Tình hình kinh tế - xã hội 7 tháng đầu năm 2013
_________
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy lúa mùa, chăm sóc lúa hè thu và thu hoạch lúa hè thu sớm. Tính đến 15/7/2013, cả nước đã gieo cấy được 1155,2 nghìn ha lúa mùa, bằng 107,6% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 972,3 nghìn ha, bằng 110,3% do thu hoạch lúa đông xuân sớm hơn so với cùng kỳ và thời tiết tương đối thuận lợi; các địa phương phía Nam gieo cấy 183 nghìn ha, bằng 95,3%. Các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng gieo cấy 511,5 nghìn ha, bằng 106,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số địa phương có tiến độ gieo cấy nhanh là: Hải Dương 61 nghìn ha, tăng 15%; Thái Bình 72 nghìn ha, tăng 16%; Hải Phòng 32,2 nghìn ha, tăng 117%. Các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ gieo cấy 155,9 nghìn ha, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Nét mới trong sản xuất lúa mùa năm nay là diện tích gieo sạ tăng nhiều, nhất là ở các tỉnh: Thái Bình, Hải Phòng và Bắc Ninh. Mô hình cánh đồng mẫu lớn được triển khai ở một số tỉnh như: Thái Bình, Nam Định...
Đến trung tuần tháng Bảy, cả nước gieo cấy được 2196 nghìn ha lúa hè thu, bằng 104,8% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy 1752,5 nghìn ha, bằng 104,2%, chủ yếu do một số tỉnh chuyển diện tích trồng tràm sang trồng lúa như: Kiên Giang, An Giang và Long An. Một số tỉnh có diện tích lúa hè thu giảm do bị nhiễm mặn và ngộ độc phèn như: Tiền Giang, Sóc Trăng, Bến Tre. Cùng với việc gieo cấy lúa hè thu, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được 784,4 nghìn ha lúa hè thu sớm, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung năng suất lúa hè thu sớm đạt khá, ước tính khoảng 53 tạ/ha nhưng do ảnh hưởng của thời tiết không thuận đối với trà lúa chính vụ nên năng suất lúa hè thu toàn vụ ước tính đạt 52 - 53 tạ/ha, giảm 0,5-1,5 tạ/ha so với vụ hè thu trước.
Gieo trồng các loại rau, màu được được đẩy nhanh tiến độ. Tính đến giữa tháng Bảy, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 901,4 nghìn ha ngô, bằng 108% cùng kỳ năm trước; 109,2 nghìn ha khoai lang, bằng 103,3%; 85,1 nghìn ha đậu tương, bằng 110,1%; 187,2 nghìn ha lạc, bằng 102,7%; 715,7 nghìn ha rau, đậu, bằng 105,1%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm chưa có dấu hiệu phục hồi. Tổng đàn trâu cả nước giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò giảm 3%; đàn lợn giảm 1,5% và đàn gia cầm giảm 2%. Tính đến ngày 19/7/2013, dịch cúm gia cầm đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh: Dịch lở mồm long móng ở Phú Yên; dịch tai xanh trên lợn ở Đắk Lắk.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung tháng Bảy ước tính đạt 33 nghìn ha, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm 2012; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 16,5 triệu cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ khai thác 396 nghìn m3, tăng 4,2%; sản lượng củi khai thác 2,39 triệu ste, tăng 1,8%. Tính chung bảy tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 99,1 nghìn ha, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 127,8 triệu cây, tăng 2,2%; sản lượng gỗ khai thác 2806,6 nghìn m3, tăng 6,8%; sản lượng củi khai thác 17,29 triệu ste, tăng 2%.
Do ảnh hưởng của điều kiện thời tiết nắng nóng, khô hạn nên tại một số tỉnh thuộc khu vực Trung bộ đã xảy ra cháy rừng. Trong tháng Bảy, diện tích rừng bị cháy là 39,5 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 6,9 ha. Diện tích rừng bị thiệt hại trong bảy tháng là 1401,4 ha, giảm 38,8% so cùng kỳ năm trước; trong đó diện tích rừng bị cháy là 884,5 ha, giảm 46,9%; diện tích rừng bị chặt phá 516,5 ha, giảm 17,2%.
Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Bảy ước tính đạt 546,2 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó cá đạt 385,4 nghìn tấn, tăng 1,6 %; tôm đạt 108,2 nghìn tấn, tăng 6,9%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Bảy ước tính đạt 354,4 nghìn tấn, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 234,9 nghìn tấn, tăng 1%; tôm đạt 98,7 nghìn tấn, tăng 7,5%. Tôm nuôi nước lợ tại các đại phương đang vào vụ thu hoạch chính, người nuôi được hướng dẫn phương pháp nuôi đạt hiệu quả cao như: Tuân thủ lịch thả nuôi, kiểm soát chất lượng con giống, kịp thời xử lý mầm bệnh... nên tôm phát triển tốt. Một số tỉnh có sản lượng tôm tăng cao là: Cà Mau đạt 12,5 nghìn tấn, tăng 4,2%; Sóc Trăng 9,8 nghìn tấn, tăng 79%; Bạc Liêu 9,2 nghìn tấn, tăng 5,2%; Trà Vinh 3,1 nghìn tấn, tăng 48,5%.
Nuôi cá tra vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, giá đầu vào tiếp tục tăng trong khi giá sản phẩm đầu ra không ổn định. Một số tỉnh có sản lượng cá tra giảm nhiều là: Vĩnh Long giảm 65%; Cần Thơ giảm 8,5%; An Giang giảm 8%; Bến Tre giảm 5,2%. Một số các loại cá khác như: Cá lóc, rô phi, diêu hồng... có điều kiện thuận lợi hơn nên sản lượng đạt khá. Các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như: Cá mú, cá giò, tu hài, cá chim, cá hồng, ốc hương, rong biển tiếp tục được đầu tư phát triển, mang lại hiệu quả và bảo đảm môi trường sinh thái.
Khai thác thủy sản tháng Bảy ước tính đạt 191,8 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước do hoạt động khai thác đang vào thời điểm chính vụ, trong đó cá đạt 150,5 nghìn tấn, tăng 2,7%; tôm 9,5 nghìn tấn, tăng 1,1%.
Tính chung bảy tháng năm nay, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 3282,9 nghìn tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 2494,7 nghìn tấn, tăng 1,0%; tôm đạt 370 nghìn tấn, tăng 4%. Sản lượng nuôi trồng bảy tháng đạt 1779,5 nghìn tấn, tăng 0,3%, trong đó cá đạt 1356,2 nghìn tấn, giảm 1,1%; tôm đạt 280,5 nghìn tấn, tăng 4,5%. Sản lượng khai khác bảy tháng đạt 1503,4 nghìn tấn, tăng 3,5 %, trong đó khai thác biển đạt 1400,7 nghìn tấn, tăng 3,6%. Sản lượng cá ngừ đại dương khai thác đạt 13,5 nghìn tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do chất lượng cá không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu nên giá bán bị giảm mạnh dẫn tới hiệu quả thấp.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Bảy ước tính tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cùng tăng 6,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,2%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 11,6%. Chỉ số sản xuất công nghiệp bảy tháng năm nay ước tính tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 2%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,8%, đóng góp 4,1 điểm phần trăm; ngành xuất và phân phối điện tăng 8,7%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 9,7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Các ngành có chỉ số sản xuất bảy tháng tăng cao so với cùng kỳ là: Sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 17,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 14,3%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 11,6%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất tăng 10,8%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 10,5%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 10,5%. Một số ngành chỉ số sản xuất tăng khá là: Sản xuất đồ uống tăng 9,1%; sản xuất trang phục tăng 8,9%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 8,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,7%; dệt tăng 7,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 6,5%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm như: Sản xuất thiết bị điện tăng 5,4%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 4,2%; sản xuất thuốc lá tăng 4,2%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 3,3%; khai thác than cứng và than non giảm 1,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học giảm 1,5%; sản xuất kim loại giảm 2,6%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 5,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp bảy tháng của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2012; Đồng Nai tăng 7,4%; Bình Dương tăng 5,6%; Hà Nội tăng 4,2%; Hải Phòng tăng 4,9%; Bắc Ninh tăng 3,3%; Vĩnh Phúc tăng 24,4%; Cần Thơ tăng 7,8%; Hải Dương tăng 9,6%; Đà Nẵng tăng 10,5%; Bà Rịa Vũng Tàu giảm 1,0%; Quảng Ninh tăng 0,8%; Quảng Nam tăng 8,3%; Quảng Ngãi tăng 23,8%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sáu tháng đầu năm 2013 tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 28,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 28,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 17,1%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 15,6%; sản xuất đồ uống tăng 12,4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 12,3%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá là; Dệt tăng 10,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 9,5%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ sáu tháng đầu năm tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất trang phục tăng 8,2%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất tăng 5,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 5,5%; sản xuất thuốc lá tăng 5,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 1,9%; sản xuất kim loại giảm 1,8%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/7/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,8% so với cùng thời điểm năm 2012. Một số ngành có chỉ số tồn kho cao so với cùng thời điểm năm trước gồm: Sản xuất đồ uống tăng 33,3%; sản xuất thuốc lá tăng 22,2%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 20,6%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 14,3%; sản xuất thiết bị điện tăng 12,2%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 12,1%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 7,2%; dệt tăng 2,9%; sản xuất trang phục giảm 1,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 19,2%; sản xuất xe có động cơ giảm 25,2%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 52,5%.
Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Sáu năm nay là 71,4%, tỷ lệ tồn kho 6 tháng là 75,4%. Một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao trong sáu tháng đầu năm là: Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 114,2%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất 115,5%; sản xuất chế biến thực phẩm 92,4%...
Chỉ số sử dụng lao động tháng Sáu của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 1% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2012, chỉ số sử dụng lao động tháng Sáu tăng 4,1%, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,4%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 0,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9%. Chỉ số sử dụng lao động tháng Sáu trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 2,5%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,3%. Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sử dụng lao động tháng Sáu tăng cao so với cùng thời điểm năm trước là: Xử lý ô nhiễm và hoạt động quản lý chất thải tăng 28,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 17,5%; sản xuất sản phẩm điện tử tăng 15,7%; sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 14,3%; sản xuất sản phẩm cao su tăng 6,3%; sản xuất kim loại tăng 4,8%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,4%.
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Bảy ước tính đạt 18479 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 3421 tỷ đồng; vốn địa phương 15058 tỷ đồng. Tính chung bảy tháng năm 2013, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 106,8 nghìn tỷ đồng, bằng 54,4% kế hoạch năm và giảm 2,4% so với cùng kỳ năm 2012, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 22,9 nghìn tỷ đồng, bằng 57,1% kế hoạch năm và giảm 14% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 3709 tỷ đồng, bằng 59,1% và giảm 10,7%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2329 tỷ đồng, bằng 53,2% và giảm 6,7%; Bộ Xây dựng 842 tỷ đồng, bằng 47,8% và giảm 9,5%; Bộ Y tế 410 tỷ đồng, bằng 47,5% và giảm 28,6%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 339 tỷ đồng, bằng 48,6% và giảm 27,9%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 273 tỷ đồng, bằng 54,5% và giảm 16%; Bộ Công Thương 179 tỷ đồng, bằng 66% và giảm 22,6%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 83,9 nghìn tỷ đồng, bằng 53,7% kế hoạch năm và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện của một số địa phương như sau: Hà Nội đạt 12227 tỷ đồng, bằng 44,4% kế hoạch năm và tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2012; thành phố Hồ Chí Minh 8742 tỷ đồng, bằng 51% và tăng 6,2%; Quảng Ninh 2399 tỷ đồng, bằng 61,6% và tăng 5,9%; Vĩnh Phúc 2311 tỷ đồng, bằng 77,1% và tăng 21,4%; Đà Nẵng 2221 tỷ đồng, bằng 41,6% và giảm 51,3%; Thanh Hóa 2133 tỷ đồng, bằng 68% và tăng 4%; Bà Rịa-Vũng Tàu 2018 tỷ đồng, bằng 45,8% và tăng 6,8%; Nghệ An 1960 tỷ đồng, bằng 88,7% và giảm 8%; Kiên Giang 1794 tỷ đồng, bằng 66% và tăng 1,6%; Bình Dương 1648 tỷ đồng, bằng 42,4% và tăng 4,8%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/7/2013 đạt 11911 triệu USD, bằng 119,6% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 677 dự án được cấp phép mới đạt 6919,7 triệu USD, bằng 93,5% số dự án và bằng 110% số vốn cùng kỳ năm 2012; vốn đăng ký bổ sung của 266 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 4991,3 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện Bảy tháng năm nay ước tính đạt 6,7 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước.
Trong tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành bảy tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 10440,9 triệu USD, chiếm 87,6% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 580,8 triệu USD, chiếm 4,9%; các ngành còn lại đạt 889,3 triệu USD, chiếm 7,5%.
Cả nước có 46 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong bảy tháng, trong đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 2141,5 triệu USD, chiếm 44,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Bình Định 1009,5 triệu USD, chiếm 21,1%; Hải Dương 611,6 triệu USD, chiếm 12,8%; Bình Dương 460,7 triệu USD, chiếm 9,6%; Đồng Nai 338,8 triệu USD, chiếm 7,1%; Hải Phòng 335,4 triệu USD, chiếm 7%; thành phố Hồ Chí Minh 333,5 USD, chiếm 7%.
Trong số 42 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam trong bảy tháng đầu năm, Xin-ga-po tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 2485,6 triệu USD, chiếm 35,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Liên bang Nga 1015,2 triệu USD, chiếm 14,7%; Nhật Bản 1001,6 triệu USD, chiếm 14,5%; Hàn Quốc 667,3 triệu USD, chiếm 9,6%; Đặc khu Hành chính Hồng Kông 575,7 triệu USD, chiếm 8,3%; Thái Lan 309,3 triệu USD, chiếm 4,5%, v.v.
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2013 ước tính đạt 381,7 nghìn tỷ đồng, bằng 46,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa 251,5 nghìn tỷ đồng, bằng 46,1%; thu từ dầu thô 58,4 nghìn tỷ đồng, bằng 59%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 68,6 nghìn tỷ đồng, bằng 41,2%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 73,4 nghìn tỷ đồng, bằng 42,1% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 56,3 nghìn tỷ đồng, bằng 52,5%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 54,7 nghìn tỷ đồng, bằng 45,4%; thu thuế thu nhập cá nhân 28,6 nghìn tỷ đồng, bằng 52,1%; thu thuế bảo vệ môi trường 6,1 nghìn tỷ đồng, bằng 42,8%; thu phí, lệ phí 5,1 nghìn tỷ đồng, bằng 49,4%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/7/2013 ước tính đạt 483,6 nghìn tỷ đồng, bằng 49,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 83,6 nghìn tỷ đồng, bằng 47,7% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 81 nghìn tỷ đồng, bằng 47,6%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi cải cách tiền lương) ước tính đạt 343,9 nghìn tỷ đồng, bằng 51%; chi trả nợ và viện trợ 56,2 nghìn tỷ đồng, bằng 53,5%.
Thương mại, giá cả và du lịch
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy ước tính đạt 213,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung bảy tháng năm 2013, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 1487,9 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 4,9%. Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bảy tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1143,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,9% và tăng 11,4%; khách sạn nhà hàng đạt 179 nghìn tỷ đồng, chiếm 12% và tăng 14,7%; dịch vụ đạt 151 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% và tăng 14,9%; du lịch đạt 14,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 2%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Bảy ước tính đạt 11,2 tỷ USD, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 72,7 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 24,5 tỷ USD, tăng 1,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 48,2 tỷ USD, tăng 22%.
Trong bảy tháng năm 2013, một số mặt hàng đạt mức kim ngạch xuất khẩu tăng cao là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 11,6 tỷ USD, tăng 87% so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 9,6 tỷ USD, tăng 16,3%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 5,7 tỷ USD, tăng 40,4%; giày dép đạt 4,8 tỷ USD, tăng 15,6%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 1,1 tỷ USD, tăng 23,3%; hạt tiêu đạt 615 triệu USD, tăng 17,1%; rau quả đạt 576 triệu USD, tăng 28,2%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3 tỷ USD, tăng 12,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,9 tỷ USD, tăng 11,6%; sắt thép đạt 1 tỷ USD, tăng 13,6%; sản phẩm chất dẻo đạt 989 triệu USD, tăng 9,7%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước như: Dầu thô đạt 4,3 tỷ USD, giảm 9,1%; thủy sản đạt 3,4 tỷ USD, giảm 0,2%; máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác đạt 3,1 tỷ USD, giảm 1,8%; cà phê đạt 1,9 tỷ USD, giảm 22,8%; gạo đạt 1,9 tỷ USD, giảm 13,1%; cao su đạt 1,2 tỷ USD, giảm 17,5%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 693 triệu USD, giảm 22,4%; than đá đạt 589 triệu USD, giảm 15,5%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Bảy ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 73,5 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 32,1 tỷ USD, tăng 5,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 41,3 tỷ USD, tăng 24%.
