Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2005
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
THÁNG 5 VÀ 5 THÁNG ĐẦU NĂM 2005
(Báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại phiên họp
ngày 30 tháng 5 năm 2005)
I. VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Tình hình sản xuất, kinh doanh
(1) Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5 năm 2005 ước đạt 38,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1% so với tháng trước và tăng 16,9% so với cùng kỳ. Tính chung cả 5 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 177 nghìn tỷ đồng, tăng 15,4% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 15,3%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,4%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,1%.
Các sản phẩm công nghiệp có giá trị tăng cao là: phân hoá học tăng 40,4%, xút NaOH tăng 36,1%, động cơ điện tăng 27,7%, than sạch tăng 27,4%, máy công cụ tăng 24,8%, ô tô các loại tăng 23,2%, sứ vệ sinh tăng 22,7%, gạch lát tăng 20,7%, thuốc viên các loại tăng 18,5%, thủy sản chế biến tăng 18,4%, xi măng tăng 17,8%, xe máy các loại tăng 17,2%…
Tuy nhiên, một số sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhưng do gặp khó khăn về điều kiện sản xuất hoặc thị trường tiêu thụ nên có mức tăng thấp hơn so với mức tăng bình quân chung của toàn ngành hoặc giảm là: giấy bìa các loại tăng 14,8% (cùng kỳ năm ngoái tăng 26,6%), điện phát ra tăng 13,4%, ti vi các loại tăng 1,1% (cùng kỳ tăng 25,3%), xe đạp hoàn chỉnh giảm 1,3% (cùng kỳ tăng 30%), vải lụa thành phẩm giảm 2,2%, dầu thô khai thác giảm 2,5%, đường mật các loại giảm 4,9%, thuốc ống các loại giảm 6,9%, động cơ Diezen giảm 7,9%…
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 5 tháng không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố. Các tỉnh, thành phố có mức tăng cao hơn mức tăng chung là: Vĩnh Phúc tăng 46%, Bình Dương tăng 34,8%, Cần Thơ tăng 31,9%, Hải Dương tăng 22,4%, Đồng Nai tăng 20,2%, Hà Tây tăng 20,1%, Quảng Ninh tăng 19,2%, Hà Nội tăng 18,7%. Các tỉnh thành phố có giá trị sản lượng chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp nhưng tăng thấp hơn tốc độ tăng chung là: Thanh Hóa tăng 7,4%, thành phố Hồ Chí Minh tăng 12,5%...
Đáng chú ý là sản xuất công nghiệp ở các tỉnh phía Bắc đang gặp khó khăn do thiếu điện phục vụ sản xuất; nhiều nhà máy chỉ được cấp một nửa lượng điện cần thiết cho sản xuất nên công nhân phải nghỉ việc, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, việc cắt điện bất thường, không theo lịch đã gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp sản xuất, nhất là doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu.
(2) Sản xuất nông nghiệp vượt qua khó khăn về hạn hán tiếp tục phát triển.
Tính đến ngày 15/5/2005, các địa phương phía Nam đã gieo cấy được 1.077 nghìn ha lúa hè thu (bằng 92,2% so với cùng kỳ), trong đó các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đạt 981 nghìn ha (bằng 94% so với cùng kỳ). Diện tích gieo cấy năm nay đạt thấp hơn so với cùng kỳ là do tình trạng hạn hán, thiếu nước kéo dài, nhiều địa phương đã chuyển một phần diện tích không đủ nước gieo cấy sang trồng các loại cây rau màu đòi hỏi ít nước hơn. Một số tỉnh vùng ven biển, nơi có nước mặn xâm nhập, đang chờ mưa để gieo sạ.
Đến nay, các tỉnh đã thu hoạch được 34 nghìn ha lúa hè thu, bằng 47,2% so với cùng kỳ và 3,5% diện tích gieo cấy, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long.
Các tỉnh miền Bắc đang tích cực chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và chuẩn bị thu hoạch lúa đông xuân.
Các địa phương tiếp tục gieo trồng rau, màu và phát triển cây công nghiệp. Mặc dù gặp hạn hán nặng và việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng khó khăn nhưng các địa phương đều đã chủ động chuẩn bị đủ giống rau màu, cây công nghiệp để đảm bảo gieo trồng hết diện tích. Tính đến ngày 15/5/2005 các địa phương đã gieo trồng được 831,5 nghìn ha màu lương thực, bằng 96% so với cùng kỳ, trong đó riêng ngô đạt 560,5 nghìn ha, bằng 105% so với cùng kỳ; cây công nghiệp ngắn ngày đạt 364 nghìn ha, bằng 106% so với cùng kỳ, trong đó đậu tương đạt 110 nghìn ha, bằng 126%; rau đậu các loại đạt 389 nghìn ha, bằng 96% so với cùng kỳ.
Khai thác thủy sản: Sản lượng khai thác tháng 5 ước đạt 160 nghìn tấn, nâng sản lượng khai thác 5 tháng đạt 707 nghìn tấn, bằng 40% so với kế hoạch năm và tăng 4,1% so với cùng kỳ.
Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản và khai thác nội địa tháng 5 năm 2005 ước đạt 150 nghìn tấn, tính chung 5 tháng đạt khoảng 595 nghìn tấn, bằng gần 39% kế hoạch năm và tăng 6,7% so với cùng kỳ. Các vùng nuôi hai vụ đã tập trung cải tạo ao đìa và thả hết giống.
Tuy đạt được một số kết quả, sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn:
Về hạn hán: Thời gian vừa qua đã có mưa ở một số vùng nhưng do lượng mưa nhỏ, diện hẹp, cục bộ nên tình trạng khô hạn kéo dài tại nhiều địa phương trong cả nước từ cuối năm 2004 đến cuối tháng 5 vẫn chưa được cải thiện nhiều, gây thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất. Nguyên nhân là do lượng mưa thiếu hụt so với mức trung bình nhiều năm khoảng 30-60% nên các sông, suối, hồ chứa nhỏ cạn kiệt; hồ Hoà Bình và hồ Thác Bà hiện nay đã dưới mực nước chết.
Tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, do thời tiết nắng nóng, hạn hán kéo dài, mực nước sông, suối, kênh, rạch cạn kiệt. Nhiều nơi nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa 80- 90 km, gây khó khăn cho sản xuất, nhất là việc lấy nước gieo sạ lúa hè thu.
Về cháy rừng: Từ đầu mùa khô năm 2005 (1/10/2004) đến ngày 14/4/2005 cả nước xảy ra trên 700 vụ cháy rừng (cả năm 2004 là 443 vụ) với diện tích thiệt hại khoảng 3.500 ha, tăng 10% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân trực tiếp gây cháy rừng do: tình hình khô hạn gay gắt và ý thức bảo vệ rừng của người dân còn thấp. Lực lượng chữa cháy không chuyên nghiệp, thiếu trang thiết bị nên hiệu quả chữa cháy rất kém.
Về dịch cúm gia cầm: Tính đến ngày 20/5 không có ổ dịch cúm gia cầm mới phát sinh, tuy nhiên nguy cơ bùng phát dịch vẫn còn tiềm ẩn, cần tiếp tục thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm tránh dịch bùng phát.
(3) Về các hoạt động dịch vụ:
Thị trường nội địa: Mặc dù phải đối mặt với diễn biến phức tạp của tình hình giá cả nhiều mặt hàng, song nhìn chung hoạt động thương mại nội địa tháng 5 phát triển khá. Hoạt động phân phối lưu thông trên thị trường đã có nhiều biến chuyển tích cực, tạo đà cho sự tăng trưởng của hoạt động thương mại.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 5 đạt hơn 35 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 2% so với tháng trước. Tính chung 5 tháng, tổng mức lưu chuyển hàng hóa ước đạt hơn 175 nghìn tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2004.
Ngành vận tải cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh và đi lại của nhân dân, đặc biệt là trong các ngày lễ 30/4 và 1/5. Mặc dù có nhiều khó khăn do giá nhiên liệu, vật tư thiết bị tăng cao, trong 5 tháng đầu năm khối lượng vận tải hàng hóa ước đạt hơn 104 triệu tấn và 31,21 tỷ tấn.km, tăng 5,8% về tấn và 7,2% về tấn.km so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách 5 tháng ước đạt gần 471 triệu lượt người và 21 tỷ hành khách km, tăng 6,6% về lượt hành khách và 11% về hành khách km.
Đạt được kết quả trên là do sự cố gắng của các địa phương, các ngành vận tải, cụ thể là:
- Nhiều địa phương đã tổ chức thêm tuyến vận tải hành khách chất lượng cao; thực hiện chuyển đổi phương tiện cũ sang phương tiện mới, đa dạng về chủng loại, tăng các loại xe có trọng tải lớn, chất lượng cao; nâng cấp bến bãi, đảm bảo an ninh trật tự, phân luồng, phân tuyến rõ ràng, tránh đón trả khách bừa bãi, ổn định nền nếp, trật tự trong quản lý các bến xe. Vận chuyển hành khách bằng xe buýt tại các đô thị lớn, dần đi vào ổn định và tạo được bước chuyển lớn, phục vụ tốt vận chuyển hành khách công cộng.
- Vận tải biển 5 tháng thực hiện tốt ở cả các tuyến vận tải trong nước và các tuyến ngoài nước. Bên cạnh việc đưa một số tàu mới đóng trong nước vào khai thác, các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tiếp thị mở rộng thị trường, phục vụ tốt cho việc lưu thông hàng hoá. Dịch vụ cảng biển tiếp tục được đổi mới trang thiết bị và công nghệ bốc xếp, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian tàu chờ đợi bốc hàng.
- Ngành đường sắt đã cố gắng nối thêm xe, lập thêm tàu để phục vụ nhu cầu đi lại ngày càng tăng của nhân dân. Trong dịp lễ 30/4 và 1/5 ngành đường sắt đã tổ chức chạy thêm tàu tuyến đường Hà Nội - Đà Nẵng, Hà Nội - Vinh để phục vụ nhân dân đi du lịch, học sinh đi thi.
Bưu chính viễn thông tiếp tục phát triển mạnh: Trong tháng 5/2005 đã phát triển mới 316,5 nghìn thuê bao điện thoại, nâng tổng số phát triển mới trong 5 tháng đầu năm lên hơn 1,3 triệu thuê bao. Đến hết tháng 5/2005 tổng số thuê bao trên toàn mạng đạt hơn 11,6 triệu máy (trong đó số thuê bao của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là 10,9 triệu máy), thuê bao di động chiếm khoảng 49,4%; đạt mật độ thuê bao 14,15 máy/100 dân. Có 2,56 triệu thuê bao Internet qui đổi, lượng thuê bao Internet băng rộng ADSL đạt hơn 100 nghìn thuê bao. Số người sử dụng dịch vụ Internet đến cuối tháng 5 ước đạt 7,2 triệu người, tỷ lệ sử dụng đạt 8,74% dân số.
Từ đầu năm đến nay, ngành Bưu chính viễn thông đã thực hiện giảm cước thuê kênh viễn thông quốc tế; cước thuê kênh viễn thông quốc tế áp dụng cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ (IXP) để kết nối Internet quốc tế; cước thuê kênh liên tỉnh, nội tỉnh, nội hạt.
Ngành du lịch tiếp tục đẩy mạnh việc thu hút khách trên cơ sở nâng cấp, hoàn thiện, bổ sung các chương trình du lịch và đẩy mạnh công tác quảng bá xúc tiến du lịch. Lượng khách du lịch quốc tế trong tháng 5 ước đạt trên 280 nghìn lượt người, nâng tổng số khách quốc tế trong 5 tháng đầu năm 2005 lên 1.415 nghìn lượt người, tăng 22,5% so cùng kỳ năm 2004. Lượng khách du lịch nội địa tháng 5 tăng mạnh do cả nước đang mùa lễ hội và nghỉ mát mùa hè. Ước 5 tháng đạt gần 6,6 triệu lượt khách, tăng 7,4% so cùng kỳ năm 2004.
Nhiều khách sạn cao cấp tại các trung tâm du lịch như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Nha Trang... đều đạt công suất trên 90%.
(4). Xuất nhập khẩu tiếp tục đạt kết quả khá.
Kim ngạch xuất khẩu tháng 5 ước đạt 2,5 tỷ USD, tăng 3,2% so với tháng 4/2005; trong đó các doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) đạt 830 triệu USD, tăng 1,6% so với tháng 4, là mức tăng thấp so với các tháng đầu năm.
Tính chung cả 5 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 11,97 tỷ USD, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm 2004 (cùng kỳ năm 2004 tăng 17,3% so với năm 2003), trong đó kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 3,98 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả dầu thô thì các doanh nghiệp FDI đã xuất khẩu 6,8 tỷ USD, tăng 28,2% so cùng kỳ.
Một số các mặt hàng xuất khẩu có mức tăng khá là: sản phẩm nhựa tăng 58,3%, sản phẩm gỗ tăng 57,8%, máy vi tính và linh kiện tăng 52,6%, hàng rau quả tăng 50%, hạt điều tăng 40,4%, than đá tăng 36,6%, dây điện và cáp điện tăng 36,4%.
Một số mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu tăng thấp hoặc giảm là hàng giày dép chỉ tăng 4,4%; dệt may tăng 0,29%; cà phê giảm 13,1%; xe đạp và phụ tùng giảm 20,6%; chè xanh giảm 26,6%. Nguyên nhân chủ yếu là do áp lực cạnh tranh và những ách tắc trong quản lý.
Tình hình xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2005 nổi lên một số vấn đề sau:
- Xuất khẩu có mức tăng trưởng cao nhưng đang đứng trước khó khăn, thách thức lớn là chịu sức ép cạnh tranh gay gắt, đặc biệt là những mặt hàng có thế mạnh của Trung Quốc. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 tháng mới đạt 39% kế hoạch năm 2005, để lại nhiệm vụ nặng nề về xuất khẩu cho các tháng còn lại trong năm.
- Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có kim ngạch lớn đang gặp nhiều khó khăn về thị trường và khả năng cạnh tranh: (1) Đối với nhóm hàng dệt may, việc quá tập trung vào thị trường quota đã gặp khó khăn khi EU bỏ hạn ngạch dệt may cho tất cả các nước thành viên WTO, giảm thuế cho các nước bị sóng thần làm cho xuất khẩu dệt may giảm thấp cần có các giải pháp khắc phục. (2) Xuất khẩu thuỷ sản gặp khó khăn do giá dầu tăng nhưng giá các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu không tăng; những qui định quá mức cần thiết về dư lượng kháng sinh của EU; nguy cơ thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản vào Mỹ giảm mạnh do thay đổi về hình thức kinh doanh, rủi ro cao, đặc biệt là tiền bảo lãnh thanh toán cao đã gây cản trở đến việc xuất khẩu thuỷ sản.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 5 ước đạt 3,15 tỷ USD, trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 1,1 tỷ USD. Tính chung 5 tháng, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 14,55 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 13%), trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 5,11 tỷ USD, tăng 20,5% so với cùng kỳ.
Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng là linh kiện và phụ tùng ô tô tăng 52,4%; vi tính, điện tử và linh kiện tăng 48,2%; giấy các loại tăng 43,7%; hóa chất các loại tăng 40,1%; linh kiện xe máy tăng 34,8%; bông các loại tăng 28,7%; máy móc thiết bị phụ tùng tăng 9,5%...
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ như phân bón các loại giảm 40,8%, trong đó phân urê giảm mạnh nhất (giảm 65,1%); chất dẻo nguyên liệu giảm 4,6%; nguyên phụ liệu dệt may da giảm 2,1%. Đáng chú ý là những mặt hàng giảm đều là nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất công, nông nghiệp để làm hàng xuất khẩu, trong khi nhập khẩu hàng hóa khác (trong đó có hàng tiêu dùng) tiếp tục tăng.
Nhập siêu 5 tháng đầu năm 2005 ước chiếm 21,6% kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ 19,9%).
2. Về tình hình đầu tư
Thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước 5 tháng ước đạt gần 40% kế hoạch năm. Một số Bộ, ngành có tiến độ thực hiện khá là Bộ Giao thông vận tải đạt 50,5%, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 46%; một số Bộ đạt thấp hơn mức bình quân là: Bộ Công nghiệp đạt 35,5%, Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 35%, Bộ Xây dựng đạt 33,6%.
Vốn tín dụng đầu tư 5 tháng năm 2005 đạt thấp, bằng 28,5% kế hoạch năm, trong đó nguồn vốn trong nước cho vay theo kế hoạch chỉ đạt 18,6% kế hoạch năm. Nguồn vốn ODA đạt 28,5% kế hoạch năm, doanh số cho vay nguồn vốn đầu tư hỗ trợ xuất khẩu đạt 37% kế hoạch năm.
Giải ngân vốn ODA trong 5 tháng đầu năm ước đạt khoảng 31% so với kế hoạch năm 2005.
Từ đầu năm tới 15/5/2005, nguồn vốn ODA được hợp thức hóa bằng việc ký kết các Hiệp định với các nhà tài trợ đạt trị giá khoảng 876 triệu USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tháng 5 tiếp tục tăng khá, tổng vốn của dự án cấp phép mới và vốn đăng ký tăng thêm của các dự án đang hoạt động ước đạt 338 triệu USD (vốn cấp phép mới là 236 triệu USD; vốn tăng thêm là 102 triệu USD). Tính chung 5 tháng đầu năm 2005, số vốn cấp phép mới và tăng thêm đạt 2.453 triệu USD, tăng 90,5% so với cùng kỳ; trong đó vốn đầu tư cấp phép mới là 1.686 triệu USD với 259 dự án, tăng 171,2% về vốn và tăng 37% về số dự án so với cùng kỳ năm trước; vốn tăng thêm đạt 767 triệu USD với 167 lượt dự án, tăng 15,1% về vốn và tăng 108,8% về số dự án so với cùng kỳ năm trước.
Trong 5 tháng, tổng vốn đăng ký trong lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt 52,9% tổng vốn đăng ký; công nghiệp và xây dựng chiếm 44,9%; nông, lâm nghiệp chiếm 2,2%. Vốn đăng ký tập trung nhiều trong lĩnh vực dịch vụ là phù hợp với chủ trương chú trọng phát triển ngành dịch vụ theo tinh thần Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Thành phố Hà Nội đứng đầu 31 địa phương trong cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 50,1% tổng vốn đăng ký của cả nước; tiếp đến là Đồng Nai (chiếm 16,4%); thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 9,6%)…
Vốn đầu tư thực hiện trong tháng 5 ước đạt 250 triệu USD, nâng mức vốn thực hiện trong 5 tháng đạt 1.187 triệu USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 15,8%).
Đầu tư của khu vực dân doanh tiếp tục tăng, 5 tháng đầu năm có khoảng 12.438 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký hơn 34.589 tỷ đồng, tăng 16% về vốn so với cùng kỳ.
II. VỀ THU CHI NGÂN SÁCH, HOẠT ĐỘNG TIỀN TỆ, TÍN DỤNG VÀ GIÁ CẢ
1. Về thu, chi ngân sách
(1) Thu ngân sách Nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước 5 tháng đầu năm bằng 44,6% dự toán năm, cao hơn cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2004 đạt 40,9% dự toán năm); trong đó thu nội địa bằng 43,1% dự toán năm; thu từ dầu thô bằng 52,6% dự toán năm; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 41% dự toán năm; thu từ viện trợ không hoàn lại đã bằng 42% dự toán năm.
Trong tổng thu nội địa, nhiều khoản thu đạt khá so với dự toán như thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bằng 43,7% dự toán năm; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh bằng 43,4%; thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 47,6%; thu từ nhà đất bằng 51,7% dự toán…
(2) Chi Ngân sách Nhà nước tính đến hết tháng 5 bằng 39,3% dự toán năm (cùng kỳ năm trước đạt 40,9%); trong đó chi đầu tư phát triển bằng 35,4% dự toán năm; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh bằng 42,3% dự toán năm; chi cải cách tiền lương và tinh giảm biên chế bằng 30,7% dự toán năm.
Đến nay, ngân sách Trung ương đã chuyển bổ sung cân đối ngân sách và bổ sung có mục tiêu cho các địa phương đạt tương ứng 41,6% và 39,3% dự toán, đảm bảo nguồn tài chính cho các địa phương triển khai thực hiện các nhiệm vụ đã bố trí dự toán, chủ động ứng phó và giải quyết kịp thời những nhiệm vụ mới phát sinh do thiên tai, dịch bệnh gây ra.
(3) Bội chi ngân sách nhà nước tính đến hết tháng 5 ước bằng 21,1% dự toán năm.
2. Về hoạt động tiền tệ, tín dụng và giá cả
Hoạt động tiền tệ: Tổng phương tiện thanh toán tháng 5/2005 tăng 1,4% so với tháng 4; tính chung trong 5 tháng đầu năm, tổng phương tiện thanh toán tăng 6,5%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của cùng kỳ năm 2004 (5,6%).
Nguồn vốn huy động đến cuối tháng 5 ước tăng 7,1% so với cuối năm 2004, tăng đáng kể so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm trước (6,1%); trong đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 7,3%, bằng ngoại tệ tăng 6,6%. Riêng trong tháng 5, nguồn vốn huy động ước tăng 1,6%, trong đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 1,7%; tiền gửi bằng ngoại tệ tăng 1,4%. Như vậy, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động trong tháng 5 tiếp tục có xu hướng tăng lên.
Về hoạt động tín dụng, dư nợ cho vay toàn nền kinh tế đến 31/5/2005 ước tăng 8,5% so với cuối năm 2004, giảm đáng kể so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 10%); trong đó cho vay bằng VNĐ tăng 8,1%, cho vay bằng ngoại tệ tăng 9,8%. Tính riêng trong tháng 5, dư nợ cho vay tăng 1,3%, trong đó cho vay bằng VNĐ tăng 1%, bằng ngoại tệ tăng 2,3%.
Nhìn chung, hoạt động tiền tệ trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm ổn định. Các lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất dự trữ bắt buộc trong tháng 5 không thay đổi so với tháng 4. Các lãi suất huy động sau khi tăng nhẹ trong tháng 4 đã ổn định trở lại. Riêng lãi suất cho vay tăng lên, nhưng mức độ không đáng kể.
(3) Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 tăng 0,5% so với tháng 4. Đáng chú ý là chỉ số giá tăng ở hầu hết các mặt hàng, trong đó nhóm hàng lương thực - thực phẩm tăng 0,6% (lương thực tăng 0,2%, thực phẩm tăng 0,8%); nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng và đồ uống, thuốc lá cùng tăng 0,8%; 3 nhóm hàng gồm: phương tiện đi lại, bưu điện; dược phẩm, y tế; đồ dùng và dịch vụ khác cùng tăng 0,4%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,3%; văn hoá thể thao giải trí tăng 0,2%; đồ dùng phục vụ giáo dục tăng 0,1%.
Tính chung 5 tháng, chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,8%. Giá lương thực, thực phẩm tăng cao nhất, ở mức 7,2%, trong đó lương thực tăng 5,6%, thực phẩm tăng 7,7%; đồ uống và thuốc lá tăng 3,3%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 2,7%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 2,6% giá dược phẩm y tế tăng 2,1%, hàng may mặc, giày dép tăng 1,7%; hàng văn hoá, thể thao, giải trí tăng 1,5%. Chỉ số giá vàng giảm 2,9% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,3% so với cùng kỳ.
III. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
1. Giáo dục và đào tạo
Trong tháng 5, ngành giáo dục đào tạo khẩn trương chuẩn bị cho các cấp phổ thông thi tốt nghiệp và tổng kết năm học 2004-2005; trong hai ngày 25 và 26 tháng 5, hơn 1,5 triệu học sinh tham gia thi tốt nghiệp trung học cơ sở. Ngành giáo dục các địa phương đã thực hiện nhiều biện pháp để bảo đảm công tác coi thi và kỷ luật phòng thi được tốt. Đề thi tốt nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu đề ra là chính xác, vừa sức, phản ánh đúng kết quả học tập của học sinh.
Về tình hình thực hiện chương trình kiên cố hoá trường lớp học: Đến nay các địa phương trong cả nước đã triển khai xây dựng 40.195 phòng học, trong đó đưa vào sử dụng hơn 32.084 phòng.
Tổng vốn từ nguồn công trái giáo dục đã cấp 3 đợt cho các địa phương là 2.578,1 tỷ đồng. Giá trị thực hiện và đề nghị thanh toán đến hết tháng 4/2005 là 2.584 tỷ đồng, đạt 100,2% kế hoạch nhà nước giao. Hầu hết các tỉnh đã có khối lượng thực hiện đề nghị thanh toán.
2. Khoa học công nghệ.
Hoạt động khoa học công nghệ trong tháng 5 năm 2005 tiếp tục được triển khai; hoàn thành đúng tiến độ Dự thảo Luật sở hữu trí tuệ, tổ chức thành công hội chợ công nghệ-thiết bị năm 2005 tại Nghệ An.
3. Y tế và chăm sóc sức khoẻ.
Ngành y tế tích cực chỉ đạo các địa phương phòng chống tả, sốt xuất huyết, đồng thời giám sát chặt chẽ các dịch bệnh viêm đường hô hấp do virus H5N1 và các dịch bệnh khác. Chỉ đạo các Viện vệ sinh Dịch tễ, Viện Pasteur trung ương triển khai chiến dịch vệ sinh môi trường, vệ sinh chuồng trại chăn nuôi vì vậy các dịch bệnh (như tả, dịch hạch...) hầu như không xảy ra.
Riêng đối với bệnh sốt xuất huyết: Trong tháng 5 tại 25 tỉnh, thành phố có 896 ca mắc, 1 ca tử vong. Tích lũy từ đầu năm đến nay, có 8.131 ca mắc, trong đó có 4 ca tử vong, giảm 22,9% về số ca mắc và giảm 14 ca tử vong so với cùng kỳ 2004.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng 5, số nhiễm HIV mới phát hiện là 1.138 người. So với tháng 4 năm 2005, số người nhiễm HIV giảm 17%, số bệnh nhân AIDS tăng 38%, số tử vong giảm 23,4%. So với cùng kỳ năm 2004, số người nhiễm HIV tăng 16,5%, số bệnh nhân AIDS tăng 45% và số tử vong giảm 4,5%.
Tính đến ngày 16/5/2005 đã có 85.065 người nhiễm HIV, trong đó có 15.301 người chuyển sang AIDS.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng xảy ra 14 vụ, tổng số người ngộ độc tính đến ngày 18/5/2005 là 1461 người, trong đó có 35 người tử vong.
4. Văn hóa thông tin, phát thanh truyền hình.
Toàn ngành tập trung mọi hoạt động hướng về kỷ niệm 115 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức lễ kỷ niệm và Lễ hội Làng Sen tại Nghệ An với nhiều hoạt động có ý nghĩa; Triển lãm thi pháp "Nhật ký trong tù" tại Hàn Quốc và Việt Nam...
Các cơ quan báo chí đã dành nhiều tin, bài tuyên truyền về kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XI nhằm chuyển tải những nội dung tinh thần thảo luận tại kỳ họp đi vào đời sống chính trị-xã hội đến với mỗi người dân.
Trong tháng 5, Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam tiếp tục thực hiện ổn định các chương trình phát sóng thông tin nhanh, kịp thời các sự kiện diễn ra trong nước và trên thế giới; tuyên truyền, giải thích đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân; phát hiện, thông tin kịp thời nhiều vấn đề bức xúc trong cuộc sống.
5. Về tai nạn giao thông.
Trong tháng 4, đã xẩy ra 1.170 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 1.127 vụ; đường sắt 21 vụ; đường thuỷ nội địa 23 vụ; hàng hải 3 vụ) với 900 người chết và 963 người bị thương, so với tháng trước tăng cả về số vụ tai nạn và số người chết (tăng hơn 96 vụ và 70 người chết). Tính chung 4 tháng đầu năm 2005, số tai nạn giao thông trong cả nước là 5.210 vụ, 3.940 người chết, 4.551 người bị thương, so với cùng kỳ năm 2004 giảm 1.189 vụ tai nạn, giảm 220 người chết và giảm 1.258 người bị thương. Tuy nhiên, đáng chú ý là trong các tháng đầu năm, nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xẩy ra ở cả đường bộ, đường sắt và đường thuỷ.
Nguyên nhân chủ yếu của các vụ tai nạn giao thông vẫn chủ yếu là do ý thức của người dân tham gia giao thông còn kém, chạy quá tốc độ quy định, tránh sai vượt ẩu, say rượu bia…
IV. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 01/2005/NQ-CP VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2005
Nghị quyết 01/CP xác định 11 giải pháp cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả 6 nhóm chủ trương lớn là: tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ và chất lượng; nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát và lãng phí trong đầu tư; điều hành có hiệu quả chính sách tài chính, tiền tệ; đẩy mạnh xuất khẩu và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện tốt những nhiệm vụ bức xúc và giải pháp mới có tính chất đột phá trong lĩnh vực xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường công tác phòng chống tham nhũng.
Tại Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2005 (số 06/2005/NQ-CP ngày 6 tháng 5 năm 2005) của Chính phủ, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương rà soát và báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 1 năm 2005 của Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2005 và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các văn bản có liên quan gửi Bộ kế hoạch và Đầu tư và Văn phòng Chính phủ tổng hợp báo cáo Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 5 năm 2005.
Đến ngày 27 tháng 5 năm 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới nhận được báo cáo triển khai thực hiện Nghị quyết 01/CP của Bộ Thương mại, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thuỷ sản, còn lại nhiều Bộ chưa gửi báo cáo. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá sơ bộ như sau:
Về cơ bản, các Bộ đã có báo cáo đang tổ chức triển khai các giải pháp được xác định trong Nghị quyết 01/CP, nhiều giải pháp đã được cụ thể hoá bằng các văn bản pháp quy do các Bộ ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành. Một số văn bản được ban hành đúng với tiến độ quy định trong Nghị quyết 01/CP, phát huy hiệu quả trong chỉ đạo sản xuất kinh doanh.
Có một số vấn đề giải pháp có tính chất lâu dài, phạm vi rộng (như giúp doanh nghiệp hội nhập có hiệu quả, hạn chế rủi ro), việc triển khai thực hiện đòi hỏi phải phối hợp giữa nhiều cơ quan, do vậy tiến độ thực hiện thường chậm hơn yêu cầu trong Nghị quyết 01/CP.
Có một số văn bản pháp quy được các Bộ triển khai xây dựng lấy ý kiến chuẩn bị cho việc ban hành nhưng tiến độ chậm hơn quy định trong Nghị quyết 01/CP.
Tuy nhiên, do nhiều Bộ không có báo cáo gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo tinh thần Nghị quyết 06/2005/CP để tổng hợp báo cáo Chính phủ tại Kỳ họp tháng 5/2005, do vậy Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa tổng hợp đầy đủ và sẽ có báo cáo Chính phủ vào tháng 6. Sơ bộ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 01/CP có phụ lục kèm theo.
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội trong 5 tháng đầu năm 2005 tiếp tục xu hướng phát triển tích cực: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao; lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển; kim ngạch xuất khẩu đạt khá so với cùng kỳ; thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài có nhiều tiến bộ; thu chi ngân sách bảo đảm tiến độ; các hoạt động văn hoá thông tin sôi nổi; công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân được đẩy mạnh; trật tự an toàn xã hội được duy trì tốt...
Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu trong 5 tháng năm 2005 như sau:
Chỉ tiêu
|
5 tháng
năm 2004
|
5 tháng
năm 2005
|
- Nhịp tăng giá trị sản xuất công nghiệp (%)
|
15,3
|
15,4
|
- Kim ngạch xuất khẩu (tr. USD)
|
9.500
|
11.969
|
- Nhịp tăng xuất khẩu (%)
|
17,3
|
20,4
|
- Kim ngạch nhập khẩu (tr. USD)
|
11.506
|
14.555
|
- Nhịp tăng nhập khẩu (%)
|
13,0
|
21,2
|
- Thực hiện vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước tập trung (tỷ đồng)
|
14.719
|
20.602,9
|
- Thực hiện vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước tập trung so với kế hoạch năm (%)
|
39,7
|
39,7
|
- Thu ngân sách nhà nước (tỷ đồng)
|
61.697
|
81.673
|
- Thu NSNN/dự toán (%)
|
41,3
|
44,6
|
- Chi ngân sách nhà nước (tỷ đồng)
|
67.663
|
90.254
|
- Chi NSNN/dự toán (%)
|
36,1
|
39,3
|
- Chỉ số giá tiêu dùng (%)
|
6,3
|
4,8
|
Mặc dù tình hình kinh tế - xã hội trong những tháng gần đây tiếp tục xu hướng phát triển tích cực, nhưng các kết quả về sản xuất kinh doanh đạt được trong 5 tháng đầu năm còn thấp hơn so với mục tiêu kế hoạch năm 2005; tình hình hạn hán gây thiếu điện nghiêm trọng ở các tỉnh phía Bắc đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân, nếu không được khắc phục sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế; giá cả nhiều loại nguyên vật liệu trên thế giới có thể biến động bất thường làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm; chỉ số giá tiêu dùng của tất cả các mặt hàng tiếp tục tăng có thể tạo nên mặt bằng giá mới cao hơn; trật tự an ninh và an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp; số vụ tai nạn giao thông vẫn còn lớn, các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng còn xẩy ra nhiều, gây bức xúc trong nhân dân... Trong bối cảnh trên, các Bộ, ngành cần chỉ đạo mạnh mẽ, quyết liệt để thực hiện các giải pháp của Chính phủ tại Nghị quyết 01/CP và Nghị quyết của các phiên họp của Chính phủ, kịp thời triển khai nghiêm túc các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ mới ban hành để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế năm 2005 đã được Quốc hội thông qua, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
Trong điều kiện các tỉnh phía Bắc đang thiếu điện hiện nay, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ về tiết kiệm điện trong tiêu dùng (kể cả điện cho sinh hoạt và điện tại các công sở) để dành điện phục vụ sản xuất kinh doanh, đặc biệt cho sản xuất hàng thiết yếu và cho xuất khẩu. Tổng công ty Điện lực Việt nam có các biện pháp để bổ sung nguồn điện thiếu như huy động tốt công suất các nhà máy nhiệt điện đang vận hành, tiếp tục chuyển điện từ phía Nam ra....đồng thời xây dựng cụ thể lịch cắt điện và thông báo sớm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng cắt điện không đúng lịch gây thiệt hại về vật chất cho các doanh nghiệp.
Bộ Công nghiệp chỉ đạo Tổng công ty Điện lực Việt Nam và các chủ đầu tư có biện pháp đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà máy điện đang triển khai để sớm đưa vào vận hành, trước hết là các nhà máy nhiệt điện chạy than (nhà máy điện Na Dương). Đồng thời phải đề ra các giải pháp quyết liệt để đảm bảo cấp đủ điện cho mùa khô các năm 2006, 2007, kể cả biện pháp xem xét việc thuê các trạm phát điện di động. Cần xem xét lại việc phát triển nguồn điện theo cơ cấu hợp lý giữa nhiệt điện và thủy điện.
Bảo đảm đủ nguồn phân bón kịp thời phục vụ sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn phối hợp chặt chẽ với Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại để xác định giữa nhu cầu và khả năng sản xuất trong nước và nhập khẩu phân bón để đáp ứng đủ nhu cầu phân bón theo mùa vụ.
Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu tìm đầu ra cho sản phẩm. Chỉ đạo các doanh nghiệp đa dạng hoá các mặt hàng và mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời tiến hành hợp lý hoá dây chuyền sản xuất, giảm lao động dôi dư, áp dụng các biện pháp giảm chi phí sản xuất và kinh doanh để nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Hai là, kịp thời nắm bắt những biến động của tình hình giá cả; dự báo những tác động dây chuyền để chủ động có giải pháp, chính sách thích hợp nhằm bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động ổn định khi giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng đột biến. Tăng cường theo dõi diễn biến cung cầu các mặt hàng chiến lược, các mặt hàng có ảnh hưởng lớn tới giá cả, trước hết là lương thực và các loại thực phẩm chính, xăng dầu, sắt thép, dược phẩm.
Thực hiện điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, thận trọng, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng nhà nước nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định lãi suất và kiểm soát lạm phát.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng cơ bản, đặc biệt là ở các dự án trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục, các công trình lớn về giao thông, thủy điện, thủy lợi. Tăng cường công tác giám sát đầu tư để hạn chế lãng phí và tiêu cực trong đầu tư.
Bốn là, cần đề phòng diễn biến phức tạp của thời tiết để có biện pháp phòng, chống có hiệu quả. Sớm xây dựng các phương án phòng chống thiên tai; rà soát các phương án bảo vệ đê điều, tu bổ hồ chứa nước và các công trình ven sông; củng cố đê điều ở những nơi xung yếu, đặc biệt là hệ thống đê sông Hồng, đê biển Bắc Bộ và Bắc Trung bộ. Tránh tâm lý chủ quan coi nhẹ tác động của thời tiết.
Năm là, quan tâm thích đáng tới các hoạt động văn hoá, xã hội. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai nạn giao thông. Sửa chữa ngay những cung đường nguy hiểm thường xẩy ra tai nạn, tăng cường các biển báo tại các đoạn đường nguy hiểm. Đẩy mạnh công tác kiểm tra chất lượng các phương tiện giao thông, kể cả phương tiện giao thông đường thuỷ. Nâng cao ý thức của người tham gia giao thông.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư