Tình hình kinh tế - xã hội 7 tháng đầu năm 2013
 		_________ 	 	 		  	 	 		 		
 		 		Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản                   		 		
 		 		Nông nghiệp
 		Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy lúa mùa,  		chăm sóc lúa hè thu và thu hoạch lúa hè thu sớm. Tính đến 15/7/2013, cả  		nước đã gieo cấy được 1155,2 nghìn ha lúa mùa, bằng 107,6% cùng kỳ năm  		trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 972,3 nghìn ha, bằng  		110,3% do thu hoạch lúa đông xuân sớm hơn so với cùng kỳ và thời tiết  		tương đối thuận lợi; các địa phương phía Nam gieo cấy 183 nghìn ha, bằng  		95,3%. Các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng gieo cấy 511,5 nghìn ha,  		bằng 106,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số địa phương có tiến  		độ gieo cấy nhanh là: Hải Dương 61 nghìn ha, tăng 15%; Thái Bình 72  		nghìn ha, tăng 16%; Hải Phòng 32,2 nghìn ha, tăng 117%. Các tỉnh vùng  		Bắc Trung Bộ gieo cấy 155,9 nghìn ha, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước.  		Nét mới trong sản xuất lúa mùa năm nay là diện tích gieo sạ tăng nhiều,  		nhất là ở các tỉnh: Thái Bình, Hải Phòng và Bắc Ninh. Mô hình cánh đồng  		mẫu lớn được triển khai ở một số tỉnh như: Thái Bình, Nam Định...
 		Đến trung tuần tháng Bảy, cả nước gieo cấy được 2196 nghìn ha lúa hè  		thu, bằng 104,8% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu  		Long gieo cấy 1752,5 nghìn ha, bằng 104,2%, chủ yếu do một số tỉnh  		chuyển diện tích trồng tràm sang trồng lúa như: Kiên Giang, An Giang và  		Long An. Một số tỉnh có diện tích lúa hè thu giảm do bị nhiễm mặn và ngộ  		độc phèn như: Tiền Giang, Sóc Trăng, Bến Tre. Cùng với việc gieo cấy lúa  		hè thu, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được  		784,4 nghìn ha lúa hè thu sớm, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn  		chung năng suất lúa hè thu sớm đạt khá, ước tính khoảng 53 tạ/ha nhưng  		do ảnh hưởng của thời tiết không thuận đối với trà lúa chính vụ nên năng  		suất lúa hè thu toàn vụ ước tính đạt 52 - 53 tạ/ha, giảm 0,5-1,5 tạ/ha  		so với vụ hè thu trước.
 		Gieo trồng các loại rau, màu được được đẩy nhanh tiến độ. Tính đến giữa  		tháng Bảy, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 901,4 nghìn ha  		ngô, bằng 108% cùng kỳ năm trước; 109,2 nghìn ha khoai lang, bằng  		103,3%; 85,1 nghìn ha đậu tương, bằng 110,1%; 187,2 nghìn ha lạc, bằng  		102,7%; 715,7 nghìn ha rau, đậu, bằng 105,1%.
 		Chăn nuôi gia súc, gia cầm chưa có dấu hiệu phục hồi. Tổng đàn trâu cả  		nước giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò giảm 3%; đàn lợn giảm  		1,5% và đàn gia cầm giảm 2%. Tính đến ngày 19/7/2013, dịch cúm  		gia cầm đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa qua 21 ngày còn ở các  		tỉnh: Dịch lở mồm long móng ở Phú Yên; dịch tai xanh trên lợn ở Đắk Lắk.
 		 		   Lâm nghiệp
 		Diện tích rừng trồng tập trung tháng Bảy  		  		 		ước tính đạt 33 nghìn ha, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm 2012; số cây lâm  		nghiệp trồng phân tán đạt 16,5 triệu cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ khai  		thác 396 nghìn m3, tăng 4,2%; sản lượng củi khai thác 2,39  		triệu ste, tăng 1,8%. Tính chung bảy tháng, diện tích rừng trồng mới tập  		trung ước tính đạt 99,1 nghìn ha, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước;  		số cây lâm nghiệp trồng phân tán 127,8 triệu cây, tăng 2,2%; sản lượng  		gỗ khai thác 2806,6 nghìn m3, tăng 6,8%; sản lượng củi khai  		thác 17,29 triệu ste, tăng 2%.
 		Do ảnh hưởng của điều kiện thời tiết nắng nóng, khô hạn nên tại một số  		tỉnh thuộc khu vực Trung bộ đã xảy ra cháy rừng. Trong tháng Bảy, diện  		tích rừng bị cháy là 39,5 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 6,9 ha. Diện  		tích rừng bị thiệt hại trong bảy tháng là 1401,4 ha, giảm 38,8% so cùng  		kỳ năm trước; trong đó diện tích rừng bị cháy là 884,5 ha, giảm 46,9%;  		diện tích rừng bị chặt phá 516,5 ha, giảm 17,2%.
 		 		Thủy sản
 		Sản lượng thủy sản tháng Bảy ước tính đạt 546,2 nghìn tấn, tăng 2,8% so  		với cùng kỳ năm 2012, trong đó cá đạt 385,4 nghìn tấn, tăng 1,6 %; tôm  		đạt 108,2 nghìn tấn, tăng 6,9%.   		 		Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Bảy ước tính đạt 354,4 nghìn tấn,  		tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 234,9 nghìn tấn, tăng  		1%; tôm đạt 98,7 nghìn tấn, tăng 7,5%. Tôm nuôi nước lợ tại các đại  		phương đang vào vụ thu hoạch chính, người nuôi được hướng dẫn phương  		pháp nuôi đạt hiệu quả cao như: Tuân thủ lịch thả nuôi, kiểm soát chất  		lượng con giống, kịp thời xử lý mầm bệnh... nên tôm phát triển tốt. Một  		số tỉnh có sản lượng tôm tăng cao là: Cà Mau đạt 12,5 nghìn tấn, tăng  		4,2%; Sóc Trăng 9,8 nghìn tấn, tăng 79%; Bạc Liêu 9,2 nghìn tấn, tăng  		5,2%; Trà Vinh 3,1 nghìn tấn, tăng 48,5%.
 		Nuôi cá tra vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, giá đầu vào tiếp tục  		tăng trong khi giá sản phẩm đầu ra không ổn định. Một số tỉnh có sản  		lượng cá tra giảm nhiều là: Vĩnh Long giảm 65%; Cần Thơ giảm 8,5%; An  		Giang  giảm 8%; Bến Tre giảm 5,2%. Một số các loại cá khác như: Cá lóc,  		rô phi, diêu hồng... có điều kiện thuận lợi hơn nên sản lượng đạt khá.  		Các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như: Cá mú, cá giò, tu hài, cá  		chim, cá hồng, ốc hương, rong biển tiếp tục được đầu tư phát triển, mang  		lại hiệu quả và bảo đảm môi trường sinh thái.
 		Khai thác thủy sản tháng Bảy ước tính đạt 191,8 nghìn tấn, tăng 2,5% so  		với cùng kỳ năm trước do hoạt động khai thác đang vào thời điểm chính  		vụ, trong đó cá đạt 150,5 nghìn tấn, tăng 2,7%; tôm 9,5 nghìn tấn, tăng  		1,1%.  
 		Tính chung bảy tháng năm nay, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt  		3282,9 nghìn tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt  		2494,7 nghìn tấn, tăng 1,0%; tôm đạt 370 nghìn tấn, tăng 4%. Sản lượng  		nuôi trồng bảy tháng đạt 1779,5 nghìn tấn, tăng 0,3%, trong đó cá đạt  		1356,2 nghìn tấn, giảm 1,1%; tôm đạt 280,5 nghìn tấn, tăng 4,5%. Sản  		lượng khai khác bảy tháng đạt 1503,4 nghìn tấn, tăng 3,5 %, trong đó  		khai thác biển đạt 1400,7 nghìn tấn, tăng 3,6%. Sản lượng cá ngừ đại  		dương khai thác đạt 13,5 nghìn tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước chủ  		yếu do chất lượng cá không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu nên giá bán bị giảm  		mạnh dẫn tới hiệu quả thấp.
 		 		Sản xuất công nghiệp
 		Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Bảy ước tính  		  		 		 tăng   		 		7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng và ngành công  		nghiệp chế biến, chế tạo cùng tăng 6,8%; sản xuất và phân phối điện tăng  		9,2%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 11,6%.        Chỉ số  		sản xuất công nghiệp bảy tháng năm nay ước tính tăng 5,2% so với cùng kỳ  		năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 2%, đóng góp 0,4 điểm phần  		trăm vào mức tăng chung; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,8%,  		đóng góp 4,1 điểm phần trăm; ngành xuất và phân phối điện tăng 8,7%,  		đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác  		thải tăng 9,7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
 		Các ngành có chỉ số sản xuất bảy tháng tăng cao so với cùng kỳ là: Sản  		xuất da và các sản phẩm từ da tăng 17,3%; sản xuất xe có động cơ tăng  		14,3%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 11,6%; sản xuất hóa  		chất và các sản phẩm từ hóa chất tăng 10,8%; sản xuất sản phẩm từ kim  		loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 10,5%; khai thác, xử lý và cung  		cấp nước tăng 10,5%. Một số ngành chỉ số sản xuất tăng khá là: Sản xuất  		đồ uống tăng 9,1%; sản xuất trang phục tăng 8,9%; sản xuất thuốc, hóa  		dược và dược liệu tăng 8,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,7%; dệt  		tăng 7,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 6,5%. Một số  		ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm như: Sản xuất thiết bị điện  		tăng 5,4%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 4,2%;  sản xuất thuốc lá  		tăng 4,2%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 3,3%; khai thác  		than cứng và than non giảm 1,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và  		sản phẩm quang học giảm 1,5%; sản xuất kim loại giảm 2,6%; sản xuất  		giường, tủ, bàn, ghế giảm 5,2%.
 		Chỉ số sản xuất công nghiệp bảy tháng của một số tỉnh, thành phố trực  		thuộc trung ương như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,3% so với cùng kỳ  		năm 2012; Đồng Nai tăng 7,4%; Bình Dương tăng 5,6%; Hà Nội tăng 4,2%;  		Hải Phòng tăng 4,9%; Bắc Ninh tăng 3,3%; Vĩnh Phúc tăng 24,4%; Cần Thơ  		tăng 7,8%; Hải Dương tăng 9,6%; Đà Nẵng tăng 10,5%; Bà Rịa Vũng Tàu giảm  		1,0%; Quảng Ninh tăng 0,8%; Quảng Nam tăng 8,3%; Quảng Ngãi tăng 23,8%.
 		Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sáu tháng đầu  		năm 2013 tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các ngành có chỉ  		số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng  		28,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 28,4%; sản xuất thiết bị điện tăng  		17,1%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 15,6%; sản xuất  		đồ uống tăng 12,4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 12,3%.  		Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá là; Dệt tăng 10,6%; sản xuất  		sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,7%; sản xuất  		sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 9,5%. Một số  		ngành có chỉ số tiêu thụ sáu tháng đầu năm tăng thấp hoặc giảm  		là: Sản xuất trang phục tăng 8,2%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ  		hóa chất tăng 5,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 5,5%; sản  		xuất thuốc lá tăng 5,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 1,9%; sản  		xuất kim loại giảm 1,8%.
 		Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/7/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến,  		chế tạo tăng 8,8% so với cùng thời điểm năm 2012. Một số ngành có chỉ số  		tồn kho cao so với cùng thời điểm năm trước gồm: Sản xuất đồ uống tăng  		33,3%; sản xuất thuốc lá tăng 22,2%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược  		liệu tăng 20,6%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 14,3%; sản  		xuất thiết bị điện tăng 12,2%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng  		12,1%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất,  		chế biến thực phẩm tăng 7,2%; dệt tăng 2,9%; sản xuất trang phục giảm  		1,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 19,2%; sản xuất xe  		có động cơ giảm 25,2%;   		 		sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 52,5%. 		 		
 		Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Sáu năm nay  		là 71,4%, tỷ lệ tồn kho 6 tháng là 75,4%. Một số ngành có tỷ lệ tồn kho  		cao trong sáu tháng đầu năm là: Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu  		114,2%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất 115,5%; sản xuất chế biến  		thực phẩm 92,4%...
 		Chỉ số sử dụng lao động tháng Sáu của các doanh nghiệp công nghiệp tăng  		1% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2012, chỉ số sử dụng lao động  		tháng Sáu tăng 4,1%, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,4%;  		khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 0,8%; khu vực có vốn đầu tư  		nước ngoài tăng 9%. Chỉ số sử dụng lao động tháng Sáu trong các doanh  		nghiệp ngành khai khoáng giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước; công nghiệp  		chế biến, chế tạo tăng 4,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 2,5%; cung  		cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,3%. Một số ngành công nghiệp  		cấp II có chỉ số sử dụng lao động tháng Sáu tăng cao so với cùng thời  		điểm năm trước là: Xử lý ô nhiễm và hoạt động quản lý chất thải tăng  		28,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 17,5%; sản xuất sản phẩm điện tử tăng  		15,7%;   		 		sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 14,3%;  		  		 		sản xuất sản phẩm cao su tăng 6,3%; sản xuất kim loại tăng 4,8%; khai  		thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,4%.
 		 		Đầu tư
 		Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Bảy ước tính đạt 		 		 		 		18479  		tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương  		  		 		3421  		tỷ đồng; vốn địa phương  		  		 		15058  		tỷ đồng. Tính chung bảy tháng năm 2013,  		vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 106,8  		nghìn tỷ đồng, bằng 54,4%  		kế hoạch năm và   		 		giảm 2,4%  		so với cùng kỳ năm 2012,  		gồm có:   
 		- Vốn trung ương quản lý đạt  		  		 		22,9  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		57,1%  		kế hoạch năm và   		 		giảm 14%  		so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao  		thông Vận tải là 3709  		tỷ đồng, bằng 59,1%  		và   		 		giảm 10,7%;  		Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2329  		tỷ đồng, bằng   		 		53,2%  		và   		 		giảm 6,7%;  		Bộ Xây dựng 842  		tỷ đồng, bằng   		 		47,8%  		và   		 		giảm 9,5%;  		Bộ Y tế   		 		410  		tỷ đồng, bằng   		 		47,5%  		và   		 		giảm 28,6%;  		Bộ Giáo dục và Đào tạo   		 		339  		tỷ đồng, bằng   		 		48,6%  		và   		 		giảm 27,9%;  		Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch   		 		273  		tỷ đồng, bằng 54,5%  		và   		 		giảm 16%;  		Bộ Công Thương   		 		179  		tỷ đồng, bằng   		 		66%  		và   		 		giảm 22,6%.
 		- Vốn địa phương quản lý đạt  		  		 		83,9  		nghìn tỷ đồng, bằng 53,7%  		kế hoạch năm và tăng   		 		1,4%  		so với cùng kỳ năm 2012.  		Vốn đầu tư thực hiện của một số  		  		 		địa phương như  		sau: Hà Nội đạt   		 		12227  		tỷ đồng, bằng   		 		44,4%  		kế hoạch năm và tăng   		 		24,4%  		so với cùng kỳ năm 2012;  		thành phố Hồ Chí Minh   		 		8742  		tỷ đồng, bằng 51%  		và tăng   		 		6,2%;  		Quảng Ninh   		 		2399  		tỷ đồng, bằng   		 		61,6%  		và   		 		tăng 5,9%;  		Vĩnh Phúc 2311 tỷ đồng, bằng 77,1% và tăng 21,4%;  		  		 		Đà Nẵng   		 		2221  		tỷ đồng, bằng   		 		41,6%  		và   		 		giảm 51,3%;  		Thanh Hóa   		 		2133  		tỷ đồng, bằng   		 		68%  		và tăng   		 		4%;  		Bà Rịa-Vũng Tàu   		 		2018  		tỷ đồng, bằng   		 		45,8%  		và tăng   		 		6,8%; 		 		 		 		Nghệ An 1960  		tỷ đồng, bằng   		 		88,7%  		và   		 		giảm 8%;  		Kiên Giang 1794 tỷ đồng, bằng 66% và tăng 1,6%; Bình Dương 1648 tỷ đồng,  		bằng 42,4% và tăng 4,8%.
 		Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm  		20/7/2013 		 		 		 		đạt   		 		11911  		triệu USD, bằng   		 		119,6%  		cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của  		  		 		677   		 		dự án được cấp phép mới đạt  		  		 		6919,7  		triệu USD, bằng   		 		93,5%  		số dự án và bằng   		 		110%  		số vốn cùng kỳ năm 2012;  		vốn đăng ký bổ sung của 266  		lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là  		  		 		4991,3  		triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện Bảy tháng năm nay  		ước tính đạt 6,7 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước.
 		Trong tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành bảy  		tháng năm   		 		nay,  		ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 10440,9 triệu USD, chiếm 87,6%  		tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 580,8 triệu USD,  		chiếm 4,9%; các ngành còn lại đạt 889,3 triệu USD, chiếm 7,5%.
 		Cả nước có 46 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực  		tiếp nước ngoài cấp phép mới trong bảy tháng, trong đó Thái Nguyên có số  		vốn đăng ký lớn nhất với 2141,5 triệu USD, chiếm 44,8% tổng vốn đăng ký  		cấp mới; tiếp đến là Bình Định 1009,5 triệu USD, chiếm 21,1%; Hải Dương  		611,6 triệu USD, chiếm 12,8%; Bình Dương 460,7 triệu USD, chiếm 9,6%;  		Đồng Nai 338,8 triệu USD, chiếm 7,1%; Hải Phòng 335,4 triệu USD, chiếm  		7%;   		 		thành  		phố Hồ Chí Minh 333,5 USD, chiếm 7%.
 		Trong số 42 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào  		Việt Nam trong   		 		bảy  		tháng đầu năm, Xin-ga-po tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 2485,6  		triệu USD, chiếm 35,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Liên bang  		Nga 1015,2 triệu USD, chiếm 14,7%; Nhật Bản 1001,6 triệu USD, chiếm  		14,5%; Hàn Quốc 667,3 triệu USD, chiếm 9,6%; Đặc khu Hành chính Hồng  		Kông 575,7 triệu USD, chiếm 8,3%; Thái Lan 309,3 triệu USD, chiếm 4,5%,  		v.v.
 		 		Thu, chi ngân sách Nhà nước
 		Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2013  		ước tính đạt   		 		381,7  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		46,8%  		dự toán năm, trong đó thu nội địa  		  		 		251,5  		nghìn tỷ đồng, bằng  		46,1%;  		thu từ dầu thô  		58,4  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		59%;  		thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu  		  		 		68,6  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		41,2%.  		Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước  		  		 		73,4 nghìn tỷ đồng,   		 		bằng   		 		42,1%  		dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu  		thô)   		 		56,3 nghìn tỷ đồng,  		bằng   		 		52,5%;  		thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước  		  		 		54,7 nghìn tỷ đồng,  		bằng   		 		45,4%; 		 		 		 		thu   		 		thuế thu nhập cá nhân   		 		28,6 nghìn tỷ đồng,   		 		bằng   		 		52,1%; 		 		 		 		thu   		 		thuế bảo vệ môi trường  		  		 		6,1 nghìn tỷ đồng,   		 		bằng   		 		42,8%;  		thu phí, lệ phí   		 		5,1 nghìn tỷ đồng,   		 		bằng   		 		49,4%.
 		Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2013  		ước tính đạt   		 		483,6  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		49,5%  		dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển  		  		 		83,6  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		47,7%  		(riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản  		  		 		81  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		47,6%);  		chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý  		Nhà nước, Đảng, đoàn thể  		(bao gồm cả chi cải cách tiền lương) ước tính đạt 343,9  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		51%;  		chi trả nợ và viện trợ   		 		56,2  		nghìn tỷ đồng, bằng   		 		53,5%.
 		 		Thương mại, giá cả và du lịch
 		 		Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
 		Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy ước  		tính đạt 213,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 12,8%  		so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung bảy tháng năm 2013, tổng mức hàng  		hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 1487,9 nghìn tỷ đồng, tăng  		12% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 4,9%.  		Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bảy tháng,  		kinh doanh thương nghiệp đạt 1143,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,9% và tăng  		11,4%; khách sạn nhà hàng đạt 179 nghìn tỷ đồng, chiếm 12% và tăng  		14,7%; dịch vụ đạt 151 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% và tăng 14,9%; du lịch  		đạt 14,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 2%.
 		 		Xuất, nhập khẩu hàng hóa
 		Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng  		  		 		Bảy  		ước tính đạt   		 		11,2  		tỷ USD,   		 		tăng 1,7%  		so với tháng trước và   		 		tăng 9,8%   		 		so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa xuất  		khẩu đạt 72,7 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu  		vực kinh tế trong nước đạt 24,5 tỷ USD, tăng 1,6%; khu vực có vốn  		đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 48,2 tỷ USD, tăng 22%.
 		Trong bảy tháng năm 2013, một số mặt hàng đạt mức kim ngạch xuất khẩu  		tăng cao là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 11,6 tỷ USD, tăng 87%  		so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 9,6 tỷ USD, tăng 16,3%; điện  		tử, máy tính và linh kiện đạt 5,7 tỷ USD, tăng 40,4%; giày dép đạt 4,8  		tỷ USD, tăng 15,6%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 1,1 tỷ USD, tăng  		23,3%; hạt tiêu đạt 615 triệu USD, tăng 17,1%; rau quả đạt 576 triệu  		USD, tăng 28,2%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng khá so với  		cùng kỳ năm trước là: Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3 tỷ USD, tăng  		12,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,9 tỷ USD, tăng 11,6%; sắt thép đạt 1 tỷ  		USD, tăng 13,6%; sản phẩm chất dẻo đạt 989 triệu USD, tăng 9,7%. Kim  		ngạch xuất khẩu một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước như: Dầu  		thô đạt 4,3 tỷ USD, giảm 9,1%; thủy sản đạt 3,4 tỷ USD, giảm 0,2%; máy  		móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác đạt 3,1 tỷ USD, giảm 1,8%; cà phê  		đạt 1,9 tỷ USD, giảm 22,8%; gạo đạt 1,9 tỷ USD, giảm 13,1%; cao su đạt  		1,2 tỷ USD, giảm 17,5%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 693 triệu USD, giảm  		22,4%; than đá đạt 589 triệu USD, giảm 15,5%.
 		Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Bảy ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 2,6%  		so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung  		bảy tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 73,5 tỷ USD, tăng 15% so với  		cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 32,1 tỷ USD,  		tăng 5,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 41,3 tỷ USD, tăng 24%. 		 		
 		Trong bảy tháng năm nay, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so  		với cùng kỳ năm 2012 là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt  		10,1 tỷ USD, tăng 8,5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 9,9 tỷ USD,  		tăng 43,9%; vải đạt 4,7 tỷ USD, tăng 18,8%; sắt thép đạt gần 4 tỷ USD,  		tăng 10,5%; chất dẻo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 17,2%;  nguyên phụ liệu dệt  		may giày, dép đạt 2,1 tỷ USD, tăng 18,5 %; thức ăn gia súc và nguyên phụ  		liệu đạt 1,7 tỷ USD, tăng 34,8%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,4 tỷ USD, tăng  		19%; ôtô đạt 1,2 tỷ USD, tăng  2,7%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 369  		triệu USD, tăng 8,7%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 892 triệu  		USD, tăng 101,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với  		cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 4 tỷ USD, giảm 28%; hóa chất đạt 1,6  		tỷ USD, giảm 1,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 795 triệu USD, giảm 3,5%; cao  		su đạt 403 triệu USD, giảm 18,2%.  
 		Tháng Bảy xuất siêu ước tính 200 triệu USD, bằng 1,8% kim ngạch hàng hóa  		xuất khẩu. Nhập siêu bảy tháng năm 2013 là 733 triệu USD, bằng 1% tổng  		kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
 		 		Chỉ số giá tiêu dùng
 		Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2013 tăng 0,27% so với tháng trước. Trong  		các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm giao thông tăng cao nhất với 1,34%; 		 		 		 		nhà ở và vật liệu xây dựng tăng  		0,43%;   		 		văn hóa, giải trí và du lịch tăng  		0,31%;   		 		đồ uống và thuốc lá   		 		tăng 0,29%;   		 		thiết bị và đồ dùng gia đình tăng  		0,26%;   		 		may mặc, mũ nón, giày dép tăng  		0,25%;   		 		hàng ăn và dịch vụ ăn uống  		tăng 0,1% (Lương thực giảm 0,3%; thực phẩm tăng 0,18%); giáo dục tăng  		0,09%;   		 		thuốc và dịch vụ y tế tăng  		0,05%; bưu chính viễn thông không biến động.
 		Chỉ số giá tháng này tăng chủ yếu do ảnh hưởng của giá xăng dầu được  		điều chỉnh tăng hai đợt vào ngày 14/6/2013 và ngày 28/6/2013, làm chỉ số  		giá nhóm xăng dầu tăng 2,38% so với tháng trước, đóng góp vào chỉ số giá  		chung 0,09%. Bên cạnh đó, mức lương tối thiểu khu vực hành chính, sự  		nghiệp được điều chỉnh tăng từ 1050 nghìn đồng lên 1150 nghìn đồng từ  		ngày 01/7/2013 cũng tác động đến mức tăng của chỉ số giá.
 		Chỉ số giá tiêu dùng tháng   		 		7/2013  		tăng 2,68%  		so với tháng 12/2012 và tăng   		 		7,29%  		so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân  		  		 		bảy tháng năm nay   		 		tăng 6,81%  		so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
 		Chỉ số giá vàng tháng   		 		7/2013  		giảm   		 		6,28%  		so với tháng trước; giảm   		 		20,43%  		so với tháng 12/2012; giảm   		 		13,35%  		so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng  		  		 		7/2013  		tăng 0,68%  		so với tháng trước; tăng   		 		1,53%  		so với tháng 12/2012; tăng   		 		1,42%  		so với cùng kỳ năm 2012.
 		 		Vận tải hành khách và hàng hóa
 		Vận tải hành khách bảy tháng năm 2013 ước tính đạt 1745,4 triệu lượt  		khách, tăng 4,6% và 72,8 tỷ lượt khách.km, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm  		2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 27,3 triệu lượt khách, tăng 1,7%  		và 19,2 tỷ lượt khách.km, tăng 3%; vận tải địa phương đạt 1718,1 triệu  		lượt khách, tăng 4,7% và 53,6 tỷ lượt khách.km, tăng 3,9%. Vận tải hành  		khách đường bộ bảy tháng ước tính đạt 1599,9 triệu lượt khách, tăng 4,8%  		và 52,4 tỷ lượt khách.km, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước; đường sông  		đạt 124,6 triệu lượt khách, tăng 2,3% và 2,7 tỷ lượt khách.km, tăng  		4,2%; đường hàng không đạt 9,6 triệu lượt khách, tăng 3,2% và 14,8 tỷ  		lượt khách.km, tăng 3,7%; đường biển đạt 3,8 triệu lượt khách, tăng 4,9%  		và 215,7 triệu lượt khách.km, tăng 4,3%; đường sắt đạt 7,4 triệu lượt  		khách, giảm 1% và 2,7 tỷ lượt khách.km, giảm 0,7%.
 		Vận tải hàng hóa bảy tháng ước tính đạt 574,1 triệu tấn, tăng 3,3% và  		112,5 tỷ tấn.km, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải  		trong nước đạt 553,5 triệu tấn, tăng 3,8% và 52,1 tỷ tấn.km, tăng 4%;  		vận tải ngoài nước đạt 20,6 triệu tấn, giảm 8,5% và 60,4 tỷ tấn.km, giảm  		8,6%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 447,8 triệu tấn, tăng 3,6% và 34,8  		tỷ tấn.km, tăng 4,9%; đường sông đạt 98,4 triệu tấn, tăng 5,7% và 8,7tỷ  		tấn.km, tăng 4,4%; đường biển đạt 23,9 triệu tấn, giảm 8,7% và 66,4 tỷ  		tấn.km, giảm 7,7%; đường sắt đạt 3,9 triệu tấn, giảm 3,6% và 2,2 tỷ  		tấn.km, giảm 5,9%.  
 		 		Khách quốc tế đến Việt Nam
 		Khách quốc tế đến nước ta trong bảy tháng năm nay ước tính  		  		 		4198,7  		nghìn lượt người, tăng   		 		 5,9%  		so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ  		dưỡng   		 		là  		2572,8  		nghìn lượt người, tăng 9,3%;  		đến vì công việc   		 		702,6  		nghìn lượt người, tăng 4,3%;  		thăm thân nhân   		 		là   		 		699,7  		nghìn lượt người, tăng 1,9%.
 		Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với  		cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc   		 		998,9  		nghìn lượt người, tăng   		 		29,2%;  		Hàn Quốc 439,1  		nghìn lượt người, tăng   		 		4,3%;  		Nhật Bản 339  		nghìn lượt người, tăng 2,9%;  		Ôx-trây-li-a 191,7  		nghìn lượt người,   		 		tăng 12,7%;  		Ma-lai-xi-a 189,5  		nghìn lượt người, tăng   		 		12,1%;  		Thái Lan 151,8  		nghìn lượt người, tăng 25,5%;  		Nga 170,5 nghìn lượt người, tăng 57,4%; Anh 105,5 nghìn lượt người, tăng  		4,4%.   		 		Một số nước có lượng khách đến nước ta giảm so với cùng kỳ năm trước là:  		Hoa Kỳ 269,4  		nghìn lượt người, giảm 3,5%;  		Đài Loan 227,7  		nghìn lượt người, giảm 10,7%;  		Cam-pu-chia 186,5  		nghìn lượt người, giảm   		 		0,5%;  		Pháp 124,9  		nghìn lượt người,   		 		giảm  		9,1%;  		Xin-ga-po 105,9 nghìn lượt người, giảm 3,5%; Ca-na-da 64,7 nghìn lượt  		người, giảm 13,8%; Lào 67,9 nghìn lượt người, giảm 8,8%.
 		 		Một số vấn đề xã hội
 		 		Thiếu đói trong nông dân                      		 
 		Trong tháng Bảy, cả nước có 29,4 nghìn hộ thiếu đói, giảm 18,2% so với  		tháng trước, tương ứng 125 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 18,3%. Để  		khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa  		phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 23,8 nghìn tấn lương thực và 12,7 tỷ  		đồng.
 		 		Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
 		Trong tháng Bảy, cả nước có 5,4 nghìn trường hợp mắc bệnh tay, chân,  		miệng (3 trường hợp tử vong); gần 5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất  		huyết (3 trường hợp tử vong); 18 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 72  		trường hợp mắc bệnh viêm não virút (2 trường hợp tử vong) và 11 trường  		hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Tính chung bảy tháng năm 2013,  		cả nước có 39,1 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (14 trường hợp  		tử vong); 25,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (16 trường hợp  		tử vong); 313 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 354 trường hợp mắc bệnh  		viêm não virút (11 trường hợp tử vong) và 16 trường hợp mắc bệnh viêm  		màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong).
 		Trong tháng đã   		 		phát hiện thêm 1186 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV  		hiện còn sống của cả nước tính đến ngày 17/7/2013 lên 214,3 nghìn  		người, trong đó 62,9 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số  		người tử vong do AIDS cả nước tính đến ngày 17/7/2013 là 63,8 nghìn  		người.  
 		Trong tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 16 vụ ngộ độc thực phẩm  		nghiêm trọng, làm 655 người bị ngộ độc. Tính chung bảy tháng năm nay,  		trên địa bàn cả nước đã xảy ra 80 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 2,1 nghìn  		người bị ngộ độc, trong đó 16 trường hợp tử vong.         		 
 		 		Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
 		Trong tháng Bảy, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 189 vụ cháy, nổ nghiêm  		trọng, làm 3 người chết và 19 người bị thương. Tính chung bảy tháng năm  		nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1463 vụ cháy, nổ, làm 64 người chết  		và 131 người bị thương. Thiệt hại do cháy, nổ ước tính khoảng 532,8 tỷ  		đồng.  
 		Trong tháng đã phát hiện 798 vụ  		vi phạm   		 		quy định về   		 		vệ sinh môi trường  		tại 36 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 		 		 		 		trong đó 422 vụ bị  		xử lý   		 		với tổng số  		tiền phạt  		gần 560 tỷ  		đồng.
 		 		Tai nạn giao thông
 		Trong tháng   		 		Bảy,  		trên địa bàn cả nước đã xảy ra  		  		 		896  		vụ tai nạn giao thông, làm chết   		 		722  		người và làm bị thương   		 		480  		người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 12,3%; số  		người chết tăng 1%; số người bị thương giảm 5,7%.  		  		 		Tính chung bảy tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 6410 vụ tai  		nạn giao thông, làm chết 5635 người và làm bị thương 3945 người. So với  		cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 4,8%; số người chết  		tăng 4,9%; số người bị thương giảm 10,6%. Bình quân một ngày trong bảy  		tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, làm  		chết 27 người và làm bị thương 19 người.  		  
 		 		Thiệt hại do thiên tai
 		Thiên tai xảy ra trong tháng làm 21người chết, mất tích và bị thương; 48  		ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 571 ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái;  		trên 6 nghìn ha lúa và hơn 2 nghìn ha hoa màu bị ngập, hỏng; trên 9  		nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hại. Một số địa phương bị  		thiệt hại nặng do thiên tai gây ra là: Nghệ An có 3,8 nghìn ha lúa và  		hoa màu bị ngập, hư hỏng; Hải Phòng có 3,2 nghìn ha diện tích nuôi trồng  		thủy sản bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong  		tháng ước tính khoảng 517 tỷ đồng, trong đó Hải Phòng thiệt hại nhiều  		nhất với trên 272 tỷ đồng, chiếm gần 53% tổng giá trị thiệt hại do thiên  		tai của cả nước.
 		 		Nguồn:   		 		TỔNG CỤC   		 		THỐNG KÊ