Trong bảy tháng năm nay, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2012 là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 10,1 tỷ USD, tăng 8,5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 9,9 tỷ USD, tăng 43,9%; vải đạt 4,7 tỷ USD, tăng 18,8%; sắt thép đạt gần 4 tỷ USD, tăng 10,5%; chất dẻo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 17,2%; nguyên phụ liệu dệt may giày, dép đạt 2,1 tỷ USD, tăng 18,5 %; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,7 tỷ USD, tăng 34,8%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,4 tỷ USD, tăng 19%; ôtô đạt 1,2 tỷ USD, tăng 2,7%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 369 triệu USD, tăng 8,7%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 892 triệu USD, tăng 101,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 4 tỷ USD, giảm 28%; hóa chất đạt 1,6 tỷ USD, giảm 1,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 795 triệu USD, giảm 3,5%; cao su đạt 403 triệu USD, giảm 18,2%.
Tháng Bảy xuất siêu ước tính 200 triệu USD, bằng 1,8% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu bảy tháng năm 2013 là 733 triệu USD, bằng 1% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2013 tăng 0,27% so với tháng trước. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm giao thông tăng cao nhất với 1,34%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,43%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,31%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,29%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,26%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,25%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,1% (Lương thực giảm 0,3%; thực phẩm tăng 0,18%); giáo dục tăng 0,09%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; bưu chính viễn thông không biến động.
Chỉ số giá tháng này tăng chủ yếu do ảnh hưởng của giá xăng dầu được điều chỉnh tăng hai đợt vào ngày 14/6/2013 và ngày 28/6/2013, làm chỉ số giá nhóm xăng dầu tăng 2,38% so với tháng trước, đóng góp vào chỉ số giá chung 0,09%. Bên cạnh đó, mức lương tối thiểu khu vực hành chính, sự nghiệp được điều chỉnh tăng từ 1050 nghìn đồng lên 1150 nghìn đồng từ ngày 01/7/2013 cũng tác động đến mức tăng của chỉ số giá.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2013 tăng 2,68% so với tháng 12/2012 và tăng 7,29% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân bảy tháng năm nay tăng 6,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
Chỉ số giá vàng tháng 7/2013 giảm 6,28% so với tháng trước; giảm 20,43% so với tháng 12/2012; giảm 13,35% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 7/2013 tăng 0,68% so với tháng trước; tăng 1,53% so với tháng 12/2012; tăng 1,42% so với cùng kỳ năm 2012.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách bảy tháng năm 2013 ước tính đạt 1745,4 triệu lượt khách, tăng 4,6% và 72,8 tỷ lượt khách.km, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 27,3 triệu lượt khách, tăng 1,7% và 19,2 tỷ lượt khách.km, tăng 3%; vận tải địa phương đạt 1718,1 triệu lượt khách, tăng 4,7% và 53,6 tỷ lượt khách.km, tăng 3,9%. Vận tải hành khách đường bộ bảy tháng ước tính đạt 1599,9 triệu lượt khách, tăng 4,8% và 52,4 tỷ lượt khách.km, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 124,6 triệu lượt khách, tăng 2,3% và 2,7 tỷ lượt khách.km, tăng 4,2%; đường hàng không đạt 9,6 triệu lượt khách, tăng 3,2% và 14,8 tỷ lượt khách.km, tăng 3,7%; đường biển đạt 3,8 triệu lượt khách, tăng 4,9% và 215,7 triệu lượt khách.km, tăng 4,3%; đường sắt đạt 7,4 triệu lượt khách, giảm 1% và 2,7 tỷ lượt khách.km, giảm 0,7%.
Vận tải hàng hóa bảy tháng ước tính đạt 574,1 triệu tấn, tăng 3,3% và 112,5 tỷ tấn.km, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 553,5 triệu tấn, tăng 3,8% và 52,1 tỷ tấn.km, tăng 4%; vận tải ngoài nước đạt 20,6 triệu tấn, giảm 8,5% và 60,4 tỷ tấn.km, giảm 8,6%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 447,8 triệu tấn, tăng 3,6% và 34,8 tỷ tấn.km, tăng 4,9%; đường sông đạt 98,4 triệu tấn, tăng 5,7% và 8,7tỷ tấn.km, tăng 4,4%; đường biển đạt 23,9 triệu tấn, giảm 8,7% và 66,4 tỷ tấn.km, giảm 7,7%; đường sắt đạt 3,9 triệu tấn, giảm 3,6% và 2,2 tỷ tấn.km, giảm 5,9%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong bảy tháng năm nay ước tính 4198,7 nghìn lượt người, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng là 2572,8 nghìn lượt người, tăng 9,3%; đến vì công việc 702,6 nghìn lượt người, tăng 4,3%; thăm thân nhân là 699,7 nghìn lượt người, tăng 1,9%.
Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 998,9 nghìn lượt người, tăng 29,2%; Hàn Quốc 439,1 nghìn lượt người, tăng 4,3%; Nhật Bản 339 nghìn lượt người, tăng 2,9%; Ôx-trây-li-a 191,7 nghìn lượt người, tăng 12,7%; Ma-lai-xi-a 189,5 nghìn lượt người, tăng 12,1%; Thái Lan 151,8 nghìn lượt người, tăng 25,5%; Nga 170,5 nghìn lượt người, tăng 57,4%; Anh 105,5 nghìn lượt người, tăng 4,4%. Một số nước có lượng khách đến nước ta giảm so với cùng kỳ năm trước là: Hoa Kỳ 269,4 nghìn lượt người, giảm 3,5%; Đài Loan 227,7 nghìn lượt người, giảm 10,7%; Cam-pu-chia 186,5 nghìn lượt người, giảm 0,5%; Pháp 124,9 nghìn lượt người, giảm 9,1%; Xin-ga-po 105,9 nghìn lượt người, giảm 3,5%; Ca-na-da 64,7 nghìn lượt người, giảm 13,8%; Lào 67,9 nghìn lượt người, giảm 8,8%.
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng Bảy, cả nước có 29,4 nghìn hộ thiếu đói, giảm 18,2% so với tháng trước, tương ứng 125 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 18,3%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 23,8 nghìn tấn lương thực và 12,7 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Bảy, cả nước có 5,4 nghìn trường hợp mắc bệnh tay, chân, miệng (3 trường hợp tử vong); gần 5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 18 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 72 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (2 trường hợp tử vong) và 11 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Tính chung bảy tháng năm 2013, cả nước có 39,1 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (14 trường hợp tử vong); 25,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (16 trường hợp tử vong); 313 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 354 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (11 trường hợp tử vong) và 16 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong).
Trong tháng đã phát hiện thêm 1186 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV hiện còn sống của cả nước tính đến ngày 17/7/2013 lên 214,3 nghìn người, trong đó 62,9 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS cả nước tính đến ngày 17/7/2013 là 63,8 nghìn người.
Trong tháng, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 16 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 655 người bị ngộ độc. Tính chung bảy tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 80 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 2,1 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 16 trường hợp tử vong.
Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng Bảy, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 189 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 3 người chết và 19 người bị thương. Tính chung bảy tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1463 vụ cháy, nổ, làm 64 người chết và 131 người bị thương. Thiệt hại do cháy, nổ ước tính khoảng 532,8 tỷ đồng.
Trong tháng đã phát hiện 798 vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường tại 36 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó 422 vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt gần 560 tỷ đồng.
Tai nạn giao thông
Trong tháng Bảy, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 896 vụ tai nạn giao thông, làm chết 722 người và làm bị thương 480 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 12,3%; số người chết tăng 1%; số người bị thương giảm 5,7%. Tính chung bảy tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 6410 vụ tai nạn giao thông, làm chết 5635 người và làm bị thương 3945 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 4,8%; số người chết tăng 4,9%; số người bị thương giảm 10,6%. Bình quân một ngày trong bảy tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, làm chết 27 người và làm bị thương 19 người.
Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra trong tháng làm 21người chết, mất tích và bị thương; 48 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 571 ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái; trên 6 nghìn ha lúa và hơn 2 nghìn ha hoa màu bị ngập, hỏng; trên 9 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hại. Một số địa phương bị thiệt hại nặng do thiên tai gây ra là: Nghệ An có 3,8 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng; Hải Phòng có 3,2 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính khoảng 517 tỷ đồng, trong đó Hải Phòng thiệt hại nhiều nhất với trên 272 tỷ đồng, chiếm gần 53% tổng giá trị thiệt hại do thiên tai của cả nước.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