Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 2 và 2 tháng đầu năm 2005
tình hình kinh tẾ - xã hỘi tháng 02 VÀ
HAI tháng đẦu năm 2005
(Tóm tắt báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 2 - 2005)
Với quyết tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2005, các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2005 về các giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 của Chính phủ.
Trong tháng 2 có Tết Nguyên đán, số ngày sản xuất ít hơn, tuy nhiên ngay từ mùng 2 tết, người lao động tại các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất cả nước đã hăng hái thi đua sản xuất, vì vậy sản xuất kinh doanh trong tháng 2 và 2 tháng đầu năm 2005 tiếp tục phát triển.
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Về sản xuất, kinh doanh
(1) Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp tiếp tục đạt mức cao, đặc biệt công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh góp phần giữ tốc độ tăng cao của toàn ngành.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 2 năm 2005 ước đạt 29.261 tỷ đồng, tăng 2% so với tháng 2 năm 2004. Tính chung cả 2 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp đạt khoảng 65.414 tỷ đồng, cao hơn mức kế hoạch và tăng 16,1% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 15,6%), trong đó khu vực ngoài quốc doanh có mức tăng trưởng cao nhất (tăng 27,2%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực doanh nghiệp nhà nước đều tăng thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành (tương ứng là 13,5% và 10,5%).
Nhờ có thị trường tiêu thụ và có công nghệ sản xuất tốt, một số sản phẩm đã đạt được tốc độ tăng cao là than sạch khai thác tăng 28,3%, thuỷ sản chế biến tăng 31,7%, ga hoá lỏng tăng 20,1%, sữa hộp tăng 25,2%, bia tăng 24,6%, phân hoá học tăng 52,8%, thuốc viên các loại tăng 19%, sứ vệ sinh tăng 61,6%, xi măng tăng 6,7%, gạch lát tăng 40,9%, máy công cụ tăng 22,9%, động cơ điện tăng 85%, ô tô các loại tăng 37%, xe máy các loại tăng 43,5%.
Về địa bàn, địa phương đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ gồm: Vĩnh Phúc tăng 37%, Hà Tây tăng gần 24%, Hải Dương tăng 40,6%, Phú Thọ tăng 19,5%, Khánh Hoà tăng 18,8%, Bình Dương tăng 34%, Đồng Nai tăng 18,5%, Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 18,4%.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, sản xuất công nghiệp trong hai tháng đầu năm còn một số vấn đề sau:
Một số sản phẩm chủ lực, đặc biệt là sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu lớn do gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ nên chỉ đạt mức tăng trưởng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ như quần áo may sẵn tăng 13,9%; máy biến thế tăng gần 8%; ắc quy tăng 9%, động cơ diezen giảm gần 12%; vải lụa thành phẩm tăng 2,8%; quần áo dệt kim giảm 7,4% …
Nhiều sản phẩm vẫn có mức chi phí sản xuất cao nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm gặp khó khăn.
Một số tỉnh, thành phố lớn có tỷ trọng công nghiệp cao nhưng mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành (Hà Nội tăng 14,4%; Đà Nẵng tăng 15,2%, thành phố Hồ Chí Minh tăng 13,8%).
(2) Sản xuất nông nghiệp bảo đảm tiến độ gieo trồng và thu hoạch, tuy nhiên nhiều địa phương đang phải đối mặt với hạn hán gay gắt.
Trong tháng 2 cả nước tập trung gieo cấy lúa Đông xuân, gieo trồng cây ngắn ngày và rau đậu vụ đông. Tính đến ngày 15 tháng 2, cả nước đã gieo cấy được gần 2.475 nghìn ha lúa Đông Xuân, bằng 103,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các tỉnh miền Bắc gieo cấy được gần 702 nghìn ha, tăng hơn cùng kỳ năm trước 21,4%; các tỉnh phía Nam đã cơ bản gieo cấy xong lúa đông xuân, đạt gần 1.773 nghìn ha, bằng 98,3% so với cùng kỳ năm 2004. Lúa sinh trưởng và phát triển khá; các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch 384,3 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 26% diện tích gieo cấy. Năng suất thu hoạch ban đầu tương đối khá.
Cùng với việc gieo cấy và thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương đang tích cực trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày nhưng do đầu vụ thời tiết rét đậm, rét hại đã ảnh hưởng đến tốc độ gieo trồng: diện tích ngô giảm 7%, khoai lang giảm 20,1%, lạc giảm 0,8%, rau đậu các loại giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
Về thuỷ sản: Tổng sản lượng thuỷ sản 2 tháng đầu năm 2005 ước đạt 507 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó sản lượng khai thác hải sản ước đạt gần 272 nghìn tấn, bằng 15,5% kế hoạch, tăng 0,35% so với cùng kỳ; sản lượng nuôi trồng và khai thác nội địa ước đạt 235 nghìn tấn, đạt 15% kế hoạch và tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.
Về lâm nghiệp: Hai tháng đầu năm 2005 trồng rừng tập trung ước đạt 32,5 nghìn ha; trồng cây phân tán ước đạt 64 triệu cây; chăm sóc rừng trồng 33,2 nghìn ha; khoanh nuôi tái sinh và trồng dặm 161,2 nghìn ha.
Hiện nay, ngành nông lâm nghiệp đang phải đối mặt với những khó khăn sau:
Tình hình hạn hán đang diễn ra khá nặng nề: Các tỉnh phía Bắc đã giảm được hạn hán do có một số trận mưa rào vào đầu tháng 2, tuy nhiên so với trung bình nhiều năm lượng nước vẫn thiếu hụt từ 30-50%, các hồ cạn kiệt hơn. Nước dưỡng cho lúa đông xuân có thể sẽ khó khăn. Các tỉnh Tây nguyên, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ và các tỉnh hạ nguồn sông Cửu Long tình hình thiếu nước, khô hạn diễn ra nghiêm trọng và ngày càng mở rộng gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã yêu cầu các tỉnh bị hạn nặng ưu tiên cân đối nguồn nước của các hồ chứa cho sinh hoạt của người dân và chăn nuôi gia súc, đồng thời lên kế hoạch phòng chống hạn cuối mùa khô cho sinh hoạt và sản xuất trong trường hợp mùa mưa đến muộn. Đối với các tỉnh Tây Nguyên, tập trung bảo đảm đủ nước tưới đợt 3 và 4 cho cà phê và những diện tích cây trồng dự kiến thiếu nước và hạn vào cuối vụ đông xuân.
Dịch bệnh cúm gia cầm tuy đang dần được khống chế (đến ngày 27 tháng 2 có 15/35 tỉnh có dịch không phát thêm điểm dịch mới sau 21 ngày), song dịch bệnh còn tiềm ẩn, nhiều điểm có nguy cơ bùng phát trở lại.
Tình trạng vi phạm lâm luật còn tiếp diễn, từ đầu năm đến ngày 20 tháng 2 đã xảy ra 5.660 vụ vi phạm lâm luật, trong đó có 80 vụ cháy rừng làm thiệt hại 136 ha rừng; 194 vụ phá rừng trái phép, 620 vụ khai thác rừng trái phép. Lực lượng kiểm lâm đã xử lý 4.932 vụ, trong đó xử phạt hành chính 4.874 vụ, xử lý hình sự 58 vụ, tịch thu 109 ô tô, máy kéo, 269 xe máy, 3.032 m3 gỗ tròn, 3.082 m3 gỗ xẻ, thu nộp ngân sách trên 16,3 tỷ đồng.
2. Lĩnh vực dịch vụ
Tháng 2 năm nay trùng với Tết Nguyên đán; thu nhập của các tầng lớp dân cư được cải thiện một bước, nên sức mua của dân cư vào dịp trước và trong Tết tăng khoảng 20 - 30% so với Tết năm trước.
Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại trong nước đã chủ động sản xuất và chuẩn bị nguồn hàng dự trữ từ trước Tết nên cung vẫn đáp ứng đủ nhu cầu. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 2 ước đạt 33,59 nghìn tỷ đồng; tính chung cả hai tháng đạt 70,24 nghìn tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2003 tăng 10,5%, năm 2004 tăng 16,2%), trong đó kinh tế nhà nước giảm 3%, thành phần kinh tế cá thể tăng gần 18%, kinh tế tư nhân tăng 40%, kinh tế tập thể tăng 19% và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 45%.
Hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách tăng khá, đáp ứng nhu cầu vận chuyển và đi lại của người dân. Vào dịp Tết Nguyên đán, các đơn vị kinh doanh vận tải đã tăng đầu xe, tăng chuyến ở các tuyến tập trung đông khách; các địa phương hợp tác giúp đỡ nhau khi bị quá tải khách xảy ra. Trong 2 tháng đầu năm, khối lượng vận tải hàng hoá ước đạt 42,8 triệu tấn và hơn 8,9 tỷ tấn.km, tăng 5,1% về tấn vận chuyển và 7% về tấn - km so với cùng kỳ năm trước; vận tải hành khách đạt gần 159 triệu lượt người và 7,3 tỷ hành khách-km, tăng 6,4% về lượt hành khách và 6,9% về lượt hành khách - km. Chất lượng dịch vụ vận tải đã có nhiều chuyển biến khá, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Tuy nhiên, ở một số địa phương do số khách đi lại quá đông nên vẫn còn hiện tượng ứ đọng khách; tình trạng tăng giá ngoài quy định, xe khách chở quá lượng khách theo quy định, đón khách tuỳ tiện... vẫn diễn ra nhiều do chưa tăng cường kiểm tra, kiểm soát của lực lượng thanh tra giao thông và cảnh sát giao thông trong dịp Tết.
Mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển. Trong tháng 2/2005, phát triển mới 250,3 nghìn thuê bao điện thoại nâng tổng số phát triển mới từ đầu năm lên hơn 499 nghìn thuê bao. Tổng số thuê bao trên toàn mạng là 10.904 nghìn máy (trong đó Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam: 10.435 nghìn thuê bao), đạt mật độ 13,2 máy/100 dân, thuê bao di động chiếm 50,6%. Phát triển mới 130 nghìn thuê bao Internet, nâng tổng số lên hơn 2.130 nghìn thuê bao; số người sử dụng dịch vụ Internet khoảng 6,4 triệu, đạt mật độ 7,7%. Tổng dung lượng đường truyền Internet quốc tế là 1.892 Mbps.
Hoạt động du lịch trong tháng 2 tiếp tục diễn ra sôi động, đặc biệt trong các ngày nghỉ Tết Nguyên đán. Những ngày Tết Ất Dậu năm 2005, các công ty lữ hành tổ chức nhiều chương trình du lịch phong phú, bên cạnh những điểm đến quen thuộc như Đà Lạt, Phú Quốc, Hạ Long… các công ty du lịch đã đưa ra các chương trình du lịch mới như Khám phá đường Trường Sơn, Tết với Di sản, đón Tết Nam Bộ ở Miền Tây… Do mức sống tăng cao, việc đi du lịch vào dịp Tết Nguyên đán đang trở thành một thói quen của người Việt Nam, đặc biệt là người dân ở các thành phố lớn; các tour trong nước, nhất là tour dài ngày vẫn đông khách. Nhiều điểm du lịch nổi tiếng như Mũi Né (Phan Thiết) không đủ phòng cho khách trong dịp Tết.
Trong tháng 2 ước đón được 300 nghìn lượt khách quốc tế; tính chung cả 2 tháng, số khách quốc tế ước đạt khoảng hơn 600 nghìn lượt người, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2004; khách du lịch nội địa ước đạt trên 2,6 triệu lượt người, tăng 12,5% so với cùng kỳ. Do số lượng khách quốc tế tăng nhanh, hầu hết các khách sạn cao cấp tại các trung tâm du lịch lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nha Trang... đều sử dụng trên 90% công suất.
Bên cạnh một số kết quả đã đạt được, lĩnh vực dịch vụ còn một số tồn tại sau:
Hạ tầng dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và người dân (du lịch, bưu chính viễn thông...): Trong những ngày Tết Ất Dậu 2005, lưu lượng thông tin di động tăng rất cao từ 15% đến 60% tuỳ theo khu vực so với những ngày trước Tết nên hầu hết trạm thu phát sóng của VinaPhone bị nghẽn mạch; mạng MobiFone phần nhắn tin bị nghẽn trong giờ cao điểm. Dịch vụ nhắn tin ngắn của VinaPhone bị xảy ra nghẽn lớn, trong đó có hệ thống đã bị sự cố kéo dài 13 giờ.
Chi phí dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ chưa được cải thiện: Trong những ngày Tết, giá tour nội địa của nhiều công ty lữ hành tăng từ 30-50% so với ngày thường trong khi chất lượng không được nâng cao.
3. Xuất nhập khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu tháng 2 ước đạt 1,9 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 650 triệu USD. Tính chung cả 2 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 4,078 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 8,2%), bằng 13% kế hoạch năm, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 1,384 tỷ USD, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 34% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Các mặt hàng xuất khẩu tăng so cùng kỳ năm 2004 là: than đá tăng 40,4%, sản phẩm nhựa tăng 18%, dây điện và dây cáp điện tăng 30,8%, máy vi tính, linh kiện tăng 72,4%, hàng điện tử tăng 14,3%, hạt điều tăng 100,4%, hàng rau quả tăng 73,6%, chè các loại tăng 33,6%.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 2 ước đạt 2,35 tỷ USD, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 830 triệu USD. Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 4,903 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm trước tăng 6,9%), trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,737 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 15%). Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong tháng 2 là ô tô, xe máy nguyên chiếc các loại, nguyên vật liệu và thiết bị phụ tùng phục vụ cho sản xuất như xăng dầu ước đạt 850 nghìn tấn, thép các loại 320 nghìn tấn, máy móc thiết bị, phụ tùng 400 triệu USD.
Nhập siêu 2 tháng đầu năm 2005 ước khoảng 825 triệu USD, chiếm 20,2% so với tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn so với cùng kỳ nhiều năm trước (cùng kỳ năm 2003 là 5,5%; năm 2004 là 9,3%).
Vấn đề cần lưu ý trong xuất nhập hai tháng đầu năm là:
Tuy kim ngạch xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm đạt khá (16,2%) nhưng chủ yếu do giá dầu thô tăng cao. Nếu không tính yếu tố tăng giá dầu thô thì tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hai tháng đầu năm chỉ đạt 10,8%.
Nhìn chung thị trường xuất khẩu chưa thật ổn định, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như hàng dệt may, giày dép, thủy sản… tốc độ tăng trưởng không ổn định và không cao. Do vậy, cần tăng nhanh chất lượng các mặt hàng xuất khẩu và đẩy mạnh tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tốc độ nhập siêu quá cao so với cùng kỳ nhiều năm trước.
4. Đầu tư phát triển.
Thực hiện vốn đầu tư XDCB thuộc Ngân sách Nhà nước (chủ yếu là nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung) tháng 2 đạt khoảng 3.037,8 tỷ đồng, bằng 5,9% kế hoạch; tính chung 2 tháng đầu năm ước đạt 7.003,4 tỷ đồng, bằng 13,5% kế hoạch, thấp hơn so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2004 đạt 14,3% kế hoạch).
Vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch tháng 2 ước đạt 1.600 tỷ đồng. Tính chung 2 tháng, nguồn vốn tín dụng đầu tư đạt 2.800 tỷ đồng, bằng 9,3% kế hoạch năm, trong đó nguồn vốn trong nước cho vay theo kế hoạch thực hiện thấp, chỉ đạt 700 tỷ đồng, bằng 3,8% kế hoạch năm; nguồn vốn ODA đạt 600 tỷ đồng, bằng 10% kế hoạch năm; nguồn vốn đầu tư hỗ trợ xuất khẩu đạt 1.000 tỷ đồng.
Thu hút vốn ODA: Từ đầu năm đến 21/2/2005 nguồn ODA được hợp thức hoá bằng việc ký kết các Hiệp định với các nhà tài trợ đạt trị giá khoảng 21 triệu USD, toàn bộ là dự án viện trợ không hoàn lại. Tính chung 2 tháng đầu năm 2005, ước tổng giá trị giải ngân ODA đạt khoảng 158 triệu USD (trong đó vốn vay khoảng 123 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 35 triệu USD), đạt khoảng 9% so với kế hoạch giải ngân năm 2005. Trong tổng mức giải ngân 2 tháng, phần vốn vay của 3 nhà tài trợ lớn (JBIC, WB, ADB) chiếm khoảng 95 triệu USD, tương đương với 77% tổng giá trị giải ngân.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tháng 2 tiếp tục tăng khá, đạt 855 triệu USD, tăng 554 triệu USD so với tháng trước. Tính chung 2 tháng, tổng vốn của các dự án được cấp giấy phép mới và đăng ký tăng thêm đạt 1.156 triệu USD, tăng gần 64% so với cùng kỳ và bằng 25% kế hoạch, trong đó vốn đầu tư được cấp giấy phép mới là 1.032 triệu USD với 97 dự án, tăng gần 140% về vốn đăng ký và tăng hơn 21% về số dự án so với cùng kỳ năm trước; vốn tăng thêm đạt 124 triệu USD với 27 lượt dự án tăng vốn, bằng 45,2% về vốn và tăng 58,8% về số dự án so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư đăng ký tập trung chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, chiếm 18,9% về số dự án cấp mới và 69,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 71,1% về số dự án và 30,4% về số vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 7% về số dự án và 0,3% về số vốn đầu tư đăng ký.
Hà Nội là thành phố thu hút được khối lượng vốn đầu tư lớn nhất, trong 2 tháng đầu năm, chiếm 68,3% tổng vốn đăng ký của cả nước; tiếp đến là Đồng Nai (chiếm 18,5%); thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 6,3%).
Trong tháng 2 năm 2005, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ước đạt 238 triệu USD, đưa tổng vốn thực hiện trong 2 tháng đầu năm 2005 đạt 452 triệu USD, tăng gần 9% (tương đương 122 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2004.
Tình hình triển khai kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước năm 2005
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14/1/2005 của Chính phủ, nhiều Bộ, ngành, địa phương đã triển khai phân bổ vốn đầu tư giao cho các đơn vị cơ sở thực hiện. Tính đến ngày 24/2/2005 có 53/82 Bộ, ngành có văn bản triển khai kế hoạch 2005, với tổng số vốn bằng 18.906 tỷ đồng, đạt khoảng 87,5% tổng số vốn được giao kế hoạch. Các Bộ có khối lượng vốn đầu tư ngân sách lớn đã triển khai giao kế hoạch đúng quy định về thời gian. Có 63/64 tỉnh, thành phố đã triển khai kế hoạch tới các cơ sở. Tuy nhiên, trong số các Bộ ngành đã triển khai kế hoạch vẫn còn dự án chưa đủ thủ tục đầu tư (chưa có quyết định đầu tư, chưa có quyết định phê duyệt tổng dự toán) hoặc bố trí vốn quá thời hạn quy định (nhóm B quá 4 năm, nhóm C quá 2 năm).
Hiện nay còn 29 đơn vị thuộc Trung ương quản lý và tỉnh Thanh Hoá chưa giao xong kế hoạch.
Bước đầu nhận xét, việc bố trí kế hoạch đầu tư đã có tiến bộ hơn so với những năm trước đây. Các Bộ, ngành, địa phương phân bổ vốn đầu tư và giao kế hoạch nhanh gọn hơn, chấp hành nghiêm túc hơn Chỉ thị 29/2004/CT-TTg ngày 16/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14/1/2005 của Chính phủ về bố trí tập trung vốn đầu tư và bảo đảm thủ tục đầu tư. Nhiều địa phương đã dành một phần vốn đáng kể so với tổng số vốn phân bổ để trả nợ xây dựng cơ bản như Bình Định 38,5%; Phú Yên 44,6%; Tiền Giang 48,2%; Long An 32,5%.
Tuy nhiên, còn một số Bộ, ngành, địa phương triển khai phân bổ vốn đầu tư còn chưa đúng quy định như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn còn 8 dự án nhóm C chưa có quyết định đầu tư, 32 d�� án chưa có thiết kế, tổng dự toán được duyệt, 42 dự án nhóm B bố trí thời gian hoàn thành quá 4 năm, 46 dự án nhóm C bố trí vốn quá 2 năm; Bộ Quốc phòng: 47 công trình, dự án nhóm B, C (thuộc nguồn vốn ngân sách tập trung) chưa có thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán được duyệt, 41 dự án nhóm B, C bố trí vốn để hoàn thành vượt quá thời gian quy định.
Bước đầu tổng hợp kế hoạch phân bổ vốn đầu tư năm 2005 của 49 tỉnh, thành phố có 1.007 dự án nhóm B, C tương ứng với 2.360 tỷ đồng bố trí vốn hoàn thành vượt quá thời gian quy định. Một số địa phương bố trí vốn đầu tư còn phân tán như bình quân 1 dự án nhóm C của tỉnh Phú Thọ là 0,63 tỷ đồng/dự án, Quảng Ninh 0,52 tỷ đồng/dự án, Hà Tĩnh 0,62 tỷ đồng/dự án, Hà Nam 0,34 tỷ đồng/ dự án.
Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát kế hoạch phân bổ vốn đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương, đồng thời tổng hợp tình hình triển khai kế hoạch đầu tư phát triển năm 2005 của các Bộ, ngành và địa phương để báo cáo Chính phủ trong quý I năm 2005. Một số sai sót trong việc triển khai phân bổ vốn đầu tư của các đơn vị so với quy định đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến bằng văn bản.
Tình hình thực hiện và kết quả giải ngân vốn trái phiếu Chính phủ:
Nhìn chung, tiến độ thực hiện các dự án và kết quả giải ngân vốn đầu tư còn chậm. Tổng số kế hoạch vốn đã phân bổ cho các dự án năm 2003 và năm 2004 là 10.277 tỷ đồng; giá trị khối lượng hoàn thành đề nghị thanh toán đến ngày 31/12/2004 đạt 6.670,8 tỷ đồng bằng 64,9% kế hoạch đã giao; trong đó các dự án thuộc Trung ương quản lý đạt 6.151,8 tỷ đồng bằng 67,4% kế hoạch. Các dự án do địa phương quản lý 519 tỷ đồng đạt 44,9%. Tổng số vốn đã giải ngân tính đến ngày 31/12/2004 là 7.816,6 tỷ đồng, bằng 76,1% kế hoạch đã giao; trong đó các dự án do Trung ương quản lý là 7.186,1 tỷ đồng, đạt 78,8% kế hoạch vốn đã giao. Các dự án do địa phương quản lý 630,5 tỷ đồng, đạt 54,6% kế hoạch vốn đã giao.
Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc giải ngân chậm như sau:
- Chậm hoàn thiện các thủ tục về đầu tư xây dựng
Bộ Giao thông Vận tải có 20 dự án lớn, bao gồm 126 dự án thành phần, tuy nhiên cho đến nay mới có 100 dự án thành phần có phê duyệt quyết định đầu tư, trong đó mới có 56 dự án đã được phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán; 26 dự án còn lại đang làm công tác chuẩn bị đầu tư và 70 dự án đang tiến hành hoàn chỉnh công tác chuẩn bị thực hiện dự án (thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán).
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn triển khai 20 dự án lớn; tuy nhiên, cho đến thời điểm này mới chỉ có 13 dự án có phê duyệt quyết định đầu tư và có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán hoặc dự toán thành phần được phê duyệt theo đúng quy định, còn lại 7 dự án chưa có phê duyệt quyết định đầu tư, bao gồm 5 dự án đang trong giai đoạn trình duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, 2 dự án đang trình duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; số dự án còn lại đang tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị thực hiện dự án. Hệ thống tư vấn lập dự án và tư vấn thẩm định, phê duyệt dự án quá tải; thiết kế kỹ thuật và lập tổng dự toán hầu hết đều chậm trễ.
- Giải phóng mặt bằng chậm, điển hình là các dự án giao thông triển khai trên địa bàn các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Sơn La, Tuyên Quang, Hà Giang, Hà Nội,… , các dự án thuỷ lợi triển khai tại tỉnh Hà Tây.
- Công tác đấu thầu của một số dự án chậm.
- Công tác nghiệm thu khối lượng, hoàn thành thủ tục thanh toán giữa Bên A và B để gửi đến cơ quan cấp phát thanh toán vốn vẫn còn chậm, mặc dù khối lượng thực hiện thực tế tại hiện trường là khá lớn.
5. Tài chính, tiền tệ, giá cả
Thu Ngân sách Nhà nước: Thu ngân sách 2 tháng đầu năm 2005 nhìn chung vẫn thuận lợi, tiến độ thu NSNN đạt khá, ước đạt 28.373 tỷ đồng, bằng 15,5% dự toán, trong đó: thu nội địa 7.871 tỷ đồng, bằng 16,2% dự toán; thu từ dầu thô 6.546 tỷ đồng, bằng 17,2% dự toán, riêng thu cân đối NSNN từ xuất nhập khẩu đạt thấp do thực hiện hoàn thuế giá trị giá tăng và chi phí quản lý thu thuế tăng cao so với cùng kỳ, ước đạt 4.562 tỷ đồng, bằng 12,1% dự toán....
Chi Ngân sách nhà nước: Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng chi NSNN ước đạt 30.495 tỷ đồng, bằng 13,3% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 9.280 tỷ đồng, bằng 14,1% dự toán; chi trả nợ và viện trợ 5.282 tỷ đồng, bằng 15,2% dự toán; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội 15.133 tỷ đồng, bằng 14,9% dự toán; chi cải cách tiền lương 800 tỷ đồng, bằng 3,9% dự toán.
Bội chi ngân sách ở mức 2.122 tỷ đồng, bằng 5,2% dự toán năm.
Chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ tháng 2 tăng 2,5% so với tháng 1 năm 2005, trong đó lương thực, thực phẩm tăng 4,1% (lương thực tăng 2,5%; thực phẩm tăng 4,3%); đồ uống và thuốc lá tăng 1,7%; văn hoá thể thao giải trí tăng 1,7%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 1,6%; phương tiện đi lại tăng 0,8%; hàng may mặc, giày dép và mũ nón tăng 0,5%; các nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng, thiết bị và đồ dùng gia đình, dược phẩm y tế đều tăng 0,4%.
Tính chung cả 2 tháng, giá tiêu dùng và dịch vụ tăng 3,6%, thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 4,1%), trong đó nhóm hàng lương thực và thực phẩm tăng 5,9% (lương thực tăng 3,9%, thực phẩm tăng 6,3%); đồ uống và thuốc lá tăng 2,5%; may mặc, mũ nón, giày dép 1,2%; thiết bị và đồ dùng sinh hoạt tăng 1,2%, dược phẩm y tế tăng 0,8%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 1,1%; văn hoá, thể thao, giải trí tăng 2%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 2,5%. Giá vàng giảm 3,8%, giá đô la Mỹ tăng 0,1%.
Nguyên nhân chỉ số giá tiêu dùng tăng cao chủ yếu do sức mua có khả năng thanh toán của xã hội trong dịp Tết Nguyên đán tăng khoảng 20-30% so với năm ngoái (do thực hiện chế độ tiền lương mới, tiền thưởng cho người lao động của các doanh nghiệp trong dịp Tết, cùng với lượng ngoại tệ, kiều hối chuyển về nước chi dùng dịp Tết nhiều hơn); ngoài ra còn do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm kéo giá các loại thực phẩm khác tăng cao.
Tuy nhiên, đáng chú ý là chỉ số giá hai tháng đầu năm tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước nhưng sau Tết mức giá hàng hoá hầu như không giảm theo quy luật, vì vậy đòi hỏi có sự quản lý và điều hành giá cả hợp lý nhằm bảo đảm chỉ số giá trong những tháng tới tăng trong tầm kiểm soát và không vượt quá mức tăng giá do Quốc hội đã thông qua.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI
1. Y tế, chăm sóc sức khỏe:
Ngành Y tế đã triển khai thực hiện tốt công tác phòng chống các loại bệnh dễ phát sinh thành dịch như tả, sốt rét, sốt xuất huyết, đồng thời chỉ đạo sát các địa phương quan tâm nhiều đến công tác bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, nhất là trong dịp Tết Ất Dậu. Do làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh nên trong tháng 2 không xảy ra các dịch bệnh lớn. Riêng về HIV/AIDS, trong tháng đã phát hiện thêm 948 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người mắc bệnh HIV/AIDS cả nước lên 77.478 người. Số người chết do bệnh AIDS là 115 người, đưa tổng số người chết do AIDS là 6.700 người.
Ngành Y tế cũng đã cùng các ngành hữu quan tăng cường công tác kiểm tra tình hình tiêu thụ thịt gia cầm và vệ sinh an toàn thực phẩm trong dịp Tết, góp phần hạn chế lây lan dịch cúm gia cầm và không có các vụ ngộ độc thực phẩm lớn xảy ra.
2. Văn hóa - thông tin, phát thanh truyền hình:
Các địa phương đã tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, vui chơi giải trí, các lễ hội truyền thống, bắn pháo hoa vào thời điểm giao thừa, đồng thời có biện pháp chủ động ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc, phá rối trật tự công cộng.
Các chương trình phát thanh truyền hình có nội dung phong phú, tập trung phản ánh cuộc sống vui tươi của nhân dân trên mọi miền đất nước và kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng, các hoạt động đón Tết Ất Dậu qua chương trình Cầu Truyền hình mừng Xuân, mừng Đảng. Tổ chức giới thiệu Báo Tết Ất Dậu.
Các báo Tết đều đưa tin về hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đi thăm các gia đình chính sách, người có công, người nghèo trong dịp Tết. Đưa tin biểu dương các hoạt động trợ giúp người nghèo ở các địa phương và hoạt động kinh tế - xã hội đang diễn ra ở các địa phương trên cả nước.
3. Về cứu trợ xã hội:
Trong dịp Tết Nguyên đán, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đi thăm hỏi, chúc tết và tặng quà các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, các bà mẹ Việt Nam anh hùng…
Chính quyền địa phương các cấp đã tổ chức chăm lo chu đáo đời sống tinh thần và vật chất cho các đối tượng diện chính sách, bà con nghèo với tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tặng quà Tết cho các hộ gia đình nghèo thuộc diện chính sách ở vùng sâu, vùng xa; tổ chức cho trẻ em mồ côi, trẻ em nghèo, khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ăn tết vui vẻ. Nhiều địa phương đã tổ chức các hoạt động đầy ý nghĩa như “Mười nghìn bánh chưng” để hỗ trợ các bệnh nhân nghèo đang điều trị và gia đình người bệnh không thể về quê ăn Tết.
Nhiều địa phương chủ động trích ngân sách, huy động sự tài trợ của các công ty, đơn vị kinh doanh để chăm lo Tết cho các đối tượng người có công, thuộc diện chính sách xã hội và hộ nghèo, như trao tặng nhà tình nghĩa, tình thương, tặng quà Tết. Trong dịp Tết Nguyên đán, có khoảng 200 nghìn hộ nghèo, 300 nghìn đối tượng chính sách xã hội và có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được tặng quà Tết với mức 60 nghìn đến 100 nghìn đồng/ suất từ ngân sách địa phương. Tổng trị giá quà tặng Tết là 150 tỷ đồng. Các đối tượng người có công được trao quà của Chủ tịch nước với tổng trị giá khoảng 14 tỷ đồng.
Các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực hỗ trợ đồng bào, đặc biệt là những gia đình có nhiều khó khăn. Lãnh đạo Ủy ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng các huyện, thị xã tổ chức thăm hỏi tất cả các xã vùng đồng bào thiểu số và tặng quà với mức bình quân 2 triệu đồng/xã và 200 nghìn đồng/gia đình tiêu biểu. Nhiều tổ chức của tỉnh cũng tổ chức tặng quà đồng bào dân tộc thiểu số với tổng trị giá hàng trăm triệu đồng.
4. Tình hình tai nạn giao thông
Tháng 1 năm 2005 đã xảy ra 1.346 vụ tai nạn giao thông làm chết 1.012 người (tăng 23 vụ và giảm 42 người chết so với cùng kỳ năm 2004). Đặc biệt trong dịp Tết Ất Dậu tai nạn giao thông đã tăng đột biến. Chỉ tính riêng từ ngày 30 đến mùng 6 Tết đã xảy ra 560 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 284 người, bị thương 688 người. Tai nạn đường sắt xảy ra 2 vụ làm 2 người chết và 1 người bị thương. Nguyên nhân tai nạn tăng cao trong dịp Tết chủ yếu do lượng ô tô, xe máy tham gia giao thông tăng đột biến vào dịp Tết, do người điều khiển phương tiện giao thông uống nhiều rượu, bia và lực lượng giao thông chưa đủ để kiểm tra, giám sát việc đi lại của người dân; ngoài ra yếu tố thời tiết xấu (mưa phùn, trời tối) cũmg là nguyên nhân làm tăng tai nạn giao thông trong những ngày Tết.
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội trong hai tháng đầu năm 2005 giữ được tốc độ tăng trưởng khá, cụ thể là:
|
2 tháng
2004
|
2 tháng
2005
|
1. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (%)
|
15.6
|
16.0
|
2. Diện tích gieo cấy lúa Đông xuân (ngh. Ha)
|
2,382
|
2,475
|
% so với cùng kỳ
|
90.5
|
94
|
3. Giá trị xuất khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng xuất khẩu (%).
|
3,327
8.2
|
4,078
16.2
|
4. Giá trị nhập khẩu (triệu USD)
|
3,637
|
4,903
|
Tốc độ tăng nhập khẩu (%)
|
6.9
|
24.2
|
5. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ (%)
|
16.2
|
18.5
|
6. Thực hiện vốn đầu tư tập trung (tỷ đồng )
|
5,300
|
9,800
|
So với kế hoạch (%)
|
14. 3
|
15. 4
|
7. Thu Ngân sách Nhà nước (ngh. tỷ đồng)
|
23.82
|
28.37
|
% so với dự toán
|
10. 4
|
15. 5
|
8. Chi ngân sách nhà nước (ngh. tỷ đồng)
|
26.08
|
30.49
|
% so với dự toán
|
9. 3
|
13. 3
|
9. Chỉ số giá tiêu dùng (%)
Trong đó: - Thực phẩm
|
4. 1
8. 5
|
3. 6
4. 3
|
- Lương thực
|
3. 6
|
2. 5
|
Nhiệm vụ của năm 2005 hết sức nặng nề, trong 2 tháng đầu năm tình hình kinh tế - xã hội đã giữ được tốc độ tăng trưởng khá nhưng để đạt được mục tiêu Quốc hội đã thông qua, đó là tốc độ tăng GDP 8,5% (công nghiệp 11%, dịch vụ 8,2%, nông nghiệp 3,8%), từng Bộ, ngành, địa phương cần đề ra những giải pháp mang tính đột phá hơn và kịp thời chỉ đạo tháo gỡ mọi khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong những tháng tới tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với những ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
(1) Rà soát, phân loại sản phẩm để tập trung ưu tiên phát triển sản xuất đối với những ngành, sản phẩm công nghiệp có thể tạo ra giá trị sản xuất và giá trị gia tăng cao, hoặc những ngành không có giá trị sản xuất tăng cao nhưng có giá trị gia tăng cao.
Triệt để tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu trong sản xuất kinh doanh, giảm chi phí sản xuất. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 23/2004/CT-TTg ngày 18 tháng 6 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh các biện pháp tiết kiệm xăng dầu.
Các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh rà soát toàn bộ quy trình sản xuất và quản lý, đổi mới công nghệ, tiết kiệm định mức tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu, nhất là nhiên liệu để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
(2) Tập trung khai thác và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh các ngành dịch vụ đặc biệt đối với những ngành còn nhiều tiềm năng như vận tải, hàng không, viễn thông, du lịch, dịch vụ tài chính, tín dụng, bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn về thị trường, pháp luật, đầu tư, công nghệ... đồng thời chú ý tăng cao hơn chất lượng dịch vụ.
(3) Nghiên cứu sửa đổi những văn băn pháp quy để triển khai Luật Đất đai một cách đồng bộ tránh gây phiền hà cho người dân, đặc biệt là trong việc cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng trên một khu đất (một giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp, một giấy chứng nhận về quyền sở hữu nhà lại do Bộ Xây dựng cấp).
(4) Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan chỉ đạo các địa phương bị hạn khẩn trương thực hiện có hiệu quả các biện pháp chống hạn, trước hết ưu tiên nước phục vụ sinh hoạt của nhân dân, nước cho chăn nuôi gia súc và nuôi duỡng lúa vụ đông xuân; các địa phương có kế hoạch sử dụng nước tưới hợp lý, tiết kiệm.
Theo dõi sát diễn biến dịch bệnh cúm gia cầm, thực hiện hiệu quả các biện pháp ngăn chặn dịch cúm gia cầm để sớm chấm dứt dịch bệnh. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Bộ Y tế xác định những tỉnh không có ổ dịch mới phát sinh trong một thời gian dài được khôi phục lại và phát triển đàn gia cầm theo trình tự, bước đi phù hợp, nhất là khâu kiểm dịch giống gia cầm sạch bệnh để cung cấp cho sản xuất.
Hai là, sớm bình ổn giá cả trong những tháng tới, bảo đảm việc tăng giá trong tầm kiểm soát của Nhà nước, cần nghiên cứu giá điện đồng bộ tránh việc tăng giá gây bất bình trong dân; phấn đấu kìm giữ chỉ số giá tiêu dùng và dịch vụ theo mức Quốc hội đã thông qua.
Tăng cường công tác quản lý thị trường, có các biện pháp cụ thể (hành chính, kinh tế) ngăn chặn và xử lý hiện tượng tăng giá các sản phẩm một cách không hợp lý; kiểm soát chặt chẽ việc định giá, chi phí giá thành đối với các sản phẩm độc quyền và các ngành sản xuất cung ứng vật tư nguyên liệu quan trọng;
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra giá; tổ chức hệ thống đại lý tốt, có khả năng kiểm soát đối với một số sản phẩm quan trọng đăc biệt là những sản phẩm là đầu vào của các ngành sản xuất khác như như sắt thép, xi măng, phân bón…
Ba là, tập trung dứt điểm việc giao kế hoạch cho các đơn vị cơ sở và đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng, nhất là các dự án đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ.
Các Bộ, ngành địa phương cần tập trung giao dứt điểm kế hoạch năm 2005 để tạo điều kiện cho các đơn vị cơ sở chủ động triển khai kế hoạch ngay từ đầu năm (đến nay vẫn còn 29/82 Bộ, ngành chưa thực hiện xong việc giao kế hoạch).
Đối với các dự án đầu tư bằng trái phiếu Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phải đẩy nhanh việc hoàn tất các thủ tục đầu tư và xây dựng, phê duyệt dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán của các dự án thuộc Quyết định 182/2003/QĐ-TTg, đã có trong kế hoạch năm 2004 và dự kiến kế hoạch 2005 lựa chọn các nhà thầu có năng lực tài chính để các dự án có thể triển khai thực hiện công tác xây lắp và giải ngân được, nhất là đối với các dự án trong kế hoạch năm 2005.
Các Bộ, ngành phối hợp chặt chẽ với UBND các tỉnh có dự án triển khai trên địa bàn, kịp thời, kiên quyết giải quyết các vướng mắc trong khâu giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư để các chủ đầu tư triển khai nhanh các dự án theo tiến độ phê duyệt.
Đối với các dự án di dân tái định cư phục vụ triển khai các dự án thuỷ điện, thuỷ lợi lớn, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố cần khẩn trương hoàn thành công tác quy hoạch chi tiết; chủ động trong việc cụ thể hoá các chế độ chính sách thuộc thẩm quyền địa phương đối với các đối tượng phải di dời; đẩy nhanh tiến độ thực hiện để giao mặt bằng triển khai dự án đúng hạn; kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh.
Các Bộ, ngành và địa phương có dự án thường xuyên đôn đốc, kiểm tra tình hình triển khai thực hiện của các chủ đầu tư theo đúng tiến độ, chấp hành nghiêm túc chế độ quản lý theo quy định, thực hiện công khai dân chủ việc bồi thường và hỗ trợ người dân di chuyển. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành quản lý có liên quan để xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ khắc phục ngay các khó khăn, ách tắc phát sinh trong quá trình triển khai.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương liên quan sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cần xác định nhu cầu vốn trong năm 2005 để có phương án tiếp tục phát hành theo kế hoạch huy động đã dự kiến để đáp ứng đủ vốn theo tiến độ cho các dự án, đồng thời tránh ứ đọng vốn.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư