Tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm 2013
___________
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng Mười Một, cả nước đã thu hoạch được 1474,6 nghìn ha lúa mùa, bằng 105,6% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc thu hoạch được 1170,8 nghìn ha, bằng 106,8%; các địa phương phía Nam thu hoạch được 303,8 nghìn ha, bằng 101,1%.
Ở phía Bắc, do ảnh hưởng của bão xảy ra trong tháng Chín và tháng Mười làm ảnh hưởng đến năng suất lúa mùa của một số địa phương, nhất là các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng. Diện tích gieo trồng lúa mùa năm nay của các tỉnh phía Bắc ước tính đạt 1185,2 nghìn ha, tăng 0,1% so với năm 2012 nhưng do năng suất ước tính đạt 47,9 tạ/ha, giảm 1,9 tạ/ha nên sản lượng chỉ đạt 5,7 triệu tấn, giảm gần 180 nghìn tấn. Ở phía Nam, thời tiết cơ bản thuận lợi nên năng suất lúa mùa ước tính đạt 46,3 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha so với vụ mùa trước, sản lượng đạt 3,7 triệu tấn, tăng gần 77 nghìn tấn.
Đến trung tuần tháng Mười Một, các địa phương phía Nam gieo sạ được 158,3 nghìn ha lúa đông xuân, chỉ bằng 76,2% cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do thời tiết diễn biến phức tạp với mưa bão nhiều vào đầu vụ, mực nước lũ cao nên lịch gieo sạ ở các địa phương được điều chỉnh, dẫn đến tiến độ chậm so với cùng kỳ năm trước.
Cùng với việc thu hoạch lúa mùa, các địa phương phía Bắc đang tập trung gieo trồng và chăm sóc cây vụ đông nhằm đảm bảo đúng thời vụ. Tính đến ngày 15 tháng Mười Một, các địa phương phía Bắc gieo trồng được 123,9 nghìn ha ngô, bằng 80,9% cùng kỳ năm trước; 38,6 nghìn ha khoai lang, bằng 91,5%; 8 nghìn ha lạc, tăng 5,3%; 45,3 nghìn ha đậu tương, bằng 91%; 49,3 nghìn ha rau đậu, tăng 3,8%. Do ảnh hưởng của mưa bão nên một số diện tích hoa màu bị ngập úng, ước khoảng 18 nghìn ha. Một số địa phương có diện tích hoa màu bị thiệt hại nhiều là: Hà Tĩnh 4 nghìn ha; Nam Định 4 nghìn ha; Thái Bình 2,6 nghìn ha; Hưng Yên 2,4 nghìn ha.
Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2013, đàn trâu cả nước có 2,6 triệu con, giảm 2,5% so với cùng thời điểm năm 2012, chủ yếu giảm ở các tỉnh vùng đồng bằng và trung du, duy trì chăn nuôi tại các tỉnh miền núi với mục đích sinh sản, lấy thịt và làm sức kéo. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng đạt 85,5 nghìