số địa phương có tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành: thành phố Hồ Chí Minh có tỷ trọng công nghiệp cao nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 11,3%, Phú Thọ tăng 13,2%, Quảng Ninh tăng 5,2%, Thanh Hoá 13,5%, Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 11,8%.
Tuy nhiên, có một số sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ là than sạch khai thác tăng 18,2%, thuỷ sản chế biến tăng 20,7%, giấy bìa các loại tăng 18,9%, thuốc viên các loại tăng 20,4%, xe máy lắp ráp tăng 23,4%, ô tô các loại tăng 18,5%, sản phẩm sứ vệ sinh tăng 20,9%, gạch lát tăng 18,6%.
Ba tháng đầu năm 2005, một số địa phương đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ gồm thành phố Hà Nội tăng 16,8%, thành phố Hải Phòng tăng 15,6%, tỉnh Vĩnh Phúc tăng 19%, tỉnh Hà Tây tăng 21%, tỉnh Hải Dương tăng 22,7%, tỉnh Bình Dương tăng 33,4%, tỉnh Đồng Nai tăng 22%, tỉnh Cần Thơ tăng 32,9%.
Giá trị sản xuất công nghiệp quý I năm 2005 tăng thấp do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng thấp do khai thác dầu thô giảm hơn 10% so với cùng kỳ, đồng thời khai thác khí và sản xuất gas hoá lỏng giảm.
Khu vực kinh tế địa phương, một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng sản lượng công nghiệp lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Nẵng… đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với toàn ngành. Doanh nghiệp nhà nước ở cả Trung ương và địa phương có mức tăng rất thấp.
-Mức tiêu thụ ở thị trường trong nước đối với các sản phẩm thép, điện, phân hoá học... chậm làm giảm tốc độ tăng của sản xuất.
-Năng lực sản xuất của một số sản phẩm chưa theo kịp với nhu cầu (xi măng).
-Xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may, da giầy, xe đạp và phụ tùng gặp khó khăn và có mức tăng chậm so với cùng kỳ do vướng quota nhập khẩu vào thị trường Mỹ và khả năng cạnh tranh kém so với hàng Trung Quốc tại thị trường EU.
(2) Sản xuất nông lâm nghiệp vượt qua khó khăn về hạn hán và đạt kết quả khá.
Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp quý I năm 2005 tăng 5% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 0,8%), trong đó nông nghiệp tăng 4,9%; lâm nghiệp 0,6%; thuỷ sản tăng 6,5%.
Trong tháng 3 các tỉnh miền Nam gieo cấy vụ hè thu và thu hoạch lúa đông xuân, các tỉnh miền Bắc tập trung gieo cấy vụ đông xuân và trồng rau màu, cây công nghiệp.
Tính đến 15/3/2005, các tỉnh miền Nam thu hoạch được 1.216,2 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 68% diện tích gieo cấy và bằng 98,7% so với cùng kỳ, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1.201,4 nghìn ha, bằng 82% diện tích gieo cấy và 97% so với cùng kỳ.
Tính đến ngày 15/3 các tỉnh miền Nam đã gieo cấy được 219,4 nghìn ha lúa hè thu, bằng 88% so với cùng kỳ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; các tỉnh miền Bắc gieo cấy được 1.109 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,6% so với cùng kỳ, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Hồng gieo cấy được 562,5 nghìn ha, bằng 97,5% so với cùng kỳ; các tỉnh Bắc Trung Bộ đã gieo cấy được 329 nghìn ha, bằng 100,3% so với cùng kỳ.
Các tỉnh miền Bắc đã gieo trồng được 280 nghìn ha cây công nghiệp ngắn ngày, bằng 107% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng rau đậu các loại đạt 352 nghìn ha, bằng 99,5% so với cùng kỳ.
Về thuỷ sản: Thời tiết những ngày đầu tháng 3 thuận tiện cho việc khai thác hải sản nên sản lượng khai thác tháng 3/2005 đạt 135 ngàn tấn, đưa sản lượng khai thác 3 tháng/2005 lên 407 ngàn tấn, bằng 23% kế hoạch năm và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2004. Nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển mạnh, sản lượng nuôi và khai thác nội địa tháng 3/2005 ước đạt 110 nghìn tấn đưa sản lượng 3 tháng/2005 lên 345 nghìn tấn, bằng 22% kế hoạch năm, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2004.
Tình hình hạn hán và cháy rừng : Tình trạng khô hạn nghiêm trọng kéo dài tại nhiều địa phương trong cả nước từ cuối năm 2004 đến cuối tháng 3 vẫn chưa chấm dứt. Trong những ngày đầu và giữa tháng 3, hạn hán xảy ra gay gắt nhất tại các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ do nắng dữ dội và hầu như không có mưa ở khu vực này ảnh hưởng đến rau mầu và cây công nghiệp. Hạn hán kéo dài, ngoài việc thiếu nước cho sản xuất, thiếu nước cho sinh hoạt của người dân và chăn nuôi gia súc cũng nổi lên rất gay gắt.
Do khô hạn trên diện rộng nên rừng có nguy cơ cháy rất cao. Tính đến ngày 20/3 cả nước xảy ra 388 vụ cháy rừng (cả năm 2004 là 443 vụ), thiệt hại 2.116 ha trong đó chủ yếu là rừng trồng (1.800 ha). Riêng trong tháng 3 xảy ra 88 vụ cháy rừng, thiệt hại 828 ha; cấp độ nguy cơ cháy rừng ở nhiều nơi còn rất cao.
Do ảnh hưởng của cơn bão số 1 (từ19-24/3), đã có mưa ở hầu hết các tỉnh trong cả nước, nhất là Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, góp phần giảm nhẹ tình hình hạn hán đang đe doạ vụ lúa hè thu cũng như diện tích cây công nghiệp ở các vùng này. Tuy vậy, do lượng mưa nhỏ nên tình hình hạn hán vẫn còn tiếp tục. Dự báo trong 2 tháng tới, tình hình khô hạn và thiếu nước vẫn chưa chấm dứt.
Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 3/2005, dịch cúm gia cầm vẫn diễn biến phức tạp, nhất là tại tỉnh Thái Bình. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương áp dụng các biện pháp xử lí triệt để ổ dịch gia cầm, tích cực chủ động ngăn chặn sự lây nhiễm vi rút A sang người. Đến nay dịch cúm gia cầm đã được thu hẹp nhưng chưa khống chế và kiểm soát được hoàn toàn, vẫn còn phát sinh ổ dịch mới và còn tiềm ẩn nguy cơ phát dịch.
2. Các hoạt động dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 3 ước đạt 32.924 tỷ đồng, tăng khoảng 13,5% so với cùng kỳ năm 2004. Tính chung cả 3 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt gần 104,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ, bằng 23,5% kế hoạch, trong đó khối kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân chiếm 82,9% tổng mức bán lẻ hàng hoá.
Về quản lý thị trường: Trong quý I/2005, tình hình thị trường trên cả nước không có biến động lớn về cung cầu hàng hoá và giá cả do các cơ quan chức năng đã đẩy mạnh công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, làm hàng giả, hàng kém chất lượng. Trong tháng 3, các cơ quan quản lý thị trường đã bắt và xử lý khoảng gần 3.000 vụ vi phạm thị trường với tổng số tiền thu nộp hơn 7 tỷ đồng; tính chung cả 3 tháng đầu năm, tổng số vụ vi phạm khoảng 16,6 nghìn vụ, thu về cho nhà nước khoảng 33 tỷ đồng. Những mặt hàng bị thu giữ, chủ yếu vẫn là hàng tiêu dùng như đồ điện tử, thuốc lá, rượu bia ngoại nhập lậu qua đường tiểu ngạch.
Các hoạt động vận tải về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá phục vụ cho sản xuất và nhu cầu đi lại của dân cư. Trong quý I, khối lượng vận tải hàng hoá ước đạt gần 64,2 triệu tấn hàng và gần 13,4 tỷ tấn.km, tăng 5,2% về tấn vận chuyển và 6,9% về tấn.km so với cùng kỳ năm 2004; vận tải hành ước đạt 238 triệu lượt hành khách và 10,9 tỷ tấn.km, tăng 6,5% về lượt hành khách và tăng 9% về tấn.km. Tuy nhiên, dịch vụ vận tải chất lượng phục vụ còn thấp, đặc biệt là vận tải hàng không, số chuyến bay bị chậm, bỏ chuyến còn nhiều.
Dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển. Trong tháng 3/2005 phát triển mới 436 nghìn thuê bao điện thoại, tăng 297% so với cùng kỳ, nâng tổng số phát triển mới của quý I/2005 là 935,8 nghìn thuê bao, tăng 71% so với cùng kỳ. Tính đến hết quý I/2005, tổng số thuê bao trên toàn mạng đạt 11.712 nghìn máy (trong đó số thuê bao của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là 10.657 nghìn máy) đạt mật độ13,62 máy/100 dân, trong đó thuê bao di động chiếm 49%. Tổng dung lượng kết nối Internet quốc tế là 2.221 Mbps, có 2,2 triệu thuê bao Internet quy đổi. Số người sử dụng dịch vụ Internet là 6,5 triệu đạt mật độ 7,9%.
Ngành du lịch tiếp tục đẩy mạnh công tác quảng bá xúc tiến du lịch, thu hút khách trên cơ sở nâng cấp, hoàn thiện, bổ sung các chương trình du lịch. Trong tháng 3/2005, ngành du lịch đã tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi, đặc biệt đã tổ chức thành công Lễ công bố Hành trình di sản miền Trung tại Quảng Nam, nhằm đẩy mạnh hình thức du lịch văn hoá và du lịch lịch sử. Khách du lịch quốc tế trong tháng 3 ước đạt trên 292 nghìn lượt khách nâng tổng số khách quốc tế trong 3 tháng đầu năm 2005 lên trên 877 nghìn lượt khách, tăng 22,8% so cùng kỳ năm 2004. Khách du lịch nội địa 3 tháng đầu năm tăng mạnh do cả nước đang mùa lễ hội, ước đạt gần 3,9 triệu lượt khách, tăng 8,3% so cùng kỳ năm 2004. Hiện nay nhiều khách sạn cao cấp tại các trung tâm du lịch như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Nha Trang... đều đạt công suất trên 90%.
3. Xuất nhập khẩu
(1) Kim ngạch xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng khá, trong tháng 3 ước đạt 2,5 tỷ USD, tăng 38,4% so với tháng 2, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 800 triệu USD. Tính chung quý I/2005, kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 6,72 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2004 (quý I/2003 tăng 43,4%, quý I/2004 tăng 15,1%), trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 2,19 tỷ USD, tăng 17,6%. Trong 3 tháng đầu năm 2005, kim ngạch xuất khẩu bình quân/tháng đạt 2,24 tỷ USD, cao hơn mức bình quân/ tháng của quý I năm 2004 (1,8 tỷ USD).
Một số mặt hàng xuất khẩu trong quý I có mức độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ là: than đá tăng 76,2%, dây điện và cáp điện tăng 27,4%, sản phẩm gỗ đạt 264 triệu USD, tăng 17,9%; máy vi tính và linh kiện đạt 311 triệu USD, tăng 45,3%; sản phẩm nhựa tăng 63%, hạt điều tăng 53%. Một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực nhưng có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng chung là hàng dệt may đạt 950 triệu, tăng 2,9%; giày dép đạt 651 triệu, tăng 3,6% so cùng kỳ; gạo giảm 17% về lượng nhưng tăng 5% về kim ngạch do giá tăng 21%, thuỷ sản tăng 8%. Một số mặt hàng giảm sút hơn so với cùng kỳ là xe đạp và phụ tùng giảm gần 30% (do đang bị phía EU, Canađa điều tra bán phá giá), cà phê giảm 4,6%, hạt tiêu giảm 5,3%,...
Kim ngạch xuất khẩu quý I đạt mức tăng trưởng cao do các doanh nghiệp chuẩn bị tốt nguồn hàng từ cuối năm 2004, tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu. Chất lượng, uy tín một số mặt hàng (như thủy sản, dây điện, cáp điện, sản phẩm gỗ, máy vi tính...) tăng cao trên thị trường thế giới. Ngoài ra giá nhiều mặt hàng (giá dầu thô, giá gạo...) tăng cao cũng góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
(2) Kim ngạch nhập khẩu tháng 3 ước đạt 2,8 tỷ USD, tăng 26,9% so với tháng trước; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 980 triệu USD, tăng 28,1% so với tháng trước. Tính chung quý I/2005, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 7,85 tỷ USD, tăng 18,5% so cùng kỳ 2004; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 2,7 tỷ USD, tăng 16,8%, chiếm 34,4% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Các mặt hàng nhập khẩu tăng nhiều là các sản phẩm nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu như: linh kiện, phụ tùng ô tô tăng 51%, xe máy tăng 65%; máy móc thiết bị phụ tùng tăng 27,5%, máy vi tính và linh kiện tăng 39,5%, giấy tăng 49,5%, bông 42,3%, tân dược 7%, hóa chất các loại 21,1%...
Một số mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước có tốc độ tăng nhập khẩu giảm so cùng kỳ là xăng dầu giảm 1,2%, phân bón giảm 48,5%, trong đó phân urê giảm 68,8% do đó đã có dự báo về khả năng sốt phân bón trong vụ tới; sợi các loại giảm 11,6%, nguyên phụ liệu dệt may da giảm 8,4%...
Nhập siêu 3 tháng đầu năm là 1,13 tỷ USD, bằng 16,8% kim ngạch xuất khẩu (quý I/2003 nhập siêu 17,6%; quý I/2004: 13,7%).
4. Đầu tư phát triển
Thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý I năm 2004 ước đạt 60,8 nghìn tỷ đồng, bằng 20,3% kế hoạch năm (quý I năm 2004 đạt 19,3%; 2003 đạt 19,8%), tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó:
Nguồn vốn ngân sách nhà nước ước đạt 13,9 nghìn tỷ đồng, bằng 21% kế hoạch, tăng 24% so với cùng kỳ.
Một số Bộ ngành có mức thực hiện đầu tư khá là: Bộ Giao thông Vận tải đạt 29,2%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 23,7%; một số Bộ đạt mức thấp là Bộ Văn hoá Thông tin đạt 13%; Bộ Y tế đạt 14,5%; Bộ Xây dựng đạt 14,1%.
Vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch đạt khoảng 5,3 nghìn tỷ đồng, bằng 17,1% kế hoạch năm, tăng 60% so với cùng kỳ.
Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước đạt 12,0 nghìn tỷ đồng bằng 20,3% kế hoạch, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm 2004.
Thu hút vốn ODA: Từ đầu năm đến ngày 21/3/2005, nguồn vốn ODA được hợp thức hoá thông qua các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt tổng giá trị 21,62 triệu USD. Toàn bộ 5 dự án được ký kết đều dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, trong đó Dự án “Khôi phục và quản lý rừng bền vững ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên” do Cộng hoà liên bang Đức tài trợ trị giá 9,7 triệu EUR (khoảng 14 triệu USD) có quy mô viện trợ lớn nhất.
Mức giải ngân của 3 tháng đầu năm 2005 đạt 250 triệu USD, bằng 14% kế hoạch giải ngân của cả năm 2005, trong đó vốn vay đạt khoảng 197 triệu USD, viện trợ không hoàn lại đạt 53 triệu USD. Trong tổng mức giải ngân 3 tháng, phần vốn vay của 3 nhà tài trợ lớn (JBIC, WB, ADB) chiếm khoảng 151 triệu USD, tương đương với 76% tổng giá trị giải ngân.
Vốn đầu tư của khu vực dân cư tiếp tục tăng, đạt 17,8 nghìn tỷ đồng, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2004.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2004. Trong tháng 3, tổng vốn của dự án cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm của các dự án đang hoạt động ước đạt 576 triệu USD (vốn đăng ký cấp mới là 278 triệu USD; vốn tăng thêm là 288 triệu USD). Lũy kế từ đầu năm đến 20 tháng 3 năm 2005, số vốn cấp mới và tăng thêm đạt 1.732 triệu USD, tăng 142 % so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 43,6%); trong đó vốn đầu tư đăng ký mới là 1.310 triệu USD với 109 dự án được cấp giấy phép đầu tư, tăng 212% về vốn đăng ký và giảm 9% về số dự án so với cùng kỳ năm trước, vốn tăng thêm là 422 triệu USD với 72 lượt dự án tăng vốn, tăng 43% về vốn và tăng 148% về số dự án so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ước đạt 692 triệu USD, tăng khoảng 7% so với cùng kỳ năm trước.
5. Về thu chi ngân sách, tiền tệ, giá cả
Thu ngân sách nhà nước đạt khá, quý I ước đạt 47.305 tỷ đồng, bằng 25,8% dự toán năm, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó, thu nội địa ước đạt 27.139 tỷ đồng, bằng 25,8% dự toán năm (cùng kỳ năm trước là 23,5%). Trong đó, thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều đạt mức cao, tương ứng là 5.124 tỷ đồng và 4.357 tỷ đồng, tương đương 28,5% và 27,6% dự toán năm, xấp xỉ tiến độ thu cùng kỳ năm 2004 (là 28,8% và 26,4%). Tiến độ thu từ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh thấp hơn, chỉ đạt 23,7% dự toán năm nhưng vẫn cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2004 là 20,2%).
Thu dầu thô ước đạt 10.621 tỷ đồng, tăng 53,7% so với cùng kỳ, bằng 28% dự toán năm, (cùng kỳ 2004 là 26,8%). Thu dầu thô tăng là do giá dầu thô xuất khẩu từ đầu năm liên tục giữ ở mức cao, mức giá bình quân tháng 3 lên đến trên 322 USD/tấn, tăng 58 USD/tấn so với giá xây dựng dự toán và cao hơn mức bình quân của cùng kỳ (mức giá bình quân cùng kỳ năm trước là 238 USD/tấn).
Thu từ xuất nhập khẩu đạt 9.145 tỷ đồng, bằng 24,3% dự toán năm, cao hơn so với cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ năm 2004 đạt 20,6% dự toán năm).
Chi ngân sách nhà nước quý I/2005 ước đạt 51.827 tỷ đồng, tăng 19,8% so với cùng kỳ, bằng 22,6% dự toán năm. Các khoản chi chủ yếu tập trung cho sự nghiệp kinh tế-xã hội, với tổng mức thực hiện ước đạt 25.286 tỷ đồng, bằng 25% dự toán (cùng kỳ đạt 24,6%). Chi đầu tư phát triển ước đạt 14.314 tỷ đồng, bằng 21,7% dự toán năm. Tiến độ chi đầu tư phát triển 3 tháng đầu năm 2005 khá hơn so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2004 đạt 16,6% dự toán). Chi trả nợ và viện trợ đạt 8.879 tỷ đồng, bằng 25,5% dự toán năm, đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ nợ của Chính phủ.
Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 4.522 tỷ đồng, bằng gần 12% dự toán năm.
Hoạt động tiền tệ diễn biến thuận lợi: Tổng phương tiện thanh toán đến 31 tháng 3 năm 2005 ước đạt 610 nghìn tỷ đồng, tăng 0,96% so với tháng 2 năm 2005, tăng 5,61% so với cuối năm 2004 (cùng kỳ tăng 3,5%), và tăng 22,31% so với tháng 3 năm 2004. Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tính đến cuối tháng 3 năm 2005 tăng 9,36% so với tháng 12 năm 2004 và giảm 0,34% so với tháng 2 năm 2005.
Tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến 31/3/2005 ước đạt 464 nghìn tỷ đồng, tăng 4,48% so với cuối năm 2004 và tăng 22,44% so với cùng kỳ năm trước; trong đó tiền gửi VNĐ ước đạt 325.000 tỷ đồng, tăng 3,83% so với cuối năm 2004 và tăng 21,69% so với cùng kỳ năm trước; tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 139 nghìn tỷ đồng, tăng 6,03% so với cuối năm 2004 và tăng 24,25% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng dư nợ cho vay toàn nền kinh tế đến 31/3/2005 ước đạt 485.300 tỷ đồng, tăng 5,19% so với cuối năm 2004 và tăng 25,22% so với cùng kỳ năm 2004. Trong đó dư nợ cho vay bằng VNĐ ước đạt 368.500 tỷ đồng, tăng 5,15% so với cuối năm 2004 và tăng 22,35% so với cùng kỳ. Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ ước đạt 116.800 tỷ đồng, tăng 5,34% so với cuối năm 2004 và tăng 35,22% so với cùng kỳ.
Chỉ số giá tiêu dùng sau hai tháng tăng khá cao, tháng 3/2005 chỉ số giá đã tăng chậm lại với mức tăng 0,1% (tháng 3 năm 2004 tăng 0,8%), trong đó mặt hàng lương thực thực phẩm tăng 0,2% (lương thực tăng 1%, thực phẩm không tăng...); các mặt hàng nhà ở, vật liệu xây dựng và dược phẩm, y tế tăng 0,3 - 0,4%; các mặt hàng thiết bị, đồ dùng gia đình và giáo dục tăng khoảng 0,1 - 0,2%; các mặt hàng khác chỉ số giá đều giảm, trong đó chỉ số giá nhóm hàng văn hoá, thể thao, giải trí giảm nhiều nhất là 0,6%; nhóm hàng đồ dùng và dịch vụ khác giảm 0,5%; các nhóm hàng đồ uống và thuốc lá, may mặc, mũ nón, giầy dép và phương tiện đi lại, bưu điện giảm từ 0,2 đến 0,3%. Chỉ số giá vàng tăng 2%, chỉ số giá đô la Mỹ không thay đổi.
Tính chung quý I năm 2005 chỉ số giá tăng 3,7%, thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ năm 2004 tăng 4,9%); trong đó nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng 6,1%; nhóm hàng đồ uống và thuốc lá tăng 2,3%; nhóm hàng đồ dùng và dịch vụ khác tăng 2%; nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình và nhóm hàng văn hoá, thể thao, giải trí tăng 1,4%; các nhóm hàng may mặc, mũ nón, giầy dép, nhà ở và vật liệu xây dựng, dược phẩm, y tế tăng khoảng 1 đến 1,1%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 0,8%; thấp nhất là nhóm hàng giáo dục chỉ tăng 0,2%. Giá vàng giảm 1,9%, giá đô la Mỹ tăng 0,1%.
6. Về Giáo dục đào tạo.
Ngành giáo dục đang tích cực chuẩn bị cho công tác thi tốt nghiệp phổ thông các cấp năm học 2004-2005, thi tuyển sinh đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp năm 2005. Trong tháng 3 đã ban hành sách hướng dẫn tuyển sinh đại học năm 2005, phục vụ công tác tuyển sinh đại học và cao đẳng năm 2005.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang cùng các địa phương tiếp tục thực hiện Chương trình Xoá phòng học 3 ca, kiên cố hoá trường, lớp học. Số phòng học đã hoàn thành đưa vào sử dụng là 29.862 phòng và đang triển khai xây dựng 8.837 phòng học. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã rà soát lại tổng số phòng học cần xây dựng, xác định lại tổng số phòng học 3 ca, phòng học tạm thời tranh tre nứa lá và phòng học cấp 4 xuống cấp. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan tổ chức kiểm tra tại chân công trình để xác định đơn giá và kiến nghị mức giá mới trình Chính phủ.
7. Về giải quyết việc làm và cứu trợ xã hội
Số người được giải quyết việc làm trong quí I/2005 ước đạt 30 vạn lao động (tăng 5 vạn người so với cùng kỳ), bằng 18,7% kế hoạch; trong đó, khoảng trên 7 nghìn lao động đi xuất khẩu (chủ yếu là sang Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc, Nhật Bản...).
Cứu trợ xã hội: Hạn hán, mưa lũ đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân dân các tỉnh Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai, Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Quảng Bình, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị. Đến nay, có khoảng hơn 900 nghìn người bị thiếu đói từ 1-3 tháng, nặng nhất là các tỉnh Đắc Lắc: 175 nghìn người; Quảng Trị: 129,5 nghìn người; Thừa Thiên-Huế: 85,75 nghìn người; Quảng Ngãi: 84 nghìn người; Gia Lai: 83 nghìn người. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã triển khai phương án hỗ trợ lương thực cứu đói cho nhân dân với thời gian cứu đói tối đa là 3 tháng, định mức 10kg gạo tháng/người. Đến nay, nhiều địa phương đã chủ động hỗ trợ lương thực cứu đói cho dân theo định mức nêu trên.
8. Về Y tế
Công tác phòng chống dịch bệnh tiếp tục được đẩy mạnh. Ngành Y tế đã tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp cấp bách phòng chống dịch cúm A (H5N1) trên người theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan trong việc phòng chống dịch cúm gia cầm. Do thực hiện các biện pháp tích cực chủ động phòng chống dịch nên đã không để xảy ra dịch cúm A ở người trên diện rộng; tiếp tục tăng cường giám sát, cảnh giác với dịch SARS, các dịch bệnh mùa Đông-Xuân và phòng chống HIV/AIDS; duy trì công tác kiểm dịch y tế biên giới tại các cửa khẩu biên giới, sân bay, hải cảng để giám sát khách đến, nhất là khách đến từ các vùng có dịch SARS cũ và các nước có dịch cúm H5N1; triển khai các hoạt động sức khỏe -môi trường và sức khỏe lao động, sức khỏe trường học, phòng chống tai nạn thương tích; hoạt động bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Hệ thống khám chữa bệnh đã đáp ứng tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; tình hình quá tải giường bệnh và cường độ làm việc, tiếp nhận, cấp cứu điều trị bệnh nhân, nhất là cấp cứu do tai nạn giao thông vẫn là gánh nặng lớn, diễn ra hàng ngày đối với nhiều bệnh viện Trung ương và một số bệnh viện tỉnh, thành phố.
Trong tháng 3 có 7 trường hợp mắc mới dịch cúm H5N1, trong đó có 1 trường hợp tử vong. Tính từ ngày 16/12/2004 đến nay (đợt dịch lần thứ 3) cả nước có 24 trường hợp mắc bệnh tại 11 tỉnh, thành phố, trong đó có 13 trường hợp tử vong, 8 ca ra viện, 3 ca điều trị. Nhìn chung, tình hình dịch cúm gia cầm và dịch cúm A (H5N1) ở người vẫn còn diễn biến phức tạp, nhất là tại tỉnh Thái Bình.
Về an toàn vệ sinh thực phẩm: Ngành Y tế cùng các ngành hữu quan tăng cường công tác kiểm tra tình hình tiêu thụ thịt gia cầm và vệ sinh an toàn thực phẩm trong dịp Tết. Từ 18/02/2005 đến 18/03/2005 đã xảy ra 7 vụ ngộ độc thực phẩm với 221 người mắc, có 04 ca tử vong. Từ đầu năm đến ngày 18/03/2005 có 917 người bị ngộ độc thực phẩm, trong đó có 08 ca tử vong.
9. Hoạt động Văn hóa - Thông tin
Nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ được tổ chức chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn. Các cơ quan thông tin đại chúng kịp thời tuyên truyền chủ trương, đương lối chính sách của Đảng; tiếp tục tăng cường tuyên truyền về an toàn giao thông, phòng chống ma túy, AIDS; tăng thời lượng chương trình khoa học, giáo dục tới vùng đồng bào nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt trong tháng 3, các đài phát thanh truyền hình đã tập trung phản ánh các hoạt động kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong quý I, ngành Văn hóa Thông tin đã tiến hành thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm trong ngành; nhắc nhở một số cơ quan báo chí rút kinh nghiệm trong khai thác các tin, bài chưa đúng với quy định.
Về thể dục thể thao, ngành thể dục thể thao đã phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai các nội dung phát triển thể dục thể thao quần chúng năm 2005. Tổ chức một số giải thi đấu toàn quốc như: Giải điền kinh việt giã Báo Tiền phong tại Lâm Đồng; giải vô địch Wushu toàn quốc tại Hà Nội; giải đua xe đạp Cup Truyền hình Hà Nội; giải bóng chuyền các đội mạnh toàn quốc,...Tiếp tục chỉ đạo các Trung tâm huấn luyện thể thao Quốc gia triển khai kế hoạch tập huấn các đội tuyển quốc gia, chuẩn bị cho Seagames 23 năm 2005 tại Philipin và các giải thể thao trong năm.
10. Tình hình tai nạn giao thông, công tác an toàn giao thông chưa có chuyển biến tích cực:
Trong tháng 2 đã xảy ra 1.607 vụ tai nạn giao thông làm chết 1.190 người và bị thương 1.410 người, tuy tất cả các chỉ số trên giảm so với tháng 2/2004 nhưng so với tháng trước tăng 261 vụ, tăng 178 người chết và 218 người bị thương. Nguyên nhân của tình hình trên chủ yếu do ý thức của người tham gia giao thông chưa được nâng cao, đi trái phần đường, không làm chủ tốc độ; tình trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, hành lang bảo vệ công trình giao thông ở nhiều địa phương còn tương đối phổ biến và chưa được xử lý nghiêm.
II. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI PHÂN BỔ VÀ GIAO KẾ HOẠCH VỐN ĐẦU TƯ CỦA CÁC BỘ, NGÀNH VÀ ĐỊA PHƯƠNG
1. Những mặt được trong phân bổ và giao kế hoạch của các Bộ, ngành và địa phương
Do công tác chuẩn bị kế hoạch năm 2005 tương đối kỹ ở cấp cơ sở và hệ thống chỉ tiêu kế hoạch rõ ràng nên việc phân bổ kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005 của các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động, thuận lợi và nhanh gọn hơn những năm trước đây.
Tính đến ngày 25 tháng 3 năm 2005 có 63/84 Bộ, ngành và 62/64 tỉnh, thành phố đã triển khai phân bổ vốn đầu tư cho các công trình, dự án, giao cho các đơn vị cơ sở thực hiện. Một số Bộ có khối lượng vốn đầu tư từ ngân sách lớn như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã sớm triển khai giao kế hoạch trong tháng 12 năm 2004 để các đơn vị cơ sở có điều kiện chủ động triển khai thực hiện.
Đến nay còn 21 đơn vị thuộc trung ương quản lý (chủ yếu là các đơn vị có vốn đầu tư nhỏ) và 2 tỉnh là Hà Giang và Tuyên Quang (chưa được UBND tỉnh thông qua) chưa gửi đăng ký triển khai kế hoạch.
Qua đăng ký triển khai kế hoạch vốn đầu tư các Bộ, ngành, địa phương cơ bản đã chấp hành Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, đã bố trí đúng mục tiêu, đúng cơ cấu ngành, cơ cấu nguồn vốn được giao kế hoạch.
Thực hiện chỉ thị 29/2003/CT-TTg ngày 23 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ các Bộ, ngành, địa phương đã bố trí vốn đầu tư tập trung hơn so với các năm trước đây; một số Bộ, ngành, tỉnh, thành phố đã hạn chế việc khởi công mới các công trình, dự án, tập trung vốn cho các dự án chuyển tiếp, các dự án hoàn thành trong năm 2005.
Quy mô vốn đầu tư bố trí cho một dự án cao hơn năm 2004, bình quân 1 dự án do Trung ương quản lý là 6,8 tỷ đồng (năm 2004 là 5,55 tỷ đồng), trong đó các dự án nhóm A là 91,4 tỷ đồng/dự án, nhóm B là 7,25 tỷ đồng/dự án, nhóm C là 1,27 tỷ đồng/dự án; bình quân 1 dự án do các tỉnh, thành phố quản lý là 2,87 tỷ đồng/dự án, trong đó dự án nhóm A là 66 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 60,72 tỷ đồng/dự án), dự án nhóm B là 5,64 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 4,08 tỷ đồng/dự án), dự án nhóm C là 1,94 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 1,43 tỷ đồng/dự án).
Các tỉnh miền núi và các tỉnh có nguồn thu thấp các năm trước đây bố trí dàn trải, bình quân vốn một dự án thấp, năm 2005 bố trí vốn tập trung hơn, bình quân vốn bố trí cho một dự án cao hơn năm 20041.
Tổng hợp từ báo cáo phân bổ vốn đầu tư cho các công trình, dự án trong đăng ký kế hoạch của các Bộ, ngành, địa phương, số dự án đầu tư năm 2005 tính đến ngày 25/3/2005 là 11.793 dự án (năm 2004 là 12.355 dự án), trong đó có 141 dự án nhóm A, 2.268 dự án nhóm B và 9.384 dự án nhóm C. So với năm 2004, giảm 562 dự án, trong khi nguồn vốn đầu tư từ ngân sách năm 2005 tăng khoảng 25%. Đây là cố gắng lớn của Bộ, ngành, địa phương trong việc bố trí vốn tập trung hơn2.
- Số dự án hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2005 cao hơn năm 2004. Tổng số công trình dự kiến hoàn thành năm 2005 là 4.259 công trình (năm 2004 là 3.640 công trình), trong đó: các Bộ, ngành Trung ương quản lý 992 công trình (năm 2004 là 980 công trình); các tỉnh, thành phố khoảng 3.267 công trình (năm 2004 là 2.660 công trình).
- Việc chấp hành các thủ tục đầu tư và xây dựng được thực hiện tốt hơn so với các năm trước đây, hầu hết các dự án bố trí trong kế hoạch năm 2005 đều có quyết định đầu tư và các thủ tục đầu tư khác theo quy định của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.
- Chấp hành các Nghị quyết của Chính phủ, các địa phương đã có cố gắng dành một phần vốn của kế hoạch năm 2005 để thanh toán một phần nợ xây dựng cơ bản của các năm trước. Chiếm từ 5-35% vốn được phân bổ. Số vốn đã cân đối để thanh toán nợ khối lượng xây dựng cơ bản từ năm 2003 trở về trước là 3.544 tỷ đồng.
Đặc biệt đối với các dự án nhóm C đã được bố trí vốn tập trung như tỉnh Hoà Bình là 1,23 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 0,46 tỷ đồng/dự án), Lai Châu 3,38 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 0,54 tỷ đồng/dự án), Quảng Nam 2,69 tỷ đồng (năm 2004 là 0,63 tỷ đồng/dự án), Lạng Sơn 1,45 tỷ đồng (năm 2004 là 0,77 tỷ đồng/dự án), Đăk Lắc 0,97 tỷ đồng (năm 2004 là 0,5 tỷ đồng/dự án).
2. Một số tồn tại trong phân bổ và giao kế hoạch vốn đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương.
Bố trí kế hoạch phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành, địa phương năm 2005 đã có một số tiến bộ so với năm 2004. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại:
Một số Bộ, ngành, địa phương bố trí vốn đầu tư chưa thật tập trung, số dự án nhóm B, C bố trí trong kế hoạch 2005 vẫn còn nhiều, đặc biệt là các dự án nhóm C[1].
Một số Bộ, ngành, tỉnh, thành phố vẫn chưa chấp hành triệt để các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, bố trí vốn đầu tư cho các dự án chưa có quyết định đầu tư, chưa có thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán. Các dự án nhóm B có thời gian hoàn thành vượt quá 4 năm, các dự án nhóm C có thời gian hoàn thành vượt quá 2 năm vẫn được bố trí danh mục và vốn đầu tư. Tổng hợp chung các Bộ, ngành Trung ương còn 16 dự án chưa có quyết định đầu tư với tổng số vốn là 87 tỷ đồng (Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn); 101 dự án chưa có thiết kế dự toán với tổng số vốn là 687,1 tỷ đồng, (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài nguyên và Môi trường); 289 dự án nhóm B bố trí vốn đầu tư đã vượt quá 4 năm (trong đó: các Bộ, ngành có 69 dự án; các tỉnh, thành phố 220 dự án); 1.018 dự án nhóm C bố trí vốn đầu tư đã vượt quá 2 năm (trong đó: các Bộ, ngành có 84 dự án; các tỉnh, thành phố 934 dự án).
Nhiều tỉnh, thành phố (21 đơn vị) giao khối lượng vốn đầu tư cho các đơn vị thực hiện cao hơn mức vốn kế hoạch đã giao từ 7% đến 245% (chủ yếu từ nguồn thu từ sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu, trái phiếu đô thị...) có khả năng chưa phù hợp với thực tế nguồn thu của các địa phương tiềm ẩn khả năng tăng nợ XDCB những năm tới. Một số tỉnh đã triển khai kế hoạch cao hơn mức vốn được giao: tỉnh Phú Yên bằng 245% so với kế hoạch Trung ương giao; Đà Nẵng 229%; Cần Thơ 194,7%; Tiền Giang 177,7%; Bình Định 180,3%; Ninh Bình 124%; Hưng Yên 122,6%...
Có một số tỉnh giao chưa hết hoặc chưa giao vốn đầu tư có mục tiêu (Trung ương/địa phương): Sơn La, Hà Tây, Hà Tĩnh…
Về cơ cấu đầu tư: phần lớn các tỉnh, thành phố đều giao đúng theo kế hoạch Trung ương giao theo cơ cấu giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Tuy nhiên, còn 22 tỉnh, thành phố giao thấp hơn kế hoạch Trung ương giao, hoặc điều chuyển vốn cho ngành, lĩnh vực khác như: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Yên Bái, Lai Châu, Hải Dương, Thừa Thiên -Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Đồng Nai, Bình Phước...
Các địa phương vẫn còn khởi công mới nhiều dự án trong năm 2005, số dự án khởi công mới là 2372 dự án, trong đó: nhóm B là 354 dự án, nhóm C là 2018 dự án. Dự án nhóm B quá 4 năm và nhóm C quá 2 năm còn nhiều. Tổng hợp từ 61 tỉnh, thành phố có báo cáo về vấn đề này thì có tới 1154 dự án vượt thời hạn quy định (nhóm B là 220 dự án, nhóm C là 934 dự án). Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng có số dự án cao nhất 374 dự án (12 tỉnh) chiếm 32,4%; vùng Miền núi phía Bắc có 323 dự án (mới có 12/14 tỉnh) chiếm 28,0%; vùng Đồng bằng sông Cửu Long 154 dự án, chiếm 13,2%.
Nhiều địa phương có khối lượng nợ tồn đọng lớn nhưng chưa bố trí thoả đáng trong kế hoạch 2005 để trả nợ, như: Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Sơn La, Lai Châu, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Ninh Thuận, Bến Tre, Trà Vinh,...
III. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN TẬP TRUNG CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI
Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2005 là 8,5%, nhiệm vụ còn lại của các quý hết sức nặng nề, để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã được Quốc hội thông qua, trong 3 quý còn lại phải có mức tăng trưởng 9%, do vậy, đòi hỏi phải có những biện pháp chỉ đạo mạnh mẽ của Chính phủ và sự phấn đấu cao của các ngành, các cấp. Cùng với việc khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết 01/2005/NQ-CP của Chính phủ, trong các tháng tới cần tập trung chỉ đạo giải quyết các việc chủ yếu sau:
Một là, nhanh chóng triển khai kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước theo tinh thần Nghị quyết 36/2004/QH11 và Nghị quyết 01/2005/NQ-CP của Chính phủ:
(1) Tiếp tục thực hiện chỉ thị 29/2003/CT-TTg, ngày 23/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề sau:
- Các Bộ ngành và địa phương khẩn trương rà soát, cập nhật, bổ sung và điều chỉnh các quy hoạch được duyệt, định hướng cho việc triển khai các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư của các doanh nghiệp, tư nhân, đầu tư nước ngoài.
- Các Bộ, ngành và địa phương rà soát tổng thể kế hoạch phân bổ vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước cho các công trình, dự án. Những đơn vị bố trí sai cơ cấu vốn, nhất là vốn hỗ trợ theo mục tiêu; các đơn vị bố trí vượt quá số vốn được giao; các đơn vị không bố trí vốn để thanh toán nợ xây dựng cơ bản của các năm trước, cần được sắp xếp bố trí lại theo đúng quy định.
- Các Bộ ngành và địa phương thực hiện công khai các công trình, dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Tiếp tục rà soát sắp xếp các dự án đầu tư đã ghi trong kế hoạch triển khai theo hướng:
Trong tháng 4, rà soát về thủ tục đầu tư của tất cả các dự án: những dự án đầu tư sai quy hoạch; những dự án phê duyệt và điều chỉnh dự án không đúng thẩm quyền, phê duyệt sai về nội dung theo quy định; những dự án kém hiệu quả; những dự án có suất vốn đầu tư cao,... cần phải có báo cáo giám sát đầu tư, trình cấp có thẩm quyền xem xét và có biện pháp xử lý.
Loại bỏ, không đưa vào kế hoạch triển khai năm 2005 những dự án chưa có quyết định đầu tư. Các dự án mới có quyết định đầu tư nhưng chưa có thiết kế kỹ thuật được phê duyệt thì chỉ bố trí đủ vốn để làm công tác chuẩn bị thực hiện dự án.
(2). Bộ Tài chính không thông báo và không cấp phát vốn cho những công trình, dự án chưa có đủ các thủ tục đầu tư theo quy định.
(3) Về công tác giám sát đầu tư của cộng đồng: Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng nhằm kịp thời phát hiện những việc làm xâm hại đến lợi ích của cộng đồng; gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư; không tuân thủ các quy trình, quy phạm kỹ thuật; việc chấp hành các quy định của chủ đầu tư về sử dụng đất đai, quy hoạch mặt bằng, bảo vệ môi trường, giải phóng mặt bằng, tái định cư...
(4) Tăng cường công tác thanh tra kế hoạch đầu tư: ngay trong quý I và quý II năm 2005, Thanh tra Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra công tác quản lý đầu tư, xây dựng ở một số công trình quan trọng thuộc nguồn vốn nhà nước, tập trung vào các công trình dự án giao thông, thuỷ lợi quan trọng nhằm rút ra những kết luận về công tác quản lý đầu tư và xây dựng của các Bộ, ngành và địa phương.
Hai là, triển khai thực hiện các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là sản xuất công nghiệp.
(1) Các Bộ, ngành và đơn vị sản xuất khẩn trương rà soát lại các loại phí, lệ phí đang áp dụng để bãi bỏ các loại phí không cần thiết. Giảm hợp lý một số loại chi phí đầu vào như viễn thông, dịch vụ cảng biển, sân bay... bằng hoặc thấp hơn các nước trong khu vực để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Cải tiến trình tự thủ tục thu phí và lệ phí nhằm giảm bớt thời gian chờ đợi lãng phí của doanh nghiệp.
Đối với các nhóm sản phẩm nông, công nghiệp chế biến, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước có chất lượng tương đương, nhưng giá rẻ hơn để sản xuất cho tiêu dùng và xuất khẩu, nâng cao giá trị gia công các mặt hàng xuất khẩu. Tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm, mở rộng thị trường trong và ngoài nước để thúc đẩy sản xuất công nghiệp.
Bộ Công nghiệp chỉ đạo Tổng công ty Dầu khí thúc đẩy khai thác dầu thô hợp lý, phát triển thị trường để đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm công nghiệp quan trọng: thép, điện, xi măng, hàng dệt may. Bộ Xây dựng chỉ đạo đưa nhanh các nhà máy xi măng đang xây dựng vào sản xuất, giảm nhập Clinke.
Đẩy mạnh quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh việc cổ phần hóa và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý. Các Chủ tịch ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ tìm mọi biện pháp để thúc đẩy công nghiệp địa phương phát triển.
(2) Tìm các biện pháp hữu hiệu phòng chống thiên tai, khắc phục hậu quả hạn hán và những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp.
- Tuy đã có mưa một số nơi, nhưng tình hình khô hạn có thể diễn ra gay gắt hơn trong thời gian tới, đặc biệt các tỉnh Nam Bộ và Tây Nguyên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ đạo các địa phương nhanh chóng tiến hành kiểm tra, đánh giá lại nguồn nước; xây dựng phương án bảo đảm nguồn nước cho từng vùng và sử dụng nước tiết kiệm, hợp lý; đồng thời hướng dẫn nông dân những vùng không cân đối đủ nước tưới bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng để vừa đảm bảo được an ninh lương thực, xuất khẩu gạo vừa làm tăng thu nhập sản xuất nông nghiệp.
- Hiện nay nguy cơ cháy rừng đang ở cấp cực kỳ nguy hiểm ở nhiều nơi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với các địa phương ở những vùng có rừng đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ phòng cháy, chống cháy rừng. Đồng thời tăng cường đầu tư các điều kiện vật chất nhằm kịp thời ứng phó nhanh nhất khi xảy ra cháy rừng.
- Khẩn trương khôi phục và phát triển đàn gia cầm. Tiếp tục công tác khử trùng, tiêu độc, tạo môi trường sạch để phòng ngừa dịch tái phát, sớm chấm dứt dịch bệnh, đồng thời bảo đảm cung cấp đủ lượng con giống gia cầm sạch cho thị trường.
- Các tỉnh phía Bắc đang bước vào mùa mưa, bão, cần xây dựng ngay các phương án phòng chống bão lụt, củng cố bồi trúc đê điều ở những nơi xung yếu, nhất là các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng.
- Chú trọng phát triển mạnh hơn nữa các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ vận tải, du lịch, cần chú ý nâng cao chất lượng phục vụ.
Ba là, chỉ đạo ráo riết việc thực hiện các giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu.
Mặc dù quý I/2005, xuất khẩu tăng cao, nhưng để đạt được mục tiêu xuất khẩu cả năm là 30,7 tỷ USD, tăng 16% như Nghị quyết của Quốc hội thì kim ngạch xuất khẩu bình quân các tháng còn lại trong năm phải đạt trung bình 2,6 tỷ USD/tháng; đây là mục tiêu rất cao, đòi hỏi cần tăng cường công tác điều hành kế hoạch xuất khẩu hàng tháng, tìm ra những giải pháp hữu hiệu hơn nhằm đẩy nhanh xuất khẩu một số mặt hàng còn có khả năng tăng nhanh và có thị trường.
Tăng cường hơn nữa trong công tác xúc tiến thương mại, mở rộng các thị trường truyền thống, đồng thời tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, đặc biệt quan tâm các thị trường lớn. Hiện nay nhu cầu đối với mặt hàng thuỷ sản ở nhiều thị trường đang tăng cao (Nhật Bản, Trung Quốc), Bộ Thuỷ sản phối hợp với Hiệp hội Thuỷ sản và các địa phương đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này.
Chú trọng việc xuất khẩu mặt hàng dệt may vào thị trường EU, thị trường Mỹ.
Khuyến khích đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng, nhất là các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong việc xây dựng và đăng ký thương hiệu hàng hoá trên các phương tiện thông tin đại chúng. Kịp thời cung cấp thông tin về giá cả, thị trường trong và ngoài nước đến các doanh nghiệp.
Bốn là, đẩy mạnh huy động các nguồn vốn đầu tư, nhất là nguồn vốn của dân cư.
(1) Tập trung tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. Kịp thời xử lý các vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp. Khẩn trương rà soát, loại bỏ những thủ tục không cần thiết, trước hết trong các khâu về mặt bằng sản xuất, thuế, hải quan, hàng hoá xuất nhập khẩu, phân bổ hạn ngạch và lưu thông hàng hoá trong nước.
Tiếp tục huy động vốn cho đầu tư phát triển thông qua việc đẩy mạnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị.
(2) Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan thúc đẩy nhanh việc hình thành và triển khai các dự án lớn, trọng điểm đang xin chủ trương đầu tư.
Khẩn trương điều chỉnh quy hoạch ngành và hoàn chỉnh danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài trình Chính phủ trước tháng 6/2005 làm cơ sở cho việc xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các địa phương tiến hành rà soát các dự án đã được cấp phép, thúc đẩy triển khai theo tinh thần Nghị quyết 09 và chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ.
Chính phủ sớm ban hành chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp tạo chuyển biến mới trong thu hút đầu tư nước ngoài; quyết định về mở rộng phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài.
Đẩy nhanh việc áp dụng cơ chế một giá giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Xây dựng cơ chế phối hợp, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến đầu tư đối với các địa phương. Chính phủ sớm cho phép thành lập các Văn phòng xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm (Tây Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ).
- Thực hiện các giải pháp nhằm tăng khả năng giải ngân vốn ODA, tập trung vào các nội dung chính: các chủ dự án phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong công tác giải phóng mặt bằng; triển khai hài hoà thủ tục ODA, các vấn đề liên quan đến đấu thầu, kế hoạch giải ngân, hệ thống báo cáo và đánh giá dự án; nâng cao năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các ban quản lý dự án; đẩy mạnh chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho các Ban Quản lý dự án; đơn giản hoá các thủ tục phê duyệt thiết kế chi tiết, tổng dự toán.
(3) Xây dựng và ban hành quy chế quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành liên quan trình Chính phủ Nghị định để Chính phủ ban hành Quy chế quản lý đầu tư, sử dụng vốn nhà nước. Trong đó, cần bổ sung một số nội dung sau:
Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước, yêu cầu về công tác quản lý vĩ mô, theo đó Nhà nước quản lý về đầu tư bằng việc tạo khung khổ pháp lý, các tiêu chuẩn, tiêu chí về đầu tư. Tăng cường việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình đầu tư.
Bổ sung các quy định khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý đầu tư như hiện nay, xây dựng lộ trình loại bỏ dần tình trạng khép kín trong đầu tư và xây dựng. Tách chức năng quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng với quản lý kinh doanh trong tất cả các khâu.
Bổ sung các chế tài, quy định rõ điều kiện, tiêu chuẩn của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, trách nhiệm toàn diện của chủ đầu tư đối với hiệu quả đầu tư. Quy định rõ trách nhiệm của người ra quyết định đầu tư, ban quản lý dự án, tổ chức, cá nhân tư vấn thiết kế, giám sát thi công, nhà thầu khi tham gia xây dựng công trình. Tăng cường trách nhiệm và xử lý các sai phạm trong quản lý đầu tư; ngăn chặn thất thoát, lãng phí trong đầu tư. Đồng thời, động viên, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt quy chế đầu tư và hoạt động đầu tư có hiệu quả.
Kịp thời hướng dẫn thi hành Nghị định số16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình để sớm vận dụng trong thực tế.
Năm là, tiếp tục kiềm chế việc tăng giá cả trong thời gian tới, phấn đấu giữ tỷ lệ lạm phát trong mức nhà nước có thể khống chế được.
Chỉ số giá tháng 3 tuy giảm thấp so với 2 tháng trước đó nhưng chưa vững chắc, nhiều mặt hàng cả trong và ngoài nước đang tăng hoặc có xu hướng tăng giá (sắt thép, xi măng, xăng dầu...) sẽ tác động xấu tới sản xuất trong nước. Cần tăng cường thu thập, phân tích thông tin, dự báo sự tác động dây chuyền của việc tăng giá của những sản phẩm có tác động lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân để chủ động xây dựng biện pháp xử lý.
Củng cố và phát triển hệ thống phân phối trong nước. Các Tổng công ty lớn rà soát lại hệ thống khách hành, không bán khối lượng lớn sản phẩm cho các doanh nghiệp, cá nhân có khả năng thao túng thị trường, cũng như áp dụng nhiều biện pháp kiểm soát chặt chẽ giá bán trên thị trường.
Tiếp tục thực hiện tốt chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu, tổ chức tốt hệ thống đại lý, gắn đại lý và các nhà sản xuất, các nhà phân phối lớn để bảo đảm kiểm soát được giá.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, chống đầu cơ, đẩy giá thị trường lên cao.
Sáu là, thực hiện các biện pháp kiềm chế tai nạn giao thông.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 13/2002/NQ-CP của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông nhằm lập lại trật tự kỷ cương, trật tự an toàn giao thông.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát của lực lượng cảnh sát giao thông, kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm về tốc độ, uống rượu say vẫn tham gia giao thông; ô tô không bảo đảm kỹ thuật, không có giấy phép lái xe. Nâng cao ý thức của người tham gia giao thông. Bộ Giao thông vận tải cần đẩy mạnh công tác đăng kiểm, kiên quyết ngăn chặn tình trạng xe quá niên hạn sử dụng vẫn tham gia vào giao thông
Khẩn trương sửa chữa, khắc phục những điểm giao thông ở các địa bàn phức tạp, dễ gây tai nạn.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
2 Những đơn vị có số dự án giảm nhiều so với năm 2004 là Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế, tỉnh Cao Bằng, Hoà Bình, Hải Phòng, Hưng Yên, Hà Tây, Bình Định, Kon Tum, Bình Dương, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang...
[1] Cụ thể: Bộ Tư pháp bố trí 444 dự án nhóm C (năm 2004 là 353 dự án), vốn đầu tư 117,3 tỷ đồng, bình quân 0,264 tỷ đồng/dự án; Toà án nhân dân tối cao bố trí 305 dự án nhóm C (năm 2004 là 183 dự án), vốn đầu tư 202,8 tỷ đồng, bình quân 0,665 tỷ đồng/dự án; Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam bố trí 34 dự án nhóm C (năm 2004 là 169 dự án), vốn đầu tư 25,4 tỷ đồng, bình quân 0,75 tỷ đồng/dự án; tỉnh Thái Nguyên bố trí 194 dự án nhóm C (năm 2004 là 157 dự án), vốn đầu tư 47,9 tỷ đồng, bình quân 0,25 tỷ đồng/dự án; tỉnh Quảng Ninh bố trí 164 dự án nhóm C (năm 2004 là 135 dự án), vốn đầu tư 85,7 tỷ đồng, bình quân 0,52 tỷ đồng/dự án; tỉnh Hà Nam bố trí 101 dự án nhóm C (năm 2004 là 115 dự án), vốn đầu tư 34,1 tỷ đồng, bình quân 0,34 tỷ đồng/dự án; tỉnh Quảng Bình bố trí 194 dự án nhớm C (năm 2004 là 74 dự án), vốn đầu tư 161 tỷ đồng, bình quân 0,83 tỷ đồng/dự án; tỉnh Bình Thuận bố trí 214 dự án nhóm C (năm 2004 là 200 dự án), vốn đầu tư là 299 tỷ đồng, bình quân 1,4 tỷ đồng/dự án; tỉnh Đắc Nông bố trí 285 dự án nhóm C (năm 2004 là 85 dự án), vốn đầu tư là 326 tỷ đồng, bình quân 1,14 tỷ đồng/dự án; tỉnh Cần Thơ bố trí 285 dự án nhóm C (năm 2004 là 208 dự án), vốn đầu tư 267,3 tỷ đồng, bình quân 0,91 tỷ đồng/dự án; tỉnh Hậu Giang bố trí 208 dự án nhóm C (năm 2004 là 194 dự án), vốn đầu tư 273,9 tỷ đồng, bình quân 1,32 tỷ đồng/dự án.