Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2005
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 4 VÀ 4 THÁNG NĂM 2005
(Trích báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại cuộc họp thường kỳ tháng 4 năm 2005)
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ theo Nghị quyết số 04/2005/NQ-CP ngày 01/4/2005, trong tháng 4/2005, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức các hội nghị giao ban sản xuất công nghiệp; các Bộ, ngành và địa phương đã có nhiều cố gắng theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn vướng mắc để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, nhất là sản xuất của các ngành công nghiệp quan trọng như khai khoáng, thép, điện, xi măng, phân hoá học, dệt may..., đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước theo tinh thần Nghị quyết 36/2004/QH11 và Nghị quyết 01/2005/NQ-CP của Chính phủ, đẩy mạnh huy động các nguồn vốn đầu tư, tiếp tục kiềm chế việc tăng giá..., tình hình sản xuất kinh doanh trong tháng 4 đã có những chuyển biến tích cực so với các tháng đầu năm.
I. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, KINH DOANH, XUẤT NHẬP KHẨU
1. Về sản xuất, kinh doanh:
(1) Giá trị sản xuất công nghiệp trong tháng 4 tăng khá so với bình quân các tháng đầu năm, nhưng tính chung 4 tháng vẫn chưa đạt mức tăng trưởng bình quân đề ra trong kế hoạch năm.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 4 tăng khá cao, ước đạt 37,4 nghìn tỷ đồng (giá năm 1994), tăng 16,4% so với tháng 4 năm 2004, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 12,5% (Trung ương tăng 16,6%; địa phương tăng 3,8%); khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng 23,3% và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,7%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 15,1% so với cùng kỳ năm trước, tăng hơn so với mức tăng bình quân của 3 tháng đầu năm (3 tháng đầu năm chỉ tăng 14,4%), song vẫn thấp hơn kế hoạch đề ra (kế hoạch năm là 16%) và thấp hơn cùng kỳ (cùng kỳ tăng 15,4%). Khu vực kinh tế nhà nước tăng 9,9% (Trung ương tăng 11,8%, địa phương tăng 5,8%); khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng 24,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,1%.
Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng trưởng cao trong 4 tháng đầu năm là: than sạch khai thác tăng 27,1%, thuỷ sản chế biến tăng 19,4%, giấy bìa các loại 17,3%, xút NaOH 38%, phân hóa học 43,3%, thuốc viên các loại 22,1%, xe máy các loại 24,4%, ô tô các loại 26%, sản phẩm sứ vệ sinh 29,2%, gạch lát 17,7%, thép cán 17,1%, máy công cụ 18,3%, động cơ điện 21,8%, quạt điện dân dụng 62,5%...
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ nên có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng bình quân chung của toàn ngành là: khí đốt thiên nhiên tăng 3,4%, ga hóa lỏng tăng 1,2%, xi măng tăng 12,3%, điện phát ra tăng 12,7%, ắc quy tăng 8,7%, phân hoá học tăng 7,8%, thuốc trừ sâu tăng 12%, xà phòng các loại tăng 7,2%, gạch xây tăng 5,7%, quần áo dệt kim tăng 9,1%, quần áo may sẵn tăng 12,6%, bia tăng 8,1%, sữa hộp tăng 12,6%, bột ngọt tăng 9,9%, thuốc lá bao tăng 14,4%, tivi các loại tăng 7,6%.
Chỉ còn một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giảm so với cùng kỳ: dầu thô khai thác giảm 11,9%, đường mật các loại giảm 23%, thuốc ống các loại giảm 9,1%, động cơ diezen giảm 19,5%, xe đạp hoàn chỉnh giảm 22,6%.
Trong 4 tháng đầu năm 2005, hầu hết các địa phương có giá trị sản lượng công nghiệp lớn đều đã đạt được mức tăng trưởng công nghiệp cao so với cùng kỳ và cao hơn mức bình quân chung, điển hình là công nghiệp thành phố Hà Nội tăng 24,4%, Vĩnh Phúc tăng 46,2%, Hà Tây tăng 18,3%, Hải Dương tăng 18,2%, Phú Thọ tăng 17,3%, Quảng Ninh tăng 19,1%, Khánh Hòa tăng 15,9%, Bình Dương tăng 34,3%, Đồng Nai tăng 21,3%, Cần Thơ tăng 30,3%.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tỉnh có giá trị sản xuất công nghiệp tăng thấp so với mức bình quân như: Đà Nẵng 14,8%, Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ tăng 4,8%, Thanh Hoá 5,6%, thành phố Hồ Chí Minh 13%, Hải Phòng 15%...
(2) Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định mặc dù có khó khăn do hạn hán và dịch cúm gia cầm.
Thu hoạch lúa Đông Xuân và gieo cấy lúa Hè Thu ở miền Nam: Đến nay, các tỉnh đã thu hoạch được hơn 1,6 triệu ha lúa đông xuân, bằng 96,3% so với cùng kỳ và 90,6% diện tích gieo cấy. Riêng Đồng bằng sông Cửu Long cơ bản kết thúc thu hoạch, còn các vùng Đông Nam bộ thu hoạch đạt 81% diện tích gieo cấy, Duyên hải Nam Trung bộ đạt 44% và Tây Nguyên đạt 12%. Theo đánh giá ban đầu, diện tích lúa Đông Xuân của Đồng bằng sông Cửu Long tăng 5,6 nghìn ha, năng suất lúa Đông Xuân ước đạt 6 tấn/ha, tăng gần 2 tạ/ha so với năm 2004; sản lượng lúa ước đạt 8,8 triệu tấn, tăng trên 290 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân năm ngoái.
Tính đến ngày 15/4/2005, các địa phương đã gieo cấy được 760 nghìn ha lúa hè thu, bằng 108,3% so với cùng kỳ, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đạt 735 nghìn ha, bằng 112,2% so với cùng kỳ.
Ở các địa phương phía Bắc, thời tiết đang ấm, có mưa nhỏ, thuận lợi cho lúa Đông Xuân sinh trưởng và phát triển. Hiện các địa phương đang tập trung chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho lúa.
Các địa phương tiếp tục gieo trồng rau, màu và phát triển cây công nghiệp. Do hạn hán, nhiều địa phương phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng ưu tiên phát triển các loại cây không đòi hỏi nhiều nước. Các cây trồng chủ lực được ưu tiên phát triển trong chuyển đổi cơ cấu là ngô, đậu tương, rau, đậu và cỏ phục vụ chăn nuôi. Mặc dù gặp hạn hán nặng và việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng khó khăn nhưng các địa phương đều đã chủ động chuẩn bị đủ giống rau màu, cây công nghiệp để đảm bảo gieo trồng hết diện tích.
Tính đến ngày 15/4/2005 các địa phương đã gieo trồng được 700 nghìn ha màu lương thực, bằng 97,1% so với cùng kỳ, trong đó riêng ngô đạt 466,4 nghìn ha, bằng 107,3% so với cùng kỳ; cây công nghiệp ngắn ngày đạt 321,9 nghìn ha, bằng 103% so với cùng kỳ; rau đậu các loại đạt 389 nghìn ha, bằng 105,9% so với cùng kỳ.
Về chăn nuôi: trong tháng 4 dịch cúm gia cầm đã dịu lại, tính đến ngày 12/4/2005 chỉ còn hai tỉnh là Trà Vinh và Bến Tre chưa công bố hết dịch. Một số tỉnh đã có kế hoạch khôi phục nhanh đàn gia cầm sau dịch và có biện pháp mạnh để khống chế dịch quay trở lại. Tỉnh Bình Dương là một trong những tỉnh đi đầu trong việc khôi phục đàn gà, đến nay đã hơn 2 tháng không phát sinh thêm ổ dịch dịch cúm gia cầm mới trong tỉnh.
Về thuỷ sản: Thời tiết tháng 4 nhìn chung thuận tiện cho việc khai thác hải sản, nhất là khai thác cá ngừ ở các tỉnh miền Trung. Sản lượng khai thác tháng 4 ước đạt 155 nghìn tấn, luỹ kế 4 tháng đạt 582 nghìn tấn, bằng 33,26% kế hoạch năm và tăng 2,11% so với cùng kỳ.
Do hạn hán xảy ra trong phạm vi cả nước nên việc nuôi trồng thuỷ sản trong 4 tháng đầu năm gặp khó khăn, dịch bệnh phát triển. Sản lượng nuôi và khai thác nội địa tháng 4 ước đạt 150 nghìn tấn; tính chung 4 tháng đạt 475 nghìn tấn, bằng 30,6% kế hoạch năm, tăng 6,7% so với cùng kỳ. Hiện nay các địa phương đang tích cực thu hoạch cá nước ngọt phục vụ chủ yếu cho nhu cầu nội địa. Các hộ nuôi tôm sú đang cải tạo ao đầm để chuẩn bị xuống giống cho vụ nuôi tôm chính.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, trong đó những khó khăn chủ yếu là:
- Hạn hán vẫn diễn ra gay gắt: Mặc dù trong tháng 4 đã có mưa ở một số vùng nhưng do lượng mưa nhỏ, diện hẹp, cục bộ nên tình trạng khô hạn kéo dài tại nhiều địa phương trong cả nước từ cuối năm 2004 đến nay vẫn chưa được cải thiện. Tính chung 4 tháng đầu năm, lượng mưa tại nhiều địa phương thiếu hụt khoảng 30 - 60% so với trung bình nhiều năm. Các sông, suối, hồ chứa nhỏ đến nay vẫn trong tình trạng cạn kiệt; các hồ chứa lớn ở khu vực Nam Trung Bộ đã cạn dưới mực nước chết. Tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, do hạn hán kéo dài, nước mặn theo các sông tiến sâu vào đất liền ảnh hưởng tới hàng nghìn ha lúa, hoa màu, cây ăn quả, nhất là tại các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Đồng Tháp. Cũng do hạn hán kéo dài, ngoài thiếu nước cho sản xuất, việc cung cấp nước sinh hoạt cho người dân cũng là vấn đề gay gắt; nhiều nơi người dân đã phải mua nước để sử dụng.
- Cháy rừng vẫn còn lớn: Từ đầu mùa khô năm 2005 đến ngày 20/4, cả nước đã xảy ra 679 vụ cháy rừng (cả năm 2004 chỉ xảy ra 443 vụ) với tổng diện tích thiệt hại là 3.422 ha, tăng 10,1% so với cùng kỳ, trong đó chủ yếu là rừng trồng (3.085 ha). Nguyên nhân là trong mùa khô năm 2005 (tính từ tháng 10 năm trước đến tháng 5 năm sau), hạn hán xảy ra trên diện rộng trong toàn quốc nên nguy cơ cháy rừng rất cao, nhất là tại các tỉnh vùng Tây Nguyên, Ninh Thuận, Bình Thuận...Việc triển khai các giải pháp phòng cháy tại nhiều địa phương còn rất hạn chế và bị động; lực lượng chữa cháy chưa chuyên nghiệp, thiếu trang thiết bị (quân đội tham gia chữa cháy gồm hàng nghìn người nhưng phương tiện chủ yếu để dập lửa vẫn còn rất thô sơ); hiệu quả chữa cháy rất kém.
- Dịch cúm gia cầm vẫn còn tiềm ẩn nhiều khả năng tái phát: Trong tháng 4 trên địa bàn cả nước đã không phát sinh các ổ dịch cúm gia cầm mới, song chưa thể khẳng định là dịch cúm gia cầm có quay lại hay không; do đó các địa phương cần tiếp tục theo dõi để kịp thời xử lý. Trong 4 tháng đầu năm, dịch cúm gia cầm đã xuất hiện ở 670 xã tại 182 huyện thuộc 36 tỉnh thành. Bệnh đã xuất hiện ở tất cả các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nơi chăn nuôi thủy cầm rất phát triển. Đợt dịch năm nay xuất hiện nhiều ở vịt, gây thiệt hại trực tiếp không lớn do số gia cầm phải tiêu hủy ít, nhưng thiệt hại gián tiếp vẫn rất quan trọng, nhất là trong các khâu tiêu thụ, sản xuất thức ăn chăn nuôi gia cầm; ước tổng thiệt hại trong đợt dịch xảy ra từ tháng 12/2004 đến nay khoảng 700 tỷ đồng.
2. Lĩnh vực dịch vụ
Thương mại nội địa: Hoạt động thương mại trong tháng 4 tiếp tục sôi động; tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 4 ước đạt gần 34,9 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với tháng 3. Tính chung 4 tháng đầu năm, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ ước đạt 139,8 nghìn tỷ đồng, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2004 tăng 16,8%).
Về cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ đạt được trong tháng 4, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng 62,6%; đây là thành phần kinh tế đang phát triển rất năng động và ổn định, đặc biệt trong khâu thu gom và bán lẻ hàng hoá. Khu vực kinh tế cá thể chiếm tỷ trọng cao thứ hai, khoảng 20,4%. Khu vực kinh tế Nhà nước trong tháng 4 chỉ đạt 13,5% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ toàn nền kinh tế nhưng khu vực này vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá đồng thời đã góp phần quan trọng vào việc duy trì sự phát triển ổn định của thị trường nội địa và tăng cường công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đáng chú ý là hoạt động thương mại và dịch vụ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang phát triển nhanh; nhờ đó tỷ trọng của khu vực này trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ cả nước đã tăng lên 2,6%.
Tình hình thị trường một số mặt hàng thiết yếu:
Xăng dầu: Trong tháng 4/2005, thị trường xăng dầu trên thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng bất lợi cho các ngành sản xuất có sử dụng xăng dầu làm nguồn nhiên liệu đầu vào và sinh hoạt của người dân. Trong tháng 4, lượng nhập khẩu xăng dầu ước đạt 1 triệu tấn, giảm 6,4% so với tháng 3. Tính chung 4 tháng đầu năm, nhập khẩu xăng dầu ước đạt 3.908 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2004 và bằng 32% kế hoạch cả năm.
Về giá cả, sau khi tăng mạnh trong những tháng đầu năm khoảng 55 - 56 USD/thùng, đến giữa tháng 4, giá dầu thô thế giới đã giảm xuống khoảng 47 - 48,5 USD/thùng. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia, nhu cầu xăng dầu phục vụ sản xuất tại nhiều quốc gia phát triển đang tăng sẽ làm cho giá xăng dầu khó có khả năng giảm mạnh.
Sắt thép: Trong tháng 4, nhu cầu về vật liệu xây dựng trong nước bắt đầu tăng nhanh trong khi trên thị trường thế giới, giá phôi thép vẫn tiếp tục tăng. Giá phôi thép nhập khẩu trong tháng 4 đã tăng khoảng 4-5% so với cuối tháng 3 (tăng khoảng 10-15 USD/tấn).
Trong tháng 4, lượng thép nhập khẩu đạt khoảng 450 nghìn tấn, tăng 4,4% so với tháng trước; tính chung trong 4 tháng đầu năm, lượng thép nhập khẩu ước đạt 1,95 triệu tấn, giảm 4,6% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó lượng thép thành phẩm nhập khẩu ước đạt 1,05 triệu tấn và phôi thép ước đạt 0,6 triệu tấn.
Về giá cả, do giá phôi nhập khẩu tăng, giá bán thép trong tháng 4 đã tăng nhẹ mặc dù Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan đã phối hợp thực hiện nhiều biện pháp kiên quyết nhằm ổn định thị trường thép. Bộ Công nghiệp đã yêu cầu các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất phôi và thép đảm bảo đủ nhu cầu trên thị trường, không để xảy ra tình trạng khan hiếm dẫn đến đầu cơ, trục lợi của tư thương, đồng thời tăng cường quản lý khâu phân phối.
Xi măng: Trong tháng 4, tiêu thụ xi măng ước đạt 2 triệu tấn; tính chung 4 tháng đầu năm tiêu thụ 8 triệu tấn, bằng 28% kế hoạch năm. Giá bán lẻ xi măng đang có xu hướng tăng lên (khoảng 20%), cần có những giải pháp để kiềm chế.
Phân bón: Trong tháng 4, lượng phân urê nhập khẩu ước đạt 110 nghìn tấn; tính chung trong 4 tháng đầu năm nhập khẩu ước đạt 285 nghìn tấn, bằng 16,8% so với dự kiến kế hoạch năm. Hiện nay các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đang bắt đầu vụ hè thu, nhu cầu urê cho vụ này khoảng 500 nghìn tấn trong khi tồn kho cả nước khoảng 270 nghìn tấn. Do vậy, nếu nhà máy Phú Mỹ sản xuất ổn định thì lượng urê sẽ cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu. Tuy nhiên, trong thời gian tới, sẽ phải tiếp tục nhập khẩu phân bón để đáp ứng nhu cầu của vụ đông.
Điện: trong tháng 4 các nhà máy điện vẫn đảm bảo vận hành ổn định, đáp ứng nhu cầu cấp điện cho các ngành sản xuất, dịch vụ và phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân. Sản lượng điện phát ra trong tháng 4 đạt 4.285 triệu kWh, bình quân đạt 142,8 triệu kWh/ngày. Tính chung cả 4 tháng đầu năm, sản lượng điện phát ra đạt 15.943 triệu kWh, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước. Do tình hình khô hạn nên sản lượng thuỷ điện đạt thấp, 4 tháng thuỷ điện chỉ chiếm 20,8% trong khi cùng kỳ năm trước đạt 28,5%
Hoạt động du lịch: trong tháng 4 tiếp tục sôi động vì đây là tháng nhiều địa phương tổ chức kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhiều lễ hội tiếp tục được tổ chức trong phạm vi cả nước, như lễ hội nghệ thuật các dân tộc miền Tây tỉnh Thừa Thiên-Huế, lễ hội và Tết cổ truyền của đồng bào Khơ Me, Tây Nam bộ, chương trình du lịch hướng về cội nguồn, năm du lịch Nghệ An, lễ hội Giỗ tổ Đền Hùng... Riêng lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương đã thu hút trên 2 triệu lượt khách tham gia.
Lượng khách du lịch quốc tế đến nước ta tiếp tục tăng khá. Trong tháng 4/2005 ước đã đón khoảng 250 nghìn lượt khách du lịch, nâng tổng số khách quốc tế trong 4 tháng đầu năm 2005 lên trên 1,13 triệu lượt khách, tăng 20,2% so cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ tăng 7,6%).
Lượng khách du lịch nội địa 4 tháng đầu năm cũng tăng mạnh do cả nước đang mùa lễ hội. Ước 4 tháng đạt gần 5 triệu lượt khách, tăng 6,1 % so cùng kỳ năm 2004.
Hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách tiếp tục phát triển khá mặc dù trong bối cảnh có nhiều khó khăn do giá nhiên liệu, vật tư thiết bị tăng cao và tình hình tai nạn giao thông có nhiều diễn biến phức tạp. Trong 4 tháng đầu năm 2005, khối lượng hàng hoá vận chuyển ước đạt 114,8 triệu tấn hàng hoá, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hoá luân chuyển ước đạt 28,3 tỷ TKm, tăng 8,9%; khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 392,4 triệu lượt hành khách, tăng 8,3%; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 21,1 tỷ HKKm, tăng 10,4%.
Như vậy so với kế hoạch năm 2005, trong 4 tháng đầu năm, ngành vận tải đã đạt 34,1% về khối lượng hàng hoá vận chuyển, 36,1% về khối lượng hàng hoá luân chuyển, 36,5% về khối lượng hành khách vận chuyển và 39,4% về khối lượng hành khách luân chuyển.
Mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông trong nước và quốc tế tiếp tục phát triển ổn định. Trong tháng 4/2005 đã phát triển mới 169,3 nghìn thuê bao điện thoại, nâng tổng số phát triển mới trong 4 tháng đầu năm lên hơn 1,1 triệu thuê bao. Đến hết tháng 4/2005 tổng số thuê bao trên toàn mạng đạt hơn 11,3 triệu máy (trong đó số thuê bao của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là 10,8 triệu máy), trong đó thuê bao di động chiếm 49,4%; mật độ thuê bao 13,83 máy/100 dân. Tổng dung lượng kết nối Internet quốc tế là 2.300 Mbps, có 2,38 triệu thuê bao Internet quy đổi. Số người sử dụng dịch vụ Internet đến cuối tháng 4 ước đạt 6,9 triệu, mật độ sử dụng đạt 8,4%.
Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ chưa cao và chưa đa dạng, chưa có những đột phá trong các hoạt động dịch vụ, nên tốc độ tăng chưa cao.
3. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển
Về xuất khẩu: Trong tháng 4/2005, kim ngạch xuất khẩu toàn nền kinh tế ước đạt 2,65 tỷ USD. Tính chung kim ngạch xuất khẩu của 4 tháng đầu năm ước đạt 9,65 tỷ USD, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ tăng 16,1%), trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 3,17 tỷ USD, tăng 23,8% và chiếm 32,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; nếu tính cả dầu thô, các doanh nghiệp FDI xuất khẩu 5,46 tỷ USD, tăng 32% so cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu bình quân/tháng trong 4 tháng đầu năm 2005 đạt 2,4 tỷ USD, tăng mạnh so với mức cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ năm 2004 đạt 1,95 tỷ USD); tuy nhiên vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong kế hoạch năm là 2,56 tỷ USD/tháng.
Các mặt hàng chủ yếu có khối lượng hoặc kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao trong 4 tháng đầu năm 2005 so với cùng kỳ năm trước là: về lượng, than đá tăng 32,5%, lạc nhân tăng 21,9%; về kim ngạch, dây điện và cáp điện tăng gần 43%, sản phẩm gỗ 65,4%; máy vi tính, linh kiện và hàng điện tử 55,3%; sản phẩm nhựa 70,3%; hạt điều 44,1%; rau quả 47,3%.
Các mặt hàng chủ yếu có khối lượng hoặc kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng không cao là: về lượng, cao su tăng 15,5%; chè các loại tăng 7,0%; về kim ngạch, dệt may tăng 6,1%; giày dép tăng 6,6%; túi xách, vali, mũ và ô dù tăng 13,5%; thủy sản tăng 7,5%.
Một số mặt hàng chủ lực có khối lượng hoặc kim ngạch xuất khẩu giảm so cùng kỳ năm 2004 là: về lượng, dầu thô giảm 6,1%, gạo giảm khoảng 10%, cà phê giảm 5,2%; về kim ngạch, xe đạp và phụ tùng giảm 29,1%, hạt tiêu giảm 6,8%, hàng thủ công mỹ nghệ giảm 2,4%.
Đáng chú ý là có một số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu giảm nhưng do giá xuất khẩu tăng nên kim ngạch vẫn tăng khá hoặc bằng cùng kỳ năm trước như kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng 45%, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng 10,7%, kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2004 đã góp phần làm tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước tăng thêm 9%.
Mặt khác, do sự cạnh tranh gay gắt của hàng dệt may Trung Quốc, xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ và EU trong 4 tháng đầu năm rất khó khăn. Dệt may vào thị trường Mỹ chỉ tăng khoảng 5,5% so với cùng kỳ năm 2004. Đối với thị trường EU, dù đã được bỏ hạn ngạch, nhưng kim ngạch xuất khẩu dệt may 4 tháng đầu năm 2005 ước giảm khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2004.
Về nhập khẩu: Nhập khẩu tháng 4 ước đạt 3,15 tỷ USD, tăng 0,9% so với tháng 3. Tính chung, kim ngạch nhập khẩu 4 tháng đầu năm ước đạt 11,4 tỷ USD, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ tăng 8,2%); trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu đạt khoảng 4 tỷ USD, tăng 23,3% và chiếm 35,4% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Các mặt hàng chủ yếu có khối lượng hoặc kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh so với cùng kỳ chủ yếu là các sản phẩm nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu như: về lượng, giấy các loại tăng 46,2%; bông các loại tăng 42,9%. Về kim ngạch, linh kiện và phụ tùng ô tô tăng 73,8%; linh kiện xe máy CKD và IKD 52,9%; máy móc thiết bị phụ tùng 17,9%; máy vi tính và linh kiện 56,3%; tân dược 28,7%; hóa chất các loại 25,9%...
Các mặt hàng chủ yếu có khối lượng hoặc kim ngạch nhập khẩu tăng chậm là: về lượng, xăng dầu tăng 4,9%; ô tô nguyên chiếc 7,4%; sợi các loại 9,6%; về kim ngạch, nhập khẩu vải tăng 2,9%.
Những mặt hàng chủ yếu có khối lượng hoặc kim ngạch nhập khẩu giảm so cùng kỳ là: về lượng, phân bón giảm 45,7% (trong đó phân urê giảm 61,5%); sắt thép các loại giảm 3,0% (trong đó phôi thép giảm gần 21%); chất dẻo nguyên liệu giảm 0,7%; về kim ngạch, nguyên phụ liệu dệt may da giảm khoảng 1%.
Nhập siêu trong tháng 4 ước đạt 500 triệu USD, tăng nhẹ so với trung bình của 3 tháng đầu năm (mức trung bình là 417 triệu USD/tháng). Tính chung 4 tháng đầu năm, nhập siêu đạt 1,78 tỷ USD, bằng 18,4% kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ là 17,4%). Do nhập siêu vẫn chưa giảm và đứng ở mức cao, trong những tháng tới cần tiếp tục theo dõi để có biện pháp xử lý thích hợp.
4. Thu, chi ngân sách và hoạt động tiền tệ
Thu Ngân sách Nhà nước: Thực hiện thu ngân sách từ đầu năm đến hết tháng 4 đã diễn ra thuận lợi; tiến độ thu trong tháng 4 tiếp tục đạt khá; riêng trong tháng 4 thu ngân sách đạt 16.314 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách từ đầu năm đến đến hết tháng 4 ước đạt 64.126 tỷ đồng, bằng 35% dự toán cả năm, nhanh hơn tiến độ thu cùng kỳ năm trước (cùng kỳ đạt 32,4% dự toán năm); trong đó thu nội địa đạt 36.674 tỷ đồng, bằng 34,8% dự toán năm (cùng kỳ đạt 32,9%), thu từ dầu thô đạt 14.986 tỷ đồng, bằng 39,4% dự toán (cùng kỳ đạt 37,1%), thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 11.866 tỷ đồng, bằng 31,5% dự toán (cùng kỳ đạt 28,3%).
Trong thu nội địa, hầu hết các khoản thu từ khu vực ngoài quốc doanh đều đạt tiến độ trên 35% dự toán năm như thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6.350 tỷ đồng, bằng 35,4% dự toán năm, thu từ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 5.648 tỷ đồng, bằng 35,8% dự toán năm, từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đạt 1.628 tỷ đồng, bằng 39,7% dự toán năm, thu về nhà đất đạt 5.123 tỷ đồng, bằng 42,2% dự toán năm, thu từ phí xăng dầu đạt 1.386 tỷ đồng, đạt 33,4% dự toán năm, thu thuế sổ số kiến thiết đạt 1.816 tỷ đồng, bằng 37,7% dự toán năm... Trong khi đó, thu từ khu vực kinh tế quốc doanh đạt 11.909 tỷ đồng, chỉ bằng 32,1% dự toán năm.
Thu từ dầu thô trong 4 tháng đầu năm khá cao nhờ giá dầu thô vẫn ổn định ở mức cao. Giá bình quân trong tháng 4 đạt khoảng 320 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn so với tháng trước song vẫn cao hơn nhiều so với giá xây dựng dự toán (giá dự toán là 264 USD/tấn).
Chi Ngân sách Nhà nước trong tháng 4 đạt 18.274 tỷ đồng, tích luỹ từ đầu năm đến hết tháng 4 ước đạt 71.814 tỷ đồng, bằng 31,3% dự toán năm, nhanh hơn tiến độ chi năm trước (cùng kỳ năm trước đạt 28,7% dự toán năm). Đáng chú ý là chi đầu tư phát triển trong 4 tháng đầu năm tương đối chậm, ước chỉ đạt 18.712 tỷ đồng, bằng 28,4% dự toán năm (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 17.635 tỷ đồng, bằng 28,5% dự toán năm). Một số khoản chi khác đạt tiến độ khá nhanh như chi sự nghiệp kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh đạt 34.237 tỷ đồng, bằng 33,8% dự toán, chi trả nợ và viện trợ đạt 11.999 tỷ đồng, bằng 34,5% dự toán năm. Chi trả nợ đã đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ nợ của Chính phủ.
Bội chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến hết tháng 4 đạt 7.688 tỷ đồng, bằng 18,9% dự toán năm.
Hoạt động tiền tệ: Tổng phương tiện thanh toán tháng 4/2005 tăng 2,4% so với tháng 3; tính chung trong 4 tháng đầu năm, tổng phương tiện thanh toán tăng 5,5%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của cùng kỳ năm 2004 (4,7%).
Nguồn vốn huy động đến cuối tháng 4 ước tăng 5% so với cuối năm 2004, tăng nhẹ so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm trước (4,3%); trong đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 4,9%, bằng ngoại tệ tăng 5,3%. Riêng trong tháng 4, nguồn vốn huy động ước tăng 2,5%, trong đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 2,4%; tiền gửi bằng ngoại tệ tăng 2,8%. Như vậy, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động trong tháng 4 đã tăng mạnh so với trung bình của 3 tháng đầu năm (0,8%).
Về hoạt động tín dụng, dư nợ cho vay toàn nền kinh tế ước đến 30/4/2005 tăng 5,1% so với cuối năm 2004, giảm khá mạnh so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 8,4%); trong đó cho vay bằng VNĐ tăng 4,9%, cho vay bằng ngoại tệ tăng 6%. Tính riêng trong tháng 4, dư nợ cho vay tăng 2%, trong đó cho vay bằng VNĐ tăng 1,6%, bằng ngoại tệ tăng 3,1%.
Lãi suất cơ bản trong tháng 4 tiếp tục được giữ ổn định ở mức 0,65%/tháng. Các lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn ổn định. Tuy nhiên, trên thị trường tiền tệ, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đều tăng nhẹ so với tháng 3.
5. Giá cả hàng hoá và dịch vụ
Giá tiêu dùng: sau khi tốc độ tăng giá giảm xuống chỉ còn 0,1% trong tháng 3, chỉ số giá tiêu dùng lại tăng lên tới 0,6% trong tháng 4. Nguyên nhân chủ yếu là giá một số nhóm hàng tăng mạnh do tính thời vụ hoặc giá thế giới tăng cao làm cho giá trong nước tăng theo như giá nhóm hàng phương tiện đi lại và bưu điện tăng 1,5%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,1%, dược phẩm và y tế tăng 0,6%, lương thực và thực phẩm đều tăng 0,5%. Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng thấp là thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,4%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,2%, may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 0,3%, giáo dục tăng 0,2%. Riêng chỉ số giá nhóm hàng văn hoá, thể thao, giải trí giảm 0,1%. Trong tháng 4, chỉ số giá vàng giảm 0,8%; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,1%.
Tính chung trong 4 tháng đầu năm 2005 chỉ số giá tăng 4,3%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ năm 2004 tăng 5,4%); trong đó nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng 6,6%; nhóm hàng đồ uống và thuốc lá tăng 2,5%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 2,3%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,2%; dược phẩm và y tế tăng 1,7%; nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,8%; nhóm hàng văn hoá, thể thao, giải trí và nhóm hàng may mặc, mũ nón, giầy dép đều tăng 1,3%. Riêng nhóm hàng giáo dục chỉ tăng 0,4%. Giá vàng giảm 2,7%, giá đô la Mỹ tăng 0,2%.
6. Đầu tư phát triển
Thực hiện vốn đầu tư XDCB thuộc Ngân sách Nhà nước (chủ yếu là nguồn ngân sách tập trung) tháng 4 ước đạt khoảng 3.807 tỷ đồng, bằng 8% kế hoạch năm. Tính chung trong 4 tháng đầu năm đạt 13.934 tỷ đồng, bằng 29,4% kế hoạch năm, tăng nhẹ so với tiến độ cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước đạt 29,2% kế hoạch năm). Đáng chú ý là tiến độ thực hiện vốn đầu tư do Trung ương quản lý khá nhanh, trong 4 tháng đầu năm đạt 4.969 tỷ đồng bằng 32,2% kế hoạch năm; trong khi tiến độ thực hiện vốn đầu tư do địa phương quản lý chậm, chỉ đạt 8.965 tỷ đồng, bằng 28% kế hoạch năm.
Một số Bộ ngành có mức thực hiện kế hoạch đầu tư khá là Bộ Giao thông vận tải đạt 36,5%, Bộ Nông nghiệp và PTNT đạt 33,5%; một số bộ có tiến độ đầu tư đạt thấp là Bộ Văn hoá Thông tin đạt 19,8%; Bộ Y tế đạt 19,5%; Bộ Thuỷ sản đạt 21,5%.
Thu hút vốn ODA: từ đầu năm đến ngày 15/4/2005, nguồn vốn ODA được hợp thức hoá thông qua các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt tổng giá trị 875 triệu USD, trong đó vốn vay khoảng 810 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 65 triệu USD. Các khoản vay có giá trị lớn nhất được ký kết trong khoảng 1 tháng qua là dự án "Xây dựng cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải" trị giá 330 triệu USD, dự án "Xây dựng đại lộ Đông - Tây thành phố Hồ Chí Minh (cấp vốn lần thứ 4) trị giá 173 triệu USD, dự án "Xây dựng quốc lộ 3 (Hà Nội - Thái Nguyên) trị giá 113 triệu USD, dự án "Phát triển ngành Lâm nghiệp" trị giá 50 triệu USD. Khoản viện trợ không hoàn lại có giá trị lớn nhất trong 4 tháng đầu năm là dự án "Hỗ trợ chương trình khu vực doanh nghiệp" trị giá 35 triệu USD do Đan Mạch tài trợ.
Trong 4 tháng đầu năm, tổng giá trị vốn ODA giải ngân ước đạt 349 triệu USD, bằng khoảng 20% kế hoạch giải ngân của cả năm 2005, trong đó vốn vay đạt khoảng 275 triệu USD, viện trợ không hoàn lại đạt 73 triệu USD. Trong tổng mức giải ngân 4 tháng đầu năm, phần vốn vay của 3 nhà tài trợ lớn (JBIC, WB, ADB) đạt khoảng 220 triệu USD, chiếm 80% tổng giá trị giải ngân.
Về vốn tín dụng đầu tư, 4 tháng đầu năm ước đạt khoảng 7.300 tỷ đồng, bằng 24,3% kế hoạch năm, trong đó nguồn vốn trong nước cho vay theo kế hoạch thực hiện thấp, chỉ đạt 2.200 tỷ đồng, bằng 15,3% kế hoạch năm. Nguồn vốn ODA đạt 2.500 tỷ đồng, bằng 35,7 kế hoạch năm, nguồn vốn đầu tư hỗ trợ xuất khẩu đạt 3.200 tỷ đồng.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Trong tháng 4/2005 có 68 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 140 triệu USD. Tính chung 4 tháng đầu năm 2005, cả nước có 177 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 1.450 triệu USD, tăng 25,5% về số dự án và tăng gấp 3 lần về vốn đăng ký cấp mới so với cùng kỳ năm 2004.
Trong tháng 4, đã có thêm 49 lượt dự án tăng vốn với tổng số vốn tăng thêm là 243 triệu USD; tính chung 4 tháng có 121 lượt dự án tăng vốn, với tổng số vốn tăng thêm đạt 665 triệu USD, tăng tới 112,3% về số dự án và 65% về vốn so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và tăng thêm trong 4 tháng đầu năm đạt 2.115 triệu USD, tăng 141,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong tháng 4 đã đưa vào thực hiện 245 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tính luỹ 4 tháng đầu năm đã đưa vào thực hiện khoảng 937 triệu USD, tăng khoảng 17,1% so với cùng kỳ năm trước.
Về phát triển doanh nghiệp dân doanh: Trong 3 tháng đầu năm 2005, trên địa bàn cả nước có 7.998 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký đạt xấp xỉ 21,3 nghìn tỷ đồng, tăng 11% về số lượng doanh nghiệp và 46,6% về vốn so với cùng kỳ năm 2004. Các địa phương dẫn đầu cả nước là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội; riêng hai thành phố này đã chiếm 53,8% tổng số doanh nghiệp đăng ký mới và 47,6% tổng số vốn đăng ký. Các tỉnh tiếp theo là Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Đà Nẵng và Đồng Nai. Tuy nhiên, có một số địa phương có số doanh nghiệp đăng ký mới rất thấp như Sơn La (10 doanh nghiệp), Điện Biên (7), Hà Giang (15), Lai Châu, Quảng Trị (16), Đắc Nông (22), Bắc Kạn (25)... Đây cũng là những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội còn đặc biệt khó khăn.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI.
1. Lao động, việc làm:
Trong các tháng đầu năm lĩnh vực lao động và việc làm vẫn duy trì được sự chuyển biến tích cực. Riêng trong tháng 4, đã giải quyết việc làm cho khoảng 15 vạn lao động. Tính chung cả 4 tháng đầu năm, ước tính giải quyết việc làm cho khoảng 45 vạn lao động, bằng 28,1% kế hoạch năm.
Về xuất khẩu lao động, trong tháng 4 xuất khẩu lao động ước đạt 4.400 người, đưa tổng số lao động đi xuất khẩu 4 tháng đầu năm lên 20.714 người, chủ yếu là sang các nước Châu Á như Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Lào và một số thị trường lao động mới như: Anh, Xingapo, các tiểu vương quốc Ả Rập, Đan Mạch,…
2. Y tế, chăm sóc sức khỏe:
Ngành y tế tiếp tục đẩy mạnh công tác y tế dự phòng và tiếp tục giám sát các ổ dịch viêm phổi do virus liên quan đến bệnh cúm gia cầm. Đã định kỳ tổ chức họp Ban Chỉ đạo phòng chống SARS và các cuộc họp để chỉ đạo công tác phòng chống dịch cúm gia cầm. Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương tiếp tục duy trì các hoạt động vệ sinh môi trường, vệ sinh chuồng trại chăn nuôi nhằm hạn chế tối đa tác hại và kiểm soát sự lây lan của dịch cúm gia cầm.
Tình hình kiểm soát một số dịch bệnh lớn và an toàn vệ sinh thực phẩm trong 4 tháng đầu năm như sau:
Bệnh sốt xuất huyết, trong tháng 4 đã có 984 ca mắc tại 23 địa phương, không có tử vong; tính chung cho cả 4 tháng đầu năm đã có 6.043 ca mắc, giảm 9,4% so cùng kỳ năm 2004, trong đó có 3 ca tử vong. Các địa phương có số ca mắc bệnh cao là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, An Giang, Bạc Liêu.
Sốt rét, trong tháng 4 đã có trên 6.000 người mắc sốt rét, đưa số tích luỹ cả nước tính từ đầu năm đến nay là 17.410 ca sốt rét, chỉ bằng 37,7% so với cùng kỳ năm 2004 và không có ca tử vong.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng 4, số người nhiễm HIV mới được phát hiện là 1.372 trường hợp, tăng 56 trường hợp so với cùng kỳ năm 2004. Đã có 207 bệnh nhân đang trong giai đoạn AIDS và 137 ca tử vong do AIDS. Luỹ kế cho đến nay, tổng số nhiễm HIV là 93.927 người, trong đó tổng số bệnh nhân AIDS là 15.015 người và đã có 8.812 người đã chết do AIDS.
Tình hình kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm: Từ ngày 18/03/2005 đến 18/04/2005 đã xảy ra 10 vụ ngộ độc thực phẩm với 212 người bị ngộ độc, trong đó đã có 14 ca tử vong. Số vụ ngộ độc thực phẩm này xảy ra tại các tỉnh Hà Giang, Gia Lai, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Sóc Trăng. Tính chung từ đầu năm đến ngày 18/04/2005 đã có 1.134 người bị ngộ độc thực phẩm, trong đó có 22 ca tử vong.
3. Giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ:
Giáo dục và Đào tạo: sau khi nhận được kế hoạch tuyển mới đào tạo năm 2005, các Bộ, ngành, các địa phương, các tổng công ty và các cơ quan đã triển khai thông báo chỉ tiêu cho các trường trực thuộc và tiến hành đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đã ban hành các văn bản pháp quy và văn bản hướng dẫn có liên quan chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh đại học cao đẳng năm 2005. Ngoài ra, để chuẩn bị cho các cấp phổ thông thi tốt nghiệp năm học 2004-2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thành lập 64 đoàn thanh tra về công tác chuẩn bị thi tại các địa phương.
Về thực hiện Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học: đến nay, tổng vốn từ nguồn công trái giáo dục cấp 3 đợt cho các địa phương là 2.578,1 tỷ đồng. Giá trị thực hiện đến hết tháng 12/2004 là 2.491,2 tỷ đồng, đạt 96,7% kế hoạch nhà nước giao. Số vốn đã thanh toán tính đến tháng 1/2005 là 2.344 tỷ đồng, đạt tỷ lệ giải ngân vốn là 94,1% so với khối lượng thực hiện và bằng 91% kế hoạch giao. Các tỉnh thanh toán đạt và vượt vốn được giao như Thái Bình, Tuyên Quang, Lai Châu, Thừa Thiên - Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kiên Giang, Đồng Nai, Bạc Liêu, Sóc Trăng. Các tỉnh có tỷ lệ thực hiện thấp như Bắc Kạn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Phú Yên, Đắk Nông, Trà Vinh. Ban Chỉ đạo Chương trình đang chuẩn bị Hội nghị tổng kết việc thực hiện chương trình Kiên cố hoá sau hai năm thực hiện vào cuối tháng 4 năm 2005
Hoạt động khoa học công nghệ: trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm tiếp tục tiến triển khá. Tính từ đầu năm đến nay, nhiều cơ chế và chính sách phát triển khoa học công nghệ đang được tập trung hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền ban hành, như: dự án Luật Sở hữu trí tuệ; chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của các doanh nghiệp; dự án Pháp lệnh Tiêu chuẩn hoá; đề cương Luật Chuyển giao công nghệ...Tiếp tục tổ chức biên soạn thông tư hướng dẫn Nghị định về hoạt động thông tin Khoa học công nghệ và chuẩn bị tổ chức hội chợ công nghệ Techmart tại Nghệ An trong năm 2005.
Các dự án thuộc các chương trình, đề án lớn như Chương trình Công nghệ thông tin, Đề án 47, Đề án 112, Đề án 95, các Chương trình Kỹ thuật - Kinh tế...đang được khẩn trương thực hiện, dự kiến có thể hoàn thành đúng tiến độ.
4. Văn hóa - thông tin; phát thanh truyền hình; thể dục thể thao:
Ngành văn hoá thông tin, phát thanh, truyền hình đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú phục vụ kỷ niệm các ngày lễ lớn, đặc biệt trong tháng 4, nhiều địa phương phía Nam đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày chiến thắng giải phóng địa phương mình; tại thành phố Hồ Chí Minh sẽ tổ chức đại lễ kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng thành phố và cũng là ngày giải phóng toàn dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngoài ra, ngành cũng đã tổ chức thành công các lễ hội gắn với lịch sử văn hoá dân tộc như Giỗ tổ Hùng Vương, lễ hội văn hoá dân tộc Khmer - Nam bộ lần thứ 3 tại Trà Vinh, hội diễn sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2005. Tổ chức tuyên truyền quảng bá cho phát triển du lịch qua các địa danh nổi tiếng như Nghệ An, Cát Bà, Hội An... Tổ chức thành công hội thảo về Marketing trong lĩnh vực di sản văn hoá.
Về công tác phát thanh, truyền hình, trong 4 tháng đầu năm đã thực hiện 8.700 giờ phát sóng truyền hình quốc gia, 6.360 giờ phát sóng truyền hình khu vực và 8.640 giờ truyền hình cáp, đạt 48,8% kế hoạch năm; trong tháng 4, đã thực hiện trên 27 nghìn giờ phát sóng phát thanh, nâng số giờ phát sóng phát thanh cả 4 tháng đầu năm lên 108,7 nghìn giờ, đạt 32,7% kế hoạch năm; số giờ chương trình phát thanh đạt 16 nghìn giờ, đạt 32,9% kế hoạch. Trong tháng 4, tổ chức thành công tường thuật trực tiếp và đưa tin bài về các hoạt động tổ chức lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương; tập trung làm chương trình truyền hình trực tiếp các buổi mít tinh kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tổ chức cầu truyền hình để quyên góp tiền ủng hộ trẻ em tàn tật, trẻ em nhiễm chất độc màu da cam...
Về hoạt động thể dục, thể thao, đã tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao nhân dịp Giỗ tổ Hùng Vương; các hoạt động thể thao hướng tới kỷ niệm 30 - 4 (như giải Cúp xe đạp truyền hình thành phố Hồ Chí Minh,…); chỉ đạo tổ chức Giải bóng đá vô địch quốc gia chuyên nghiệp V-League. Các Trung tâm Huấn luyện thể thao quốc gia triển khai huấn luyện cho các đội tuyển quốc gia, chuẩn bị cho SEAGames 23 và các giải thể thao quốc gia trong năm. Đồng thời tiếp tục triển khai các nội dung phát triển thể dục thể thao quần chúng.
5. Tình hình tai nạn giao thông, công tác an toàn giao thông tuy có chuyển biến tích cực song vẫn còn diễn biến phức tạp:
Trong tháng 3 đã xảy ra 1.069 vụ tai nạn giao thông (giảm 33,5% so với tháng 2 năm 2005), làm chết 826 người và bị thương 986 người (giảm 30,6% về số người chết và 30,1% về số người bị thương so với tháng 2 năm 2005). Tuy số vụ tai nạn giao thông, số người chết và bị thương đều giảm đáng kể so với tháng trước nhưng trong tháng, ngành đường sắt đã xảy ra một vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng làm chết 11 người và làm bị thương 78 người.
Tính lũy kế của cả quý I/2005, tổng số vụ tai nạn giao thông là 4.019 vụ (giảm 19,7% so với cùng kỳ năm 2004), làm chết 3.032 người và bị thương 3.588 người (giảm 7,1% về số người chết và 24,3% về số người bị thương so với cùng kỳ năm ngoái).
Trong tháng 4 vẫn diễn ra hết sức phức tạp. Đã xảy ra một vụ tai nạn giao thông đường bộ nghiêm trọng tại chân đèo Lò Xo trên đường Hồ Chí Minh, thuộc địa phận xã Đắc Mang, huyện Đắc Lây, tỉnh Kon Tum, làm thiệt mạng 31 người. Các cơ quan, ngành chức năng cần có sự chỉ đạo sát sao để khắc phục nhanh chóng hậu quả, đồng thời rút kinh nghiệm trong việc quản lý các phương tiện giao thông, không để tái xảy ra trường hợp tương tự.
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội trong 4 tháng đầu năm 2005 đã lấy lại được đà tăng trưởng khá, cụ thể là:
|
4 tháng 2004
|
4 tháng 2005
|
1. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (%)
|
15.4
|
15.1
|
2. Sản lượng lúa Đông Xuân ĐB sông Cửu Long (triệu tấn)
|
8.5
|
8.8
|
3. Giá trị xuất khẩu (triệu USD)
|
7,832
|
9,653
|
Tốc độ tăng xuất khẩu (%)
|
16.1
|
23.3
|
4. Giá trị nhập khẩu (triệu USD)
|
9,336
|
11,429
|
Tốc độ tăng nhập khẩu (%)
|
8.2
|
22.4
|
5. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ (%)
|
16.8
|
18.7
|
6. Thực hiện vốn đầu tư tập trung (tỷ đồng)
|
11,127
|
13,934
|
So với kế hoạch (%)
|
30.0
|
29.4
|
7. Thu ngân sách nhà nước (nghìn tỷ đồng)
|
48.4
|
64.1
|
% so với dự toán
|
32.4
|
35.0
|
8. Chi ngân sách nhà nước (nghìn tỷ đồng)
|
53,8
|
71,8
|
% so với dự toán
|
28.7
|
31.3
|
9. Chỉ số giá tiêu dùng (%)
|
5.4
|
4.3
|
Trong đó: - Thực phẩm
|
10.6
|
5.4
|
- Lương thực
|
8.4
|
6.8
|
10. Giải quyết việc làm (vạn người)
|
35
|
45
|
Tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm tuy đã lấy lại được đà tăng trưởng khá nhưng nhiệm vụ chung của cả năm 2005 vẫn còn hết sức nặng nề. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2005 do Quốc hội thông qua là 8,5% thực sự là nhiệm vụ đòi hỏi từng Bộ, ngành và địa phương phải phấn đấu trong từng tháng, từng quý, không những phải có các chính sách kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn phải có những đột phá, nhất là trong những tháng sắp tới.
Các Bộ, ngành và địa phương cần thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các cuộc họp giao ban vùng, cuộc họp với các nhà đầu tư nước ngoài trong đầu tháng 4 vừa qua; cố gắng, tập trung mọi cố gắng, chỉ đạo giải quyết các công việc chủ yếu sau:
- Về đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, cần tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao sức cạnh tranh, hạ giá thành sản phẩm, đơn giản hoá các thủ tục, bãi bỏ các loại phí không cần thiết... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian chờ đợi, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước hết, tập trung cao cho phát triển sản xuất công nghiệp, dành nhiều ưu tiên hơn cho lĩnh vực này. Đối với nông nghiệp, sau hạn hán, cháy rừng là đến thời gian mưa bão và lũ lụt, do đó các biện pháp phòng chống thiên tai, bảo vệ sản xuất nông nghiệp vẫn là những ưu tiên hàng đầu.
- Trong lĩnh vực dịch vụ, mùa xuân là mùa lễ hội đã chuẩn bị kết thúc và chuyển sang mùa hè. Các hoạt động dịch vụ du lịch cần có công tác chuẩn bị gấp rút để chuyển hướng từ du lịch văn hoá, du lịch lễ hội sang du lịch nghỉ hè, tập trung ở các bãi biển dọc đất nước. Rút kinh nghiệm các năm trước, ngành du lịch cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thu hút nhiều hơn khách du lịch, nhất là khách quốc tế. Bên cạnh đó, các loại hình dịch vụ khác như vận tải, viễn thông, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng... cũng cần được chú trọng phát triển với tốc độ cao hơn.
- Về hoạt động xuất nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng các tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2004 vẫn duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao, nhất là năm 2004 lại là năm có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ nhất từ trước đến nay. Do đó, các Bộ, ngành và địa phương cần có những cố gắng để duy trì xu hướng phát triển này, tận dụng tốt các cơ hội từ quá trình hội nhập quốc tế đem lại.
- Về đầu tư xây dựng, tiếp tục quán triệt Nghị quyết 36/2004/QH11 và Nghị quyết 01/2005/NQ-CP của Chính phủ về công tác triển khai kế hoạch đầu tư xây dựng thuộc ngân sách nhà nước. Phấn đấu thực hiện tốt ngay từ đầu năm và nhất là các tháng giữa năm để hoàn thành các mục tiêu kế hoạch được giao, tránh tình trạng cuối năm không giải ngân hết vốn và phải kéo dài sang năm sau. Bên cạnh đó, tập trung các biện pháp huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư, nhất là nguồn vốn của khu vực tư nhân và dân cư cho đầu tư phát triển.
- Chỉ số giá vẫn mức cao và chưa ổn định, do đó cần tiếp tục có các giải pháp kiềm chế việc tăng giá cả, phấn đấu giữ tỷ lệ tăng giá cả ở mức có thể khống chế được.
- Tình hình tai nạn giao thông vẫn diễn ra hết sức phức tạp, các vụ tai nạn nghiêm trọng xảy ra nằm ngoài khả năng dự báo. Do vậy, cần tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 13/2002/NQ-CP của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông nhằm lập lại kỷ cương, trật tự an toàn giao thông.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư