Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015
    
    
        Báo cáo của  Chính phủ 
về tình hình  kinh tế - xã hội năm 2013, 
kết quả 3 năm  thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) 
và nhiệm vụ  2014-2015
(do Thủ tướng  Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 6 Quốc hội  khóa XIII, ngày 21 tháng 10 năm 2013)
_______
 
 Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị  khách,
Thưa đồng chí đồng bào,
Thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo Quốc  hội và đồng bào cả nước những nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế, xã hội năm  2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 và nhiệm vụ năm 2014 -  2015.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013, KẾT QUẢ  3 NĂM THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011 - 2015 
Các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội XI về  kế hoạch 5 năm  2011 - 2015 được xây dựng trong bối cảnh hầu hết các nước trên  thế giới thực hiện các chính sách hỗ trợ tăng trưởng nhằm đối phó với khủng  hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; nhiều dự báo lạc quan về triển  vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế thế giới. Tình hình trong nước có nhiều thuận  lợi, chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế từ năm 2009 phát huy hiệu quả. Kết  thúc kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, tăng trưởng kinh tế đạt bình quân khoảng  7,0%/năm. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển và hoàn thành nhiều mục  tiêu Thiên niên kỷ. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm được đề ra trên cơ  sở tăng trưởng khá cao của 5 năm trước và chưa lường hết được hậu quả tiêu cực  của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu tác động nặng nề đến nền  kinh tế nước ta.
Trong gần 3 năm qua, tình hình thế giới có nhiều  diễn biến rất phức tạp. Xung đột và thiên tai xảy ra ở nhiều nơi. Kinh tế thế  giới phục hồi chậm hơn dự báo. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế  toàn cầu lần này được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ Đại suy thoái kinh tế  thế giới 1929  - 1933. Nhiều nước công nghiệp phát triển đã điều chỉnh mạnh  chính sách để bảo hộ sản xuất trong nước. Cạnh tranh quyết liệt giữa các nước  lớn tại khu vực và diễn biến phức tạp trên Biển Đông, Biển Hoa Đông... Thực  trạng trên tác động bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Trong nước, những hạn chế yếu kém vốn có của nền  kinh tế cùng với mặt trái của chính sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát  tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tăng trưởng  chậm lại, sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Thiên  tai, dịch bệnh gây thiệt hại nặng nề. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp  trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhu cầu an sinh xã hội,  phúc lợi xã hội, cải thiện môi trường sống và bảo đảm quốc phòng an ninh ngày  càng cao trong khi nguồn lực còn hạn hẹp.
Trước diễn biến mới của tình hình, ngay sau Đại hội  XI, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời điều chỉnh mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm  theo hướng tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì  tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội... Quốc hội đã ban hành các nghị  quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm. Chính phủ đã  quản lý, điều hành quyết liệt thực hiện các nghị quyết của Đảng và Nhà nước phù  hợp với thực tế tình hình. Đây là những quyết sách kịp thời, đúng đắn, có ý  nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất  nước.
Đồng thời, toàn Đảng, các ngành, các cấp đã dành  nhiều thời gian, công sức để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về  “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và sửa đổi Hiến pháp.
Nhờ sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân, toàn quân, cộng  đồng doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý  của Nhà nước, tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, đúng  hướng trên các lĩnh vực.
Trên cơ sở kết quả 9 tháng đầu năm và ước thực hiện  các tháng cuối năm, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội và đồng bào cả nước tình hình  kinh tế, xã hội năm 2013 và kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế  - xã hội 5 năm 2011 - 2015 trên các nội dung chủ yếu sau:
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát  được kiểm soát
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiềm chế lạm  phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính  sách tài khóa và tiền tệ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm từ 18,13% năm 2011  xuống còn 6,81% năm 2012, 9 tháng năm 2013 là 4,63%, dự báo cả năm khoảng 7% (kế  hoạch khoảng 8%). 
Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng được  kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo  đảm tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý[1].  Mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay giảm mạnh[2].  Tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng nhanh, đạt mức khoảng 12 tuần nhập  khẩu[3].  Tình trạng đô-la hóa, vàng hóa giảm đáng kể. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam  tăng lên.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để đẩy mạnh xuất  khẩu. Xuất khẩu 9 tháng tăng 15,7%, ước cả năm tăng 14,4% (kế hoạch 10%); bình  quân 3 năm tăng 22%/năm (kế hoạch 5 năm 12%/năm). Nhập khẩu năm 2013 ước tăng  15,6%, nhập siêu khoảng 0,4% tổng kim ngạch xuất khẩu (kế hoạch 8%). Cán cân  thương mại được cải thiện rõ rệt[4].  Quan hệ thương mại và đầu tư tiếp tục được mở rộng với hầu hết các quốc gia và  nền kinh tế.
Tăng cường quản lý ngân sách, chống thất thu và tiết  kiệm chi. Năm 2011 - 2012 đã cố gắng cân đối ngân sách theo kế hoạch. Năm 2013,  thu ngân sách khó khăn, tổng thu ước đạt 96,9%, tổng chi ước đạt 100,8% dự toán.  Bội chi khoảng 5,3% GDP. Nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong  giới hạn an toàn[5].
Thị trường trong nước tiếp tục phát triển. Hàng tồn  kho giảm mạnh[6].   Giá cả các hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu như điện, xăng dầu, than, y tế…  từng bước được thực hiện theo cơ chế thị trường với lộ trình phù hợp gắn với hỗ  trợ các đối tượng chính sách, người nghèo.
Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Vốn  FDI đăng ký mới và thực hiện năm sau cao hơn năm trước, chiếm khoảng 25% tổng  vốn đầu tư toàn xã hội và đã tập trung hơn vào công nghiệp chế biến, chế tạo,  công nghệ cao. Chín tháng, vốn FDI đăng ký tăng 36,1%, vốn thực hiện tăng 6,4%;  vốn ODA ký kết tăng 8,83%, giải ngân tăng 8,68%. Cùng với các nguồn vốn khác  đang được huy động, tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2013 ước đạt 29,1% GDP.
2. Kinh tế có bước phục hồi
Đã tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh  doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, hàng tồn kho và hướng tín dụng vào  các lĩnh vực ưu tiên[7].  Năm 2011 tăng trưởng GDP đạt 6,24%, năm 2012 chỉ đạt 5,25%; năm 2013 tăng trưởng  quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 4,76%, quý II tăng 5%, quý III tăng  5,54%), cả năm ước tăng khoảng 5,4%[8].  Bình quân 3 năm, GDP tăng khoảng 5,6%/năm[9].  Sản xuất công nghiệp, xây dựng từng bước được phục hồi; khu vực nông nghiệp tiếp  tục tăng trưởng ổn định; các ngành dịch vụ tăng trưởng khá[10].  Trong 9 tháng, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 10,8% và có trên 11,2  nghìn doanh nghiệp đã hoạt động trở lại.
Chất lượng tăng trưởng có bước được nâng lên. Vốn  đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn[11].  Hệ số ICOR giảm từ 6,7 giai đoạn 2008 - 2010 xuống còn 5,53 giai đoạn 2011 -  2013. Năng suất lao động năm 2013 tăng 10,1% so với năm 2010. Tiêu hao điện năng  trên một đơn vị GDP giảm[12].
3. Tái cơ cấu kinh tế đạt kết quả bước đầu
Đã tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách tái cơ  cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện Đề án tổng thể đã được phê  duyệt, các ngành, các địa phương tích cực xây dựng và triển khai các đề án,  chương trình hành động; rà soát nâng cao chất lượng quy hoạch; tăng cường ứng  dụng khoa học công nghệ; thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp, sản phẩm, thị  trường.
Về tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Đã điều chỉnh cơ cấu và cơ chế phân bổ vốn đầu tư; tập trung vốn cho các  công trình, dự án quan trọng, cấp thiết và vốn đối ứng cho các dự án ODA. Kiểm  soát chặt chẽ các dự án, công trình khởi công mới, khắc phục một bước tình trạng  đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Thực hiện cơ chế quản lý, cân đối vốn đầu tư theo  kế hoạch trung hạn. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư, bảo đảm quản lý  thống nhất của trung ương, tăng cường trách nhiệm của địa phương và chủ đầu tư.  Đẩy mạnh thu hút đầu tư xã hội. Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng  từ 61,3% giai đoạn 2006 - 2010 lên 62,6% giai đoạn 2011 - 2013.
Về tái cơ cấu tài chính, tín dụng, trọng tâm là  các ngân hàng thương mại. Đã triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hệ  thống các tổ chức tín dụng và đạt được kết quả bước đầu. Hoạt động của hệ thống  ngân hàng được kiểm soát và bảo đảm an toàn. Các ngân hàng yếu kém được cơ cấu  lại[13].  Đã cổ phần hóa 4 ngân hàng thương mại nhà nước. Chuyển Quỹ Tín dụng Nhân dân  Trung ương thành Ngân hàng Hợp tác xã. Thanh khoản được cải thiện, sức cạnh  tranh của nhiều ngân hàng thương mại được nâng lên. Hoàn thiện các quy định về  an toàn và tăng cường giám sát, thanh tra hoạt động của các tổ chức tín dụng.  Chủ động xử lý nợ xấu, kiềm chế nợ xấu gia tăng[14]  và đã đưa Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) vào hoạt động.  Rà soát, ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng. Thực hiện cơ  cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán, bảo hiểm.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đã tập  trung hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước. Triển  khai thực hiện nhiều văn bản pháp luật[15]  theo hướng tăng cường quản lý nhà nước và xác định rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa  vụ của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp; đề cao trách nhiệm, phát huy tính  tự chủ và công khai minh bạch của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường theo quy  định của pháp luật và thông lệ quốc tế.
Đã triển khai Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước  giai đoạn 2011 - 2015, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và cung ứng  các dịch vụ công thiết yếu, quốc phòng an ninh[16].  Thực hiện tái cơ cấu từng tập đoàn và tổng công ty, phê duyệt điều lệ tổ chức và  hoạt động, xác định nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh chính, thoái vốn đầu tư  ngoài ngành, đẩy mạnh cổ phần hóa[17],  đổi mới quản trị doanh nghiệp, tăng cường kiểm soát nội bộ và công tác quản lý  cán bộ. Đã thực hiện Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ và Tổng công  ty Hàng hải Việt Nam. Hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà  nước có bước được cải thiện[18].  Doanh nghiệp nhà nước cơ bản thực hiện được vai trò nhiệm vụ được giao. Quản lý  nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được  hoàn thiện, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công  nghiệp hóa, hiện đại hóa[19].  Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, đã tập trung phát triển các ngành có hàm  lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, sản xuất hàng xuất khẩu, công  nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. Tỷ trọng công nghiệp chế  biến, chế tạo tăng từ 60,2% năm 2010 lên khoảng 78% năm 2013. Quản lý nhà nước  về đô thị được tăng cường. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 30,5% năm 2010 lên 33,4% năm  2013.
Đã triển khai Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo  hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tập trung chuyển đổi cơ  cấu cây trồng vật nuôi, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng  các vùng chuyên canh, sản xuất quy mô lớn, khu nông nghiệp công nghệ cao, liên  kết sản xuất với chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm, tham gia mạng sản xuất  và chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều mô hình tổ chức sản xuất mới phù hợp với năng  lực sản xuất, yêu cầu của thị trường và bảo đảm hài hòa lợi ích được hình thành  và từng bước nhân rộng.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được tích cực  triển khai. Nông thôn có nhiều đổi mới, nhất là về kết cấu hạ tầng kinh tế xã  hội; đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được cải thiện[20].  Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch tích cực; tỷ trọng nông  lâm ngư nghiệp trong kinh tế nông thôn giảm[21];  tỷ trọng lao động nông nghiệp trên địa bàn nông thôn giảm từ 49,5% năm 2010  xuống còn 47% năm 2013. Nông nghiệp và nông thôn luôn đóng góp quan trọng vào sự  ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực dịch vụ, từng ngành và doanh nghiệp  thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và tập trung  phát triển các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học công nghệ  và giá trị gia tăng cao như công nghệ thông tin, truyền thông, tài chính - ngân  hàng, vận tải, logistics, du lịch, thương mại, phân phối... Tăng trưởng khu vực  dịch vụ đạt khá cao liên tục trong 3 năm qua[22].
4. Ba đột phá chiến lược được triển khai  đồng bộ và đã đạt được một số kết quả
Thể chế kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã  hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển  kinh tế xã hội và phát huy quyền làm chủ của người dân. Tổ chức tốt việc lấy ý  kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp. Hoàn thành cơ bản chương trình xây dựng  luật, pháp lệnh[23].  Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trên 2.200  văn bản quy phạm pháp luật[24].  Chất lượng văn bản được nâng lên và từng bước khắc phục tình trạng chậm ban  hành.
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách  hành chính nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy các  bộ ngành, địa phương. Đổi mới chế độ công vụ, công chức, tăng cường công khai  minh bạch, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và trách nhiệm giải trình. Đẩy mạnh  ứng dụng công nghệ thông tin. Triển khai trên diện rộng cơ chế một cửa, một cửa  liên thông tại cấp huyện. Đã đơn giản hóa trên 3.600 thủ tục hành chính. Tiếp  tục cải cách thủ tục, giấy tờ công dân và hoàn thiện các cơ sở dữ liệu liên quan  đến quản lý dân cư.
Về phát triển nguồn nhân lực. Đã triển khai  thực hiện quy hoạch và tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về phát triển  nguồn nhân lực[25].  Trình Trung ương ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào  tạo. Mạng lưới và quy mô giáo dục đào tạo được mở rộng[26],  chất lượng có bước được nâng lên. Quan tâm phát triển giáo dục đào tạo ở các  vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách. Nội  dung, phương pháp giáo dục đào tạo từng bước được điều chỉnh. Đa dạng hóa các  hình thức đào tạo gắn với nhu cầu thị trường[27].  Công tác thi cử, kiểm định chất lượng, ứng dụng công nghệ thông tin, dạy và học  ngoại ngữ có bước tiến bộ. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho dạy và học[28].  Đội ngũ giáo viên phát triển mạnh về số lượng, chất lượng có bước được nâng lên[29].  Quyền tự chủ của các cơ sở đào tạo được mở rộng. Thanh tra, kiểm tra được tăng  cường. Thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên  nghèo[30].  Nhiều học sinh Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế và khu vực[31].  Đẩy mạnh dạy nghề, nhất là cho lao động nông thôn; phát triển thị trường lao  động, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ  40% năm 2010 lên 49% năm 2013.
Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương,  Luật, chiến lược và các chương trình về khoa học công nghệ. Quản lý nhà nước về  khoa học công nghệ được đổi mới. Tiềm lực khoa học công nghệ được tăng cường một  bước[32].  Số công trình nghiên cứu khoa học được công bố và trích dẫn quốc tế năm 2012  tăng khoảng 28% so với năm 2011. Đã đưa vào sử dụng 02 vệ tinh viễn thông và 01  vệ tinh viễn thám. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, trong 3 năm  đã có khoảng 11.700 giao dịch với tổng giá trị trên 5.680 tỷ đồng. Nhiều thành  tựu khoa học công nghệ hiện đại được ứng dụng rộng rãi, nhất là trong các lĩnh  vực nông nghiệp, xây dựng, thông tin, y tế… góp phần thiết thực vào phát triển  và bảo vệ đất nước.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng. Đã rà soát, bổ  sung thể chế và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với tầm nhìn tổng thể, dài  hạn. Tập trung khắc phục tình trạng đầu tư công dàn trải, kém hiệu quả. Tăng  cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước với nhiều hình thức (BOT, BT,  BOO, PPP) cho phát triển kết cấu hạ tầng[33].  Nhiều công trình giao thông, thủy lợi, năng lượng, viễn thông, hạ tầng đô thị đã  được đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Đang tiếp tục đầu tư xây dựng nhiều  công trình mới quan trọng thiết yếu[34].
5. Văn hóa, xã hội có tiến bộ; an sinh xã  hội được bảo đảm; đời sống nhân dân có bước cải thiện
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo việc làm, nhất  là đào tạo nghề, hỗ trợ tín dụng. Ước cả năm tạo việc làm cho khoảng 1,54 triệu  người; 3 năm khoảng 4,6 triệu người, trong đó xuất khẩu lao động 253 nghìn  người. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị luôn ở mức dưới 4%, hiện khoảng  3,48%.
Chính sách tiền lương từng bước được đổi mới theo  nguyên tắc thị trường. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng dần, phù hợp với  điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước[35].  Thu nhập dân cư được nâng lên[36].  Điều kiện lao động và quan hệ lao động có bước được cải thiện; tranh chấp lao  động và đình công giảm mạnh[37].
Số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng[38].  Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đạt kết quả tích cực. Tỷ lệ  hộ nghèo giảm từ 14,2% cuối năm 2010 còn 9,6% cuối năm 2012 và dự kiến còn 7,8%  vào cuối năm 2013[39].  Thành tựu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam được cộng đồng quốc tế  đánh giá cao[40].
Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công và hỗ  trợ các đối tượng chính sách. Trên 98% gia đình người có công có mức sống bằng  hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú. Số người hưởng trợ  cấp xã hội thường xuyên tăng từ 1,7 triệu cuối năm 2010 lên trên 2,5 triệu năm  2013. Mở rộng diện và tăng mức hỗ trợ đối với đồng bào dân tộc thiểu số.  Cấp gạo cho học sinh dân tộc bán trú và học sinh ở vùng đặc biệt khó khăn. Hỗ  trợ chi phí học tập, sinh hoạt cho trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số và ở  vùng khó khăn. Thực hiện tốt công tác cứu trợ đột xuất và khắc phục hậu quả  thiên tai[41].  Các chương trình nhà ở xã hội, cụm tuyến dân cư ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhà ở  tránh lũ ở khu vực miền Trung được tích cực thực hiện. Dư nợ tín dụng cho chính  sách xã hội đến hết tháng 9 năm 2013 đạt 118,5 nghìn tỷ đồng, tăng 32,4% so với  cuối năm 2010.
Mạng lưới và cơ sở vật chất kỹ thuật y tế tiếp tục  phát triển. Chất lượng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh được nâng lên.  Y tế dự phòng được quan tâm, không để bùng phát dịch bệnh lớn. Đã triển khai  nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện. Ưu tiên đầu tư cho các bệnh viện quá tải  cao[42],  nhất là tuyến trung ương và tuyến cuối. Nhiều công trình bệnh viện tuyến tỉnh,  tuyến huyện đã và đang hoàn thành đưa vào sử dụng[43].  Tăng cường quản lý, kiểm soát thuốc, giá thuốc và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tỷ  lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 63% năm 2010 lên 71,2% năm 2013. Tỷ lệ lây  nhiễm HIV/AIDS được khống chế dưới 0,3% dân số.
Tốc độ tăng dân số được kiểm soát. Công tác chăm sóc  người cao tuổi, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, gia đình, bình đẳng giới,  vì sự tiến bộ của phụ nữ có tiến bộ.
Văn hóa, thể thao được quan tâm phát triển. Đã tổng  kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát triển nền văn hóa  Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chú trọng xây dựng con người Việt  Nam phát triển toàn diện; gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Phong  trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với chương trình xây dựng  nông thôn mới được đẩy mạnh. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được  công nhận là di sản văn hóa quốc gia và thế giới[44].  Thực hiện nhiều giải pháp phát triển văn học nghệ thuật. Công tác quản lý lễ hội  được chấn chỉnh một bước. Phát triển thể dục thể thao quần chúng, thể thao thành  tích cao và chuyên nghiệp. Các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế được  đẩy mạnh. Thông tin truyền thông phát triển nhanh[45],  đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của nhân dân.
6. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi  trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng  cường quản lý tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với  biến đổi khí hậu. Đã trình Trung ương ban hành Nghị quyết về tiếp tục đổi mới  chính sách, pháp luật đất đai và Nghị quyết về chủ động ứng phó với biến đổi khí  hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trình Quốc hội Luật đất  đai (sửa đổi). Cơ bản hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực  hiện nhiều giải pháp để quản lý, sử dụng có hiệu quả đất trồng lúa. Tích  cực thực hiện Chiến lược, Nghị quyết của Chính phủ về bảo vệ môi  trường và chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững. Kiên  quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Thực hiện đề  án bảo vệ môi trường một số lưu vực sông. Triển khai các chương trình mục tiêu  quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; về khắc phục ô nhiễm và  cải thiện môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực phòng  tránh và giảm nhẹ thiên tai. Tăng cường giám sát, thanh tra việc thực thi và  xử lý vi phạm.
7. Phòng chống tham nhũng, thực hành tiết  kiệm, chống lãng phí đạt được một số kết quả
Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục được thực  hiện gắn với triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về “Một số vấn đề cấp  bách về xây dựng Đảng hiện nay” và việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh. Đã tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Luật Phòng chống tham  nhũng. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy và thực hiện nhiều giải pháp  phòng chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu  cực. Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc kiểm tra và công khai kết quả xử lý các vụ việc  tham nhũng. Trong gần 3 năm, qua thanh tra đã phát hiện 319 vụ việc với 517 cá  nhân có hành vi liên quan đến tham nhũng[46];  chuyển cơ quan điều tra 111 vụ và 235 cá nhân; xử lý trách nhiệm 52 người đứng  đầu.
Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân và giải  quyết khiếu nại tố cáo. Tăng cường đối thoại, giải quyết khiếu nại ngay từ cơ  sở, hạn chế phát sinh mới các khiếu nại vượt cấp. Đã tập trung rà soát, ra quyết  định xử lý cuối cùng theo quy định của pháp luật đối với 466 trong số 528 vụ  việc tồn đọng kéo dài, bảo đảm công khai minh bạch và lợi ích hợp pháp của người  dân.
8. Quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia  được bảo đảm; hoạt động đối ngoại đạt được nhiều kết quả tích cực
Tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân  được tăng cường. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội  nhân dân được nâng lên theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước  hiện đại. Đi nhanh vào hiện đại một số lực lượng cần thiết và có tầm chiến lược. 
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo  đảm. Thế trận an ninh nhân dân và lực lượng công an nhân dân được tăng cường.  Bảo vệ an toàn tuyệt đối các mục tiêu và các sự kiện quan trọng của đất nước.  Giữ vững an ninh trật tự trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm. Ngăn chặn kịp  thời các âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và chống phá đất nước. Xử  lý hiệu quả các vụ việc phức tạp.
Công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội được  tập trung chỉ đạo. Tội phạm xâm phạm trật tự xã hội được kiềm chế. Đã triệt phá  nhiều băng nhóm tội phạm có tổ chức, nhất là tội phạm kiểu xã hội đen, tội phạm  ma túy, tội phạm kinh tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao… Trật tự an toàn giao  thông có nhiều chuyển biến tích cực. Tai nạn giao thông giảm; ùn tắc giao thông  ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã được khắc phục một bước[47].
Công tác đối ngoại được đẩy mạnh toàn diện; kết hợp  chặt chẽ giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đạt  được nhiều thành tựu quan trọng. Đã chủ động, kiên định trong đấu tranh khẳng  định và bảo vệ chủ quyền, lợi ích chính đáng của đất nước và bảo hộ công dân.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tăng cường đối thoại  chiến lược với nhiều đối tác quan trọng. Đã nâng cấp quan hệ song phương với một  số quốc gia thành đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện[48];  đưa quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, đối tác truyền thống đi  vào chiều sâu. Đã chủ động tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động của ASEAN  và của các tổ chức, các diễn đàn khu vực và quốc tế; đóng góp thiết thực vào  giải quyết những vấn đề khu vực và toàn cầu vì hòa bình, hợp tác và phát triển.  Xử lý phù hợp trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông và những vấn đề mới  phát sinh. Tạo được sự đồng tình ủng hộ ngày càng cao của cộng đồng quốc tế  trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta.
Tích cực khai thác thuận lợi và khắc phục khó khăn  trong thực hiện các Hiệp định thương mại đầu tư đã ký kết, đồng thời chủ động  tham gia đàm phán các Hiệp định thương mại tự do khác để mở rộng thị trường, huy  động nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội và nâng cao tính tự chủ của nền  kinh tế.
Trong những năm qua, bằng các giải pháp và sự phối  hợp hiệu quả, công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã góp phần quan trọng tạo  môi trường và điều kiện thuận lợi cho bảo vệ và phát triển đất nước; nâng cao vị  thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại việc thực hiện kế hoạch năm 2013, trong  15 chỉ tiêu được Quốc hội thông qua, có 11 chỉ tiêu ước đạt và vượt kế hoạch, 2  chỉ tiêu xấp xỉ đạt và 2 chỉ tiêu không đạt[49].  Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn  và phải tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã  hội và quốc phòng an ninh, đạt được kết quả nêu trên là cố gắng lớn của cả hệ  thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
 II. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM
Bên cạnh kết quả đạt được, kinh tế - xã hội vẫn còn  những hạn chế, yếu kém chủ yếu sau:
1. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm  soát nhưng chưa vững chắc. Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi cao hơn kế hoạch.  Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số mặt hàng và dịch vụ thiết  yếu còn chậm, chưa tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội. Hoạt động của một số  tổ chức tín dụng chưa thật an toàn. Thị trường bất động sản, thị trường chứng  khoán còn trầm lắng. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP không đạt  kế hoạch[50].  Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
2. Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Nợ xấu  còn cao[51].  Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn[52].  Tăng trưởng GDP chưa đạt kế hoạch (5,4% so với kế hoạch 5,5%). Công nghiệp tăng  trưởng còn chậm[53].  Xuất khẩu nông sản khó khăn, hiệu quả còn thấp. Khả năng phòng tránh, giảm nhẹ  tác hại của thiên tai đối với sản xuất và đời sống, nhất là sản xuất nông nghiệp  còn nhiều hạn chế[54].
3. Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng  trưởng còn chậm so với yêu cầu. Nhiều ngành, sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp,  chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đổi mới công  nghệ còn chậm. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp[55].  Giải quyết nợ đọng trong xây dựng cơ bản còn chậm. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà  nước và các tổ chức tín dụng chưa đạt yêu cầu; quản trị doanh nghiệp chậm đổi  mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Chất lượng quy hoạch và quản lý quy  hoạch còn nhiều hạn chế. Tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới còn  chậm, ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội.
4. Triển khai thực hiện 3 đột phá chiến lược còn  chậm. Cải cách thể chế chưa đồng bộ, chưa có cơ chế chính sách đột phá thúc đẩy  phát triển. Quy trình xây dựng, chất lượng và tổ chức thực hiện pháp luật, chính  sách còn nhiều bất cập. Cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu. Kỷ luật  kỷ cương hành chính chưa nghiêm, công tác giám sát, thanh tra còn nhiều hạn chế.  Chất lượng giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Cơ cấu đào  tạo chưa hợp lý, thiếu lao động chất lượng cao. Chưa chú trọng đào tạo lại và  đào tạo nâng cao. Việc thu hút người có trình độ cao vào bộ máy hành chính nhà  nước còn nhiều vướng mắc. Đóng góp của khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế  - xã hội chưa nhiều. Hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát  triển, chưa có cơ chế chính sách hiệu quả để thu hút mạnh đầu tư từ khu vực  ngoài nhà nước.
5. Lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu  kém. Giải quyết việc làm chưa đạt kế hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn cao,  nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khoảng cách giàu - nghèo còn lớn. Chăm  sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân nhiều mặt còn hạn chế, một số vụ việc gây bức  xúc trong xã hội. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm. Quản lý  nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Xây dựng nền văn hóa  tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu; tác động của mặt trái cơ chế  thị trường và hội nhập quốc tế chưa được ngăn chặn có hiệu quả; nhiều biểu hiện  xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong xã hội. Công tác quản lý thông tin,  báo chí, nhất là trên internet vẫn còn bất cập.
6. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường  còn nhiều hạn chế, yếu kém. Kỷ luật kỷ cương trong quản lý, khai thác và sử dụng  đất đai, tài nguyên khoáng sản còn chưa nghiêm. Một số công trình thủy điện chưa  thực hiện tốt yêu cầu về an toàn và bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường tại  nhiều khu, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất, lưu vực sông chậm được  cải thiện. Khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu vẫn còn hạn chế. Tình trạng  ngập lụt ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục.
7. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa  đạt yêu cầu so với mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. Tham nhũng,  lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. Công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra hiệu quả  chưa cao, ít phát hiện tham nhũng. Xử lý các vụ việc tham nhũng còn chậm. Tình  trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức gây bức xúc trong  nhân dân chậm được khắc phục. Lãng phí thời gian, nguồn lực còn lớn. Ý thức tiết  kiệm chưa được đề cao.
8. Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức.  An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể  gây mất ổn định ở một số địa bàn. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin  mạng còn nhiều bất cập. Việc khắc phục tình trạng lộ lọt bí mật Nhà nước và đấu  tranh ngăn chặn hành vi lợi dụng internet gây phương hại cho đất nước hiệu quả  chưa cao. Tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc. Tai nạn giao thông  còn diễn biến phức tạp. Khiếu kiện liên quan đến đất đai vẫn còn nhiều.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
1. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân  khách quan và chủ quan. Bên cạnh những vấn đề mới phát sinh vẫn còn những tồn  tại của nhiều năm trước.
1) Tình hình thế giới biến động phức tạp, khó lường.  Khoa học công nghệ phát triển vượt bậc; cạnh tranh trên thị trường thế giới hết  sức gay gắt, toàn cầu hóa diễn ra nhanh, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh  tế ngày càng lớn. Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng. Những biến  động bên ngoài tác động trực tiếp, tức thì đến kinh tế xã hội trong nước; trong  khi tư duy phát triển và khả năng nắm bắt, phân tích, dự báo chưa đáp ứng kịp  yêu cầu nên nhiều chính sách, giải pháp đề ra chưa kịp thời, phù hợp.
2) Nhận thức trên một số vấn đề về chủ trương, quan  điểm đã được đề ra vẫn còn khác nhau dẫn đến đổi mới thể chế, chính sách còn  ngập ngừng, thiếu nhất quán, nhất là về vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước  trong kinh tế thị trường, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, sở hữu và quyền sử  dụng đất đai, giá cả một số mặt hàng và dịch vụ công thiết yếu… chưa tạo được  đột phá để huy động mạnh mọi nguồn lực cho phát triển. Phương thức lãnh đạo của  cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền vẫn chưa đủ rõ, chưa đáp ứng kịp yêu cầu  trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
3) Quản lý nhà nước còn nhiều mặt chưa tốt. Tổ chức  thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã có nhiều cố gắng nhưng  còn chậm, hiệu quả chưa cao. Chưa tập trung được cao nhất nguồn lực và thời gian  để ứng phó với tác động hết sức nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái  kinh tế toàn cầu.
2. Một số kinh nghiệm bước đầu qua 3 năm  thực hiện kế hoạch
Một là, trong bối cảnh mới, phải đột phá  trong đổi mới tư duy phát triển, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm mục tiêu cao  nhất để có chủ trương, chính sách huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước  phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời phải đề cao tinh thần  thượng tôn pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật kỷ cương, tập trung hoàn thiện thể chế  kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.  
Hai là, phải bám sát thực tiễn của đất  nước, nắm bắt nhanh những diễn biến mới và nâng cao năng lực phân tích dự báo để  kịp thời xác định mục tiêu, chính sách, giải pháp phù hợp với thực tế tình hình.  Đồng thời phải quyết liệt, kiên trì, sáng tạo tổ chức thực hiện những chủ trương  đúng đắn đã có của Đảng, Nhà nước.
Ba là, trong quản lý điều hành phải tập  trung cao nhất cho mục tiêu ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô;  đồng thời phải bảo đảm điều kiện cần thiết cho tăng trưởng hợp lý. Trong điều  kiện kinh tế khó khăn vẫn phải ưu tiên nguồn lực để bảo đảm an sinh xã hội, phát  triển nông nghiệp nông thôn và tăng cường tiềm lực cần thiết cho quốc phòng an  ninh. Phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa xã hội và bảo vệ môi  trường.
Bốn là, trong bối cảnh kinh tế xã hội có  nhiều khó khăn vẫn phải huy động phù hợp và sử dụng có hiệu quả cao nhất các  nguồn lực trong nước; đồng thời phải chủ động tăng cường hội nhập quốc tế để thu  hút nhiều nguồn lực từ bên ngoài và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho phát triển  và bảo vệ đất nước.
Năm là, cả hệ thống chính trị phải làm tốt  công tác thông tin, tuyên truyền; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các  đoàn thể nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo đồng thuận xã  hội trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà  nước và giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN  KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014 - 2015
Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường.  Cạnh tranh giữa các nước lớn tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và tranh chấp  chủ quyền trên biển đảo tiếp tục diễn ra gay gắt. Kinh tế thế giới phục hồi chậm  và còn nhiều khó khăn. Liên kết kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong khu vực tiếp  tục chuyển biến sâu sắc theo hướng tăng cường hợp tác và cạnh tranh thông qua  các Hiệp định thương mại tự do. Việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015,  Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), các Hiệp định thương mại tự do  với EU và với các đối tác lớn khác sẽ mở ra cho nước ta những thuận lợi và cơ  hội phát triển mới nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn.
Trong nước, chính trị xã hội ổn định. Kinh tế có  nhiều chuyển biến tích cực, đúng hướng. Kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, điều hành  có bước được nâng lên. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, yếu kém như  đã nêu ở trên, nhất là sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, nhu cầu nguồn  lực để thực hiện 3 đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế, bảo đảm an sinh  xã hội và quốc phòng an ninh là rất lớn trong khi ngân sách còn hạn hẹp. Chúng  ta còn phải dành nhiều công sức để ứng phó với thiên tai ngày càng diễn biến  phức tạp.
1. Mục tiêu tổng  quát
Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát;  phục hồi tăng trưởng và nâng cao chất lượng hiệu quả sức cạnh tranh; đẩy mạnh  thực hiện 3 đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình  tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân  dân. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và chủ động ứng phó với biến  đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí; cải  thiện môi trường kinh doanh. Bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự an  toàn xã hội. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc  tế.
Năm 2014 tập trung cao cho ổn định kinh tế vĩ mô,  kiểm soát lạm phát; đồng thời tranh thủ thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất  kinh doanh, phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn năm 2013.
2. Các chỉ tiêu chủ  yếu năm 2014 - 2015
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân  khoảng 6%/năm.  GDP bình quân đầu người khoảng 2.200 - 2.300 USD vào năm 2015.  Giá tiêu dùng tăng khoảng 7%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 10%/năm.  Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng khoảng 31 - 32% GDP. Giải quyết việc làm cho  3,0 - 3,2 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Tỷ  lệ lao động qua đào tạo đạt 55% vào năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình  quân khoảng 1,5 - 2%/năm, riêng các huyện nghèo giảm 4%. Tỷ lệ che phủ rừng đến  năm 2015 đạt 42%.
3. Các chỉ tiêu kế hoạch năm 2014
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt  khoảng 5,8%. Giá tiêu dùng tăng khoảng 7%. Kim ngạch xuất khẩu tăng 10%. Tỷ lệ  nhập siêu khoảng 6%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng khoảng 30% GDP. Bội chi  ngân sách 5,3% GDP.
Về xã hội: Tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 1,7 -  2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%. Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Tỷ lệ lao động qua đào  tạo đạt 52%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng dưới 15,5%. Số  giường bệnh trên 1 vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 22,5 giường.
Về môi trường: Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi  trường nghiêm trọng được xử lý đạt 85%. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang  hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 80%.  Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,5%. Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt  hợp vệ sinh đạt 84%. Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch 80%. Tỷ lệ chất  thải rắn ở đô thị được thu gom 84,5%.
4. Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
1) Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát  lạm phát
Kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát  lạm phát. Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, chính sách tài khóa  chặt chẽ. Điều hành lãi suất phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Tăng dư nợ  tín dụng phù hợp và bảo đảm chất lượng tín dụng. Điều hành hiệu quả tỷ giá, thị  trường ngoại hối, thị trường vàng, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam. Đẩy mạnh  xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tăng dự trữ ngoại hối. Thúc đẩy phát triển thị  trường vốn, thị trường chứng khoán.
Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước, tập trung  chống thất thu, thực hiện triệt để tiết kiệm, kiên quyết cắt giảm các khoản chi  chưa thật cần thiết. Đề nghị Quốc hội xem xét chấp thuận mức bội chi ngân sách  nhà nước năm 2013 - 2014 là 5,3% GDP, từ năm 2015 sẽ điều chỉnh giảm dần. Dành  bội chi ngân sách cho đầu tư phát triển và trả nợ. Bảo đảm tổng vốn đầu tư từ  ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ năm 2014 không thấp hơn năm 2013 để  thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược và phục hồi tăng  trưởng. Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ trong trần nợ công cho phép (65%  GDP). Kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, bảo  đảm trong giới hạn an toàn. Sử dụng cổ tức từ các doanh nghiệp có cổ phần nhà  nước chưa giao về Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn (SCIC) để bổ sung vốn  đầu tư cơ sở hạ tầng trong 2 năm 2013 - 2014.
Tiếp tục thực hiện cơ chế giá thị trường đối với các  mặt hàng, dịch vụ công thiết yếu như điện, than, xăng dầu, nước, dịch vụ y tế...  theo lộ trình phù hợp, bảo đảm yêu cầu kiểm soát lạm phát, công khai minh bạch  và có hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo. Tăng cường quản lý thị  trường, giá cả.
2) Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh  doanh, bảo đảm tăng trưởng hợp lý
Tăng tổng cầu và hỗ trợ phát triển thị trường trong  nước. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt  Nam”. Thực hiện đồng bộ các giải pháp và khai thác có hiệu quả các cơ hội, các  ưu đãi trong cam kết quốc tế để mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hạn chế phát sinh và đẩy nhanh xử lý nợ xấu theo Đề  án đã được phê duyệt; đề cao trách nhiệm của các tổ chức tín dụng và phát huy  vai trò của Công ty Quản lý tài sản (VAMC). Ưu tiên vốn tín dụng cho nông  nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp  hỗ trợ, công nghệ cao. Điều hành lãi suất cho vay phù hợp và tạo thuận lợi cho  doanh nghiệp tiếp cận vốn.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhất là về thuế,  hải quan, đất đai, thành lập, giải thể doanh nghiệp... tạo thuận lợi và giảm chi  phí cho sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ để phát triển  mạnh doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thực hiện có hiệu quả gói hỗ trợ nhà ở xã hội và  các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản.
Thực hiện các giải pháp hỗ trợ sản xuất kinh doanh  theo đặc thù ngành, các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng đầu tư của nhà nước,  khuyến khích ứng dụng công nghệ cao; chính sách khuyến công, khuyến nông. Hỗ trợ  phù hợp việc tiêu thụ đối với các mặt hàng chủ lực và khắc phục hậu quả thiên  tai, dịch bệnh. Tạo thuận lợi đẩy mạnh phát triển du lịch và các ngành dịch vụ.
3) Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế
Đẩy mạnh thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền  kinh tế, các quy hoạch và đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực; có mục tiêu, kế  hoạch cụ thể, bảo đảm tính đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm và kịp thời rà soát,  bổ sung.
Về tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công.  Triển khai thực hiện hiệu quả Luật đầu tư công, kế hoạch đầu tư trung hạn. Tập  trung vốn cho các công trình trọng điểm, cấp thiết, vốn đối ứng ODA, vốn giải  phóng mặt bằng và vốn tham gia các dự án hợp tác công - tư (PPP). Tăng đầu tư  cho nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, y tế, giáo dục và vùng đặc biệt khó  khăn. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư gắn với tăng cường giám sát,  thanh tra, bảo đảm quản lý thống nhất và đề cao trách nhiệm của địa phương, chủ  đầu tư. Tích cực xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản. Tăng cường quản lý đầu tư, bảo  đảm chất lượng và tiến độ công trình.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư xã hội, đầu tư nước ngoài.  Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp ngoài nhà nước tiếp cận và sử dụng có  hiệu quả nguồn lực và tài nguyên. Thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự  án lớn, công nghệ cao, thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, tạo bước chuyển  mạnh trong chuyển dịch cơ cấu. Sớm xây dựng, phê duyệt, triển khai thực hiện một  số đề án thành lập khu hành chính - kinh tế đặc biệt.
Về tái cơ cấu ngân hàng, thị trường tài chính.  Tiếp tục tái cơ cấu toàn diện các tổ chức tín dụng, nhất là các ngân hàng thương  mại cổ phần yếu kém. Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động của các  ngân hàng thương mại. Tiếp tục cổ phần hóa và nâng cao sức cạnh tranh của các  ngân hàng thương mại quốc doanh. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo  đảm an toàn hệ thống. Xử lý có hiệu quả tình trạng sở hữu chéo. Thực hiện đồng  bộ các giải pháp phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán; tăng cường  quản lý nhà nước đối với các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm  là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Tiếp tục tái cơ cấu các tập đoàn  và tổng công ty nhà nước theo đề án được duyệt. Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa,  tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính, thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo  nguyên tắc thị trường. Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, chú trọng kiểm  soát nội bộ và công tác cán bộ. Tăng cường quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở  hữu và công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra. Thực hiện công khai minh bạch  hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc  tế.
Về tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông  thôn mới. Tổng kết thực hiện Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông  dân, nông thôn. Đẩy mạnh  thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng  cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Hoàn thiện cơ chế chính sách để giữ  và sử dụng hiệu quả đất lúa và phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, chăn  nuôi quy mô lớn, các khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường ứng dụng tiến bộ  khoa học công nghệ. Khuyến khích hợp tác, liên kết từ sản xuất, bảo quản, chế  biến đến tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm hài hòa lợi ích. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới,  nâng cao hiệu quả hoạt động của các nông, lâm trường quốc doanh. Ưu  tiên nguồn lực và huy động toàn xã hội tham gia thực hiện có hiệu quả chương  trình xây dựng nông thôn mới. Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh  ở nông thôn, nhất là các ngành sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm,  tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu lao động. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược  Biển, phát triển có hiệu quả các ngành kinh tế biển. Tiếp tục thực hiện chính  sách hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản xa bờ.
Về tái cơ cấu công nghiệp. Đẩy mạnh tái cơ  cấu các ngành công nghiệp theo hướng chuyển từ gia công chế biến sang sản xuất  và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tập trung phát triển các ngành  công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, sản xuất hàng  xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. Chú trọng  đổi mới công nghệ, nhất là công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng và phát  triển các dạng năng lượng tái tạo. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và bảo đảm chất  lượng đầu tư các dự án công nghiệp trọng điểm. Có chính sách hỗ trợ để phát  triển công nghiệp cơ khí chế tạo.
Về tái cơ cấu dịch vụ. Thực hiện có hiệu  quả Chiến lược phát triển khu vực dịch vụ. Đẩy mạnh phát triển du lịch và các  ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có giá trị gia tăng cao như công nghệ thông  tin và truyền thông, vận tải, logistics, tài chính - ngân hàng...
4) Thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược
Về cải cách thể chế. Tiếp tục hoàn thiện  Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Rà  soát, sửa đổi bổ sung hệ thống luật pháp, trước hết là về tổ chức bộ máy nhà  nước cho phù hợp với Hiến pháp sửa đổi.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định  hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo đột phá trong  thu hút đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và  nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật. Triển khai thực hiện các Luật đất  đai, doanh nghiệp, đầu tư công, xây dựng, đấu thầu... và phát triển đồng bộ các  loại thị trường.
Triển khai thực hiện Kết luận của Trung ương về tiếp  tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Thực hiện có  hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính. Đẩy mạnh triển khai Đề án  đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan  đến quản lý dân cư, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Tiếp tục cải  cách chế độ công vụ, tăng cường công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình,  tăng cường giám sát của nhân dân. Công khai chỉ số cải cách hành chính của bộ  ngành và địa phương. Hoàn thiện cơ chế phân công, phân cấp quản lý gắn với tăng  cường kiểm tra, giám sát.
Về phát triển nguồn nhân lực. Triển khai  thực hiện Nghị quyết của Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và  đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế  thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Thực hiện có hiệu  quả chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của xã hội  và thị trường lao động. Chú trọng tuyển chọn, đào tạo, thu hút, sử dụng nhân tài  và nhân lực chất lượng cao. Tích cực chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ phát triển  điện hạt nhân. Nâng cao hiệu quả dạy nghề, nhất là cho lao động ở nông thôn.
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Trung ương,  chiến lược và các chương trình về phát triển khoa học công nghệ. Tiếp tục đổi  mới quản lý nhà nước về khoa học công nghệ. Phát triển mạnh dịch vụ tư vấn, thẩm  định, giám định, thúc đẩy thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện chính sách  để khuyến khích mạnh doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi  mới công nghệ. Thực hiện cơ chế đặt hàng, cơ chế khoán, mua sản phẩm khoa học  công nghệ. Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phát huy vai trò các quỹ hỗ trợ  phát triển khoa học công nghệ. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển doanh  nghiệp khoa học công nghệ.
Về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Tập  trung nguồn lực phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng. Kiểm  soát chặt chẽ và nâng cao hiệu quả đầu tư công. Thực hiện đồng bộ các giải pháp  vận động tài trợ và đẩy nhanh giải ngân vốn ODA. Khai thác và sử dụng có hiệu  quả nguồn vốn vay thương mại ưu đãi. Đẩy nhanh giải phóng mặt bằng, tập trung  đầu tư để hoàn thành các công trình, dự án cấp thiết về giao thông, thủy lợi,  năng lượng[56].  Hoàn thiện cơ chế, chính sách để huy động mạnh các nguồn lực ngoài nhà nước đầu  tư phát triển kết cấu hạ tầng.
5) Phát triển văn hóa xã hội và bảo đảm an sinh  xã hội
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Trung ương về  một số vấn đề chính sách xã hội. Thực hiện đồng bộ các giải pháp giải quyết việc  làm, nâng cao thu nhập của người lao động, nhất là lao động ở nông thôn. Xây  dựng quan hệ lao động hài hòa, giải quyết tốt các tranh chấp lao động.
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia  giảm nghèo bền vững. Lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án hướng vào  người nghèo, vùng nghèo. Rà soát, bổ sung chính sách đặc thù hỗ trợ đồng bào dân  tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn, nhất là về lương thực, phát triển  chăn nuôi, trồng và bảo vệ rừng. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và khuyến khích  người dân vươn lên thoát nghèo.
Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, trợ  giúp xã hội và khắc phục hậu quả thiên tai. Mở rộng diện tham gia và nâng cao  hiệu quả thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Làm tốt công tác y tế dự phòng, chủ động phòng  chống, không để xảy ra dịch lớn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất  lượng khám chữa bệnh và giảm quá tải bệnh viện. Tăng cường nhân lực y tế chất  lượng cao và nâng cao y đức. Triển khai xây dựng một số bệnh viện chuyên khoa  tuyến trung ương và tuyến cuối. Quản lý chặt chẽ giá và chất lượng thuốc chữa  bệnh. Tăng cường quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm, dược phẩm,  vắc-xin. Tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế hướng tới bảo hiểm y  tế toàn dân. Tăng cường tự chủ tài chính các đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
Tích cực thực hiện chiến lược, chương trình mục tiêu  quốc gia về văn hóa. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Bảo tồn  và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển văn học nghệ thuật. Đẩy mạnh  phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Thực hiện có hiệu quả  Chiến lược phát triển thể dục, thể thao. Tăng cường giao lưu văn hóa, thể thao  với thế giới.
Tạo môi trường sống an toàn, thân thiện và các điều  kiện cần thiết để thanh thiếu niên phát triển toàn diện. Quan tâm chăm sóc và  phát huy vai trò người cao tuổi. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Chú trọng  công tác gia đình, bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Thực hiện bình đẳng giới. Giảm mất  cân bằng giới tính. Thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng chống tệ nạn xã  hội, nhất là ma túy, mại dâm.
6) Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi  trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
Triển khai Nghị quyết của Trung ương về chủ động ứng  phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Thực hiện  Luật đất đai sửa đổi và các văn bản pháp luật liên quan. Quản lý, khai thác và  sử dụng tài nguyên, khoáng sản theo quy hoạch, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm. Giảm  xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô. Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng  mới, năng lượng tái tạo. Nâng cao chất lượng dự báo, chủ động ứng phó, giảm  thiểu thiệt hại của thiên tai và tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Chính  phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Kiểm soát chặt  chẽ các nguồn gây ô nhiễm, nhất là tại các làng nghề, khu, cụm công nghiệp, lưu  vực sông, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm nặng. Xử lý triệt để các cơ sở  gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về môi  trường. Bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Cải  thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân. Ðẩy mạnh nghiên  cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và hoàn thiện cơ chế tài chính trong ứng  phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường  hợp tác với các tổ chức quốc tế và các nước trong khu vực để có giải pháp sử  dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước sông Mê Công.
7) Về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết  kiệm, chống lãng phí
Thực hiện nghiêm pháp luật về phòng chống tham  nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Triệt để tiết kiệm, nhất là trong  hội họp, tiếp khách, đi công tác nước ngoài... Hoàn thiện cơ chế chính sách,  công khai minh bạch trong quản lý ngân sách, đất đai, tài nguyên, tài sản nhà  nước, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và công tác cán bộ. Tăng cường giám  sát, kiểm tra, thanh tra; xử lý nghiêm các vi phạm. Đề cao trách nhiệm giải  trình trong thực thi công vụ và trách nhiệm của người đứng đầu. Kiện toàn tổ  chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách về phòng chống  tham nhũng. Tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xử lý phù hợp tại  cơ sở, hạn chế phát sinh khiếu nại vượt cấp. Tập trung giải quyết dứt điểm các  vụ việc khiếu nại còn tồn đọng.
8) Tăng cường quốc phòng an ninh; nâng cao hiệu  quả công tác đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế
Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của  Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nhận thức đúng thời  cơ và thách thức, thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo môi trường hòa bình và  điều kiện thuận lợi để phát triển và bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh của  đất nước.
Nâng cao sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng  chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. Tăng cường trang bị hiện đại cho các  lực lượng quan trọng cấp thiết. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh  nhân dân, nhất là tại các địa bàn trọng điểm. Bảo đảm vững chắc an ninh chính  trị và trật tự an toàn xã hội. Ngăn chặn kịp thời các âm mưu và hoạt động chống  phá đất nước. Tăng cường công nghiệp quốc phòng. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng an  ninh với phát triển kinh tế xã hội. Đẩy mạnh phòng chống tội phạm và trật tự an  toàn giao thông.
Chủ động, tích cực đẩy mạnh toàn diện công tác đối  ngoại. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.  Làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với các đối tác, nhất là với các nước láng  giềng, các nước ASEAN, các nước bạn bè truyền thống và các nước lớn. Phát huy  vai trò và trách nhiệm trong ASEAN, trong các tổ chức và diễn đàn đa phương.  Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng  quốc tế để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên Biển Đông. Tích cực chuẩn  bị tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc. Triển khai có hiệu quả  các cam kết quốc tế và chủ động tích cực đàm phán các Hiệp định thương mại tự  do, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trên nguyên tắc bình đẳng,  cùng có lợi và bảo đảm được lợi ích quốc gia. Làm tốt công tác người Việt Nam ở  nước ngoài. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại. Nâng cao vị thế của Việt  Nam trên trường quốc tế.
9) Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền  tạo đồng thuận xã hội
Thực hiện có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị về  công tác thông tin tuyên truyền. Bảo đảm nhu cầu thông tin đa dạng của nhân dân.  Các cơ quan nhà nước phải chủ động thông tin chính xác, kịp thời về các cơ chế  chính sách, sự chỉ đạo điều hành thuộc phạm vi quản lý của mình. Tăng cường kỷ  luật phát ngôn. Đề cao trách nhiệm của các cơ quan thông tấn báo chí trong việc  thông tin trung thực, khách quan.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và quản  lý của chính quyền đối với hoạt động thông tin truyền thông. Nâng cao năng lực  quản lý thông tin trên môi trường mạng. Đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ  quan chủ quản và cơ quan báo chí. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật,  lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí xâm phạm lợi ích của nhà nước,  quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các  đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tấn báo chí trong tuyên truyền vận động,  tạo đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc  trong xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thưa Quốc hội,
Thưa đồng chí đồng bào,
Chúng ta đang phấn đấu để đạt kết quả cao nhất nhiệm  vụ của năm 2013. Bước sang năm 2014, đất nước ta vẫn phải đối mặt với rất nhiều  khó khăn, thách thức. Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Trung  ương Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị phải cùng nhau  chung sức chung lòng, quyết tâm hoàn thành kế hoạch năm 2014, góp phần tích cực  thực hiện Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. Chính phủ mong nhận được sự ủng hộ, giám  sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí  đồng bào.
Xin cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội, các vị  khách quý, đồng chí đồng bào./.
 __________________________________
 	 	[1] Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân giai đoạn 2006 -  	2010 là trên 30%/năm giảm còn 12,5% năm 2011 và 22,5% năm 2012; 10,53% trong  	9 tháng đầu năm 2013, ước cả năm khoảng 16%. Tốc độ tăng tổng dư nợ tín dụng  	đối với nền kinh tế bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 33,3%/năm, giảm còn  	14,45 % năm 2011 và 8,85% năm 2012; 6,82% trong 9 tháng đầu năm 2013, ước cả  	năm khoảng 12%.
 
  [2] Tính theo lãi suất năm, mặt bằng lãi suất huy động giảm 7 - 10 %, lãi  suất cho vay giảm 9 - 12 %; riêng 9 tháng năm 2013 lãi suất huy động giảm 2 - 3  %, cho vay giảm 3 - 5 %. Mặt bằng lãi suất cho vay đã trở về mức của giai đoạn  2005 - 2006. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 7 -  9%/năm; các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác là 9 - 11,5%/năm; một số doanh  nghiệp tình hình tài chính lành mạnh được vay với lãi suất 6,5 - 7%/năm.
  [3] Dự trữ ngoại hối nhà nước tăng từ 6 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2010 lên  6,5 tuần vào cuối năm 2011 và khoảng 12 tuần vào cuối năm 2012 và 2013.
  [4] Năm 2011 nhập siêu 9,8 tỷ USD, bằng 10,1% kim ngạch xuất khẩu; năm 2012  xuất siêu  750 triệu   USD; ước năm 2013 nhập siêu 500 triệu USD, bằng 0,4% kim  ngạch xuất khẩu.
  [5] Đến cuối năm 2013, dư nợ công ước khoảng 56,2% GDP, dư nợ Chính phủ  khoảng 42,6% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 39,5% GDP.
  [6] Chỉ số hàng tồn kho của ngành chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/9/2013  chỉ tăng 9,3% so với mức tăng 21,5 % tại thời điểm 01/01/2013.
  [7] Trong 9 tháng đầu năm 2013, tín dụng cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ  cao tăng 19,85%, nông nghiệp, nông thôn tăng 15,5%, công nghiệp hỗ trợ tăng  5,98%.
  [8] Tính theo giá so sánh năm 2010.
  [9] Theo IMF, kinh tế thế giới tăng 3,9% năm 2011, 3,2% năm 2012 và ước tăng  2,9% năm 2013; các nước mới nổi và đang phát triển tăng 6,2% năm 2011, 4,9% năm  2012 và ước tăng 4,5% năm 2013. Theo Ban Thư ký ASEAN, khu vực ASEAN tăng 4,8%  năm 2011 và 5,7% năm 2012. Theo IMF, kinh tế ASEAN bình quân 3 năm 2011 - 2013  ước tăng 5,1%.
  [10] Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng tăng 5,4%, ước cả năm tăng 5,6%.  Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,71%, ước cả năm tăng 2,81%.  Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,5%, cả năm ước  tăng 14-16%.
  [11] Trong giai đoạn 2008 - 2010, với tổng mức đầu tư toàn xã hội/GDP bình  quân 38,6%/năm, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 6,1%/năm; giai đoạn 2011 -  2013 với tổng mức đầu tư toàn xã hội/GDP bình quân giảm còn khoảng 31%/năm, giảm  7,6% so với giai đoạn 2008 - 2010, nhưng tăng trưởng GDP bình quân chỉ giảm  0,7%, đạt 5,37%/năm (tính theo giá so sánh 1994).
  [12] Tiêu hao điện năng giảm từ 0,8 kWh/1 USD GDP năm 2010 còn 0,74 kWh/1  USD GDP năm 2013.
  [13] Năm 2012 và 9 tháng đầu năm 2013, đã giảm 5 tổ chức tín dụng thông qua  sáp nhập, hợp nhất, giải thể; rút giấy phép 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
  [14] Trong 8 tháng đầu năm 2013, tốc độ tăng nợ xấu bình quân là  2,52%/tháng, giảm đáng kể so với tốc độ tăng bình quân 3,91%/tháng cùng kỳ năm  2012.
  [15] Nghị định 50 về quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng; Nghị định 51  về chế độ tiền lương đối với viên chức quản lý; Nghị định 61 về quy chế giám sát  tài chính, đánh giá kết quả hoạt động và công khai thông tin tài chính; Nghị  định 71 về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với  doanh nghiệp nhà nước và Nghị định 99 về phân công, phân cấp thực hiện quyền,  trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và  vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; Quyết định 35 của Thủ tướng Chính phủ về  quy chế hoạt động của kiểm soát viên; Chỉ thị 17 của Thủ tướng Chính phủ về tăng  cường quản lý kiểm soát việc nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị của doanh  nghiệp. Đang nghiên cứu, soạn thảo gần 30 đề án, văn bản quy phạm pháp luật,  trong đó một số quy định thiết lập thể chế tăng cường công tác kiểm tra, giám  sát tại doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty; tách chức  năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước…
  [16] Đã phê duyệt các đề án tái cơ cấu của 68 tập đoàn, tổng công ty nhà  nước; trong đó, Thủ tướng   Chính phủ phê duyệt 19/21 đề án, các bộ, ngành phê  duyệt 39 đề án, các địa phương phê duyệt 10 đề án. Tính đến hết tháng 8/2013,  Chính phủ đã phê duyệt 100/101 đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của  các bộ, ngành, địa phương. Đã dừng thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế đối với 2  tập đoàn trong ngành xây dựng, chuyển đổi Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam  thành Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy.
  [17] Năm 2011, cổ phần hóa được 16 doanh nghiệp; năm 2012 cổ phần hóa được  13 doanh nghiệp, 9 tháng đầu năm 2013 được 41 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp 100%  vốn nhà nước giảm từ 5.655 doanh nghiệp năm 2001 đến nay còn 1.254 doanh nghiệp.
  [18] Hiện nay, khoảng 80% doanh nghiệp nhà nước hoạt động có lãi. Tỷ lệ lợi  nhuận trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2010 và  năm 2011 đều đạt trên 18%, năm 2012 đạt 17,4%. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu dưới  2 lần, nằm trong giới hạn cho phép. Doanh nghiệp nhà nước đóng góp trên 33% GDP.
  [19] Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản trong GDP giảm từ 20,6% năm  2010, xuống còn khoảng 19,3% năm 2013. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ  49,5% năm 2010 xuống còn 48,4% năm 2011, còn 47,4% năm 2012 và ước 47% năm 2013.  Tỷ trọng dân số nông thôn giảm từ 69,5% năm 2010 xuống còn 68,25% năm 2011, còn  68,06% năm 2012 và ước 67,6% năm 2013.
  [20] Đến nay cả nước đã có 93% số xã có quy hoạch nông thôn mới. Bình quân  mỗi xã đạt 8,06 tiêu chí (tăng thêm 3,09 tiêu chí so với năm 2010); đã có 75 xã  được công nhận đạt chuẩn. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh  ước đạt 82% (tăng 7% so với năm 2010). Tỷ lệ hộ dân có nhà vệ sinh theo tiêu chí  mới đạt 61% (tăng 9% so với năm 2010). Hệ thống thủy lợi đáp ứng 73,6% nhu cầu  sản xuất, dân sinh.
  [21] Giảm từ 40,9% năm 2011 xuống còn 39% năm 2012.
  [22] Tăng trưởng khu vực dịch vụ năm 2011 đạt 6,8%, năm 2012 đạt 5,9%, năm  2013 ước đạt 6,56%, cao hơn mức tăng của các khu vực khác và cao hơn tốc độ tăng  trưởng GDP.
  [23] Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội 59 dự án luật,  pháp lệnh; trong đó 44 dự án đã được thông qua; tại kỳ họp này trình Quốc hội  thông qua và cho ý kiến 20 dự án luật.
  [24] Từ đầu năm 2011 đến ngày 18/10/2013, đã ban hành 369 nghị định của  Chính phủ, 190 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 1.701 thông tư của Bộ, cơ  quan ngang Bộ.
  [25] Chiến lược, Quy hoạch phát triển nhân lực, Chiến lược phát triển dạy  nghề, Chiến lược phát triển giáo dục, Chiến lược phát triển khoa học công nghệ,  Luật giáo dục đại học, Luật khoa học và công nghệ…
  [26] Đến nay, cả nước có 13.720 trường mầm non, 15.407 trường tiểu học,  10.837 trường trung học cơ sở, 2.714 trường trung học phổ thông, 1.330 cơ sở dạy  nghề (157 trường cao đẳng nghề, 304 trường trung cấp nghề, 869 trung tâm dạy  nghề), 562 trường trung cấp chuyên nghiệp, 204 trường đại học và 216 trường cao  đẳng. Năm học 2012 - 2013 đã thu hút 4,2 triệu học sinh mẫu giáo, 7,2 triệu học  sinh tiểu học, 4,9 triệu học sinh trung học cơ sở, 2,7 triệu học sinh trung học  phổ thông, 556 nghìn học sinh trung cấp chuyên nghiệp, 724 nghìn học  sinh cao đẳng, 1,5 triệu học sinh đại học và gần 2 triệu học sinh học nghề.
  [27] Trong 3 năm 2011 - 2013, đã đào tạo nghề cho 1,1 triệu lượt lao động  nông thôn, tỷ lệ có việc làm sau học nghề là 79%, số hộ nghèo sau học nghề đã  thoát nghèo là 44%; đã cử 3.272 người đi đào tạo tại nước ngoài, trong đó có  1.345 người để làm tiến sỹ, 666 người học thạc sỹ và 1.071 người học đại học.
  [28] Trong 3 năm đã kiên cố hóa được 37.400 phòng học và 5.882 phòng nhà  công vụ giáo viên.
  [29] Năm học 2012 - 2013 so với năm học 2010 - 2011 tăng 75.793 giáo viên  các cấp. Năm học 2011 - 2012, tỷ lệ giáo viên có trình độ đào tạo  đạt chuẩn trở lên ở các cấp học là: Nhà trẻ 91,13%; mẫu giáo 97,08%; tiểu học  99,63%; trung học cơ sở 99,22%; trung học phổ thông 99,6%. Tỷ lệ giảng viên có  trình độ sau đại học trong các trường trung cấp chuyên nghiệp đạt 26,2%, cao  đẳng đạt 38,5%, đại học đạt 60,5%.
  [30] Trên 2,3 triệu học sinh, sinh viên đang được vay với tổng dư nợ gần 40  nghìn tỷ đồng.
  [31] Trong 3 năm liên tục, tất cả học sinh tham gia các kỳ thi Olympic đều  đoạt giải. Năm 2011 đoạt 23 huy chương, năm 2012 đoạt 31 huy chương, năm 2013  đoạt 36 huy chương.
  [32] Đã hoàn thiện 16 phòng thí nghiệm trọng điểm. Ba khu công nghệ cao tại  Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng được đầu tư xây dựng và từng bước đưa  vào khai thác.
  [33] Đặc biệt, đã thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách cao nhất từ trước đến  nay (dự kiến huy động khoảng 50 nghìn tỷ đồng) để triển khai các dự án mở rộng,  nâng cấp Quốc lộ 1 và Đường Hồ Chí Minh đoạn qua  Tây Nguyên.
  [34] Về giao thông: Các công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng là: Các  tuyến cao tốc thành phố  Hồ Chí Minh - Trung Lương, Cầu Giẽ - Ninh Bình, vành  đai 3 Hà Nội đoạn Thanh Trì – Mai Dịch, QL 51 (mở rộng), các cầu: Rồng, Trần Thị  Lý (Đà Nẵng), Rào II, Khuể (Hải Phòng), Bến Thủy II (Nghệ An), Cảng Cái Mép -  Thị Vải, Sân bay: Đà Nẵng, Phú Quốc. Các công trình đang triển khai là: Các  tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Hải Phòng, thành  phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Bến Lức - Long Thành, Đà Nẵng - Quảng  Ngãi, Cầu Nhật Tân (Hà Nội), Cảng Lạch Huyện, Nhà ga T2 Nội Bài…
Về thủy điện: Sơn La, Đồng Nai 4, Kanak…; nhiệt  điện: Quảng Ninh 2, Ô Môn 1, Duyên Hải 3…. Hoàn thành đóng điện 147 công trình  lưới điện 110 - 500 KV với tổng dung lượng trạm biến áp tăng thêm trên 7.000  MVA, tổng chiều dài đường dây cải tạo và làm mới trên 2.000 km. Đã khởi công 25  công trình lưới điện 220 - 500 KV, trong đó có 8 công trình lưới điện 500 KV.
Về dầu khí: Đầu tư và đưa vào vận hành 53 công  trình.
Về thủy lợi: Đến năm 2013 có trên 900 hệ thống thủy  lợi lớn và vừa, đã tưới trên 7 triệu ha diện tích gieo trồng lúa, tăng 80 nghìn  ha so với năm 2010, nước phục vụ sinh hoạt và công nghiệp tăng 0,35 tỷ m3 so với năm 2010.
Về hạ tầng đô thị: Các cầu vượt; đường sắt đô thị Hà  Nội – Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội, Bến Thành - Suối Tiên; xe buýt nhanh Kim Mã -  Khuất Duy Tiến, các công trình cấp thoát nước…
Về viễn thông: Có 4.104 điểm kết nối, trong đó 2.967  điểm đã được sử dụng (chiếm tỷ lệ 72,3%).
  [35] Trong 3 năm qua, lương tối thiểu chung tăng 35,3% (từ 850 ngàn  đồng/tháng cuối năm 2010 lên 1.150 ngàn đồng/tháng hiện nay), lương tối thiểu  vùng tăng 78,3% (tăng từ mức bình quân 1.107 ngàn đồng/tháng vào cuối năm 2010  lên 1.975 ngàn đồng/tháng hiện nay).
  [36] Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1,38 triệu đồng/tháng năm 2010 lên  2 triệu đồng/tháng năm 2012.
  [37] Trong 8 tháng đầu năm 2013 xảy ra 236 cuộc đình công, giảm 180 cuộc so  với cùng kỳ năm 2012.
  [38] Tính đến hết tháng 9/2013, tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội  (BHXH) là 10,8 triệu người, trong đó: BHXH tự nguyện là 155 nghìn người, BHXH  bắt buộc là 10,67 triệu người. Có trên 400 nghìn người được hưởng chế độ bảo  hiểm thất nghiệp.
  [39] Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
  [40] Việt Nam được vinh danh trong số 38 quốc gia được Tổ chức Lương thực  Liên Hợp Quốc (FAO) công nhận thành tích nổi bật trong đấu tranh xóa đói giảm  nghèo.
  [41] Tổng số gạo cứu trợ trong 3 năm 2011 - 2013 khoảng gần 200 ngàn tấn,  tương đương khoảng 1.800 tỷ đồng.
  [42] Bệnh viện K, Bạch Mai, Nhi Trung ương, Nhi thành phố Hồ Chí Minh, Ung  bướu thành phố Hồ Chí Minh, Chợ Rẫy, Phụ sản Trung ương, Việt Đức, Viện Huyết  học truyền máu Trung ương.
  [43] Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình, Bệnh viện Tâm thần Ninh Bình, Bệnh  viện Tâm thần Hà Nam, Bệnh viện Lao và bệnh phổi Điện Biên; cải tạo mở rộng Bệnh  viện đa khoa tỉnh Hòa Bình, Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận, Bệnh viện đa khoa  tỉnh Nghệ An, các Bệnh viện Lao và bệnh phổi tỉnh Thái Bình, Hậu Giang… Có hơn  300 bệnh viện, hơn 100 phòng khám đa khoa tuyến huyện đã được hoàn thành.
  [44] Trong 3 năm công nhận thêm 24 di tích quốc gia hạng đặc biệt, nâng tổng  số lên 34; được UNESCO công nhận thêm 03 di sản văn hóa thế giới, nâng tổng số  lên 12.
  [45] Việt Nam nằm trong số 20 quốc gia có số người sử dụng internet lớn nhất  thế giới. Theo báo cáo của Liên Hợp quốc về Chính phủ điện tử năm 2012, Việt Nam  tăng 7 bậc, xếp thứ 4 ở Đông Nam Á, thứ 9 ở châu Á.
  [46] Kiến nghị thu hồi 485,5 tỷ đồng (đã thu được 139 tỷ đồng); kiến nghị xử  lý hành chính 17 tập thể và 218 cá nhân.
  [47] Năm 2011, xảy ra 44.548 vụ, làm chết 11.395 người, bị thương  48.734 người (so với năm 2010, giảm 10,4% về số vụ, giảm 1,86% số người chết,  giảm 4,5% số người bị thương). Năm 2012, xảy ra 36.409 vụ, làm chết 9.849  người, bị thương 38.064 người (so với 2011, giảm 18,2% số vụ, giảm 13,6% số  người chết, giảm 21,8% người bị thương). Tính đến ngày 15/9/2013, xảy ra  21.861 vụ, làm chết 7.040 người, bị thương 21.780 người (so với cùng kỳ năm 2012  giảm 5,67% số vụ, tăng 2,01% số người chết, giảm 11,11% số người bị thương).
Đến tháng 10 năm 2013, Hà Nội còn 57 điểm thường  xuyên ùn tắc cục bộ (giảm 46% so với 124 điểm vào năm 2008), thành phố Hồ Chí  Minh còn 76 điểm (giảm 37% so với 120 điểm vào năm 2008).
  [48] Đã thiết lập 7 quan hệ đối tác chiến lược, nâng tổng số lên 14 đối tác.
  [49] Các chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch là: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu,  tỷ lệ nhập siêu, tốc độ tăng giá tiêu dùng, giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ thất  nghiệp trong độ tuổi ở khu vực thành thị, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ trẻ  em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, số giường bệnh/1 vạn dân, tỷ lệ cơ sở gây ô  nhiễm nghiêm trọng được xử lý, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt  động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, tỷ lệ che  phủ rừng. Hai chỉ tiêu xấp xỉ đạt kế hoạch là tăng trưởng GDP (đạt 5,4% so với  kế hoạch 5,5%) và tạo việc làm (tạo được 1,54 triệu việc làm so với kế hoạch 1,6  triệu). Hai chỉ tiêu không đạt kế hoạch là tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã  hội so với GDP (đạt 29,1% so với kế hoạch 30%) và tỷ lệ bội chi ngân sách nhà  nước/GDP (5,3% so với kế hoạch là 4,8%).
  [50] Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP năm 2011 đạt 33,3%, năm 2012 đạt  30,5% và năm 2013 ước đạt 29,1%.
  [51] Đến cuối tháng 8/2013, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng là 4,64%.
  [52] Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động 9 tháng tăng 12,8% so với cùng kỳ.
  [53] Giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng năm 2011 tăng 6,7%, năm 2012  tăng 5,8%, 9 tháng năm 2013 tăng 5,2%, ước cả năm tăng trên 5,4%.
  [54] Thiệt hại do thiên tai gây ra khoảng 0,53% GDP năm 2011 và khoảng 0,54%  GDP năm 2012.
  [55] ICOR của Hàn Quốc giai đoạn 1961 - 1980 là 3,0; của Đài Loan giai đoạn  1961 - 1980 là 2,7; của Thái Lan giai đoạn 1981 - 1995 là 4,1; của Trung Quốc  giai đoạn 2001 - 2006 là 4,0; của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2010 là 6,7 và giai  đoạn 2011 - 2013 là 5,53.
  [56] Bao gồm các đoạn tuyến đường bộ cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (dự kiến  hoàn thành vào năm 2015); Hà Nội - Thái Nguyên; Hà Nội - Lào Cai (dự kiến hoàn  thành vào cuối năm 2014); Bến Lức - Long Thành (dự kiến hoàn thành vào năm  2017); thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây (dự kiến hoàn thành vào  cuối năm 2014). Tiếp tục đầu tư nâng cấp, mở rộng quốc lộ 1 - đoạn Hà Nội - Cần  Thơ, quốc lộ 14 đoạn qua Tây Nguyên; Nhà ga hành khách Quốc tế Nội Bài; tuyến  đường sắt Yên Viên - Hạ Long - Cái Lân, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà  Đông, tuyến Bến Thành - Suối Tiên; Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện…/.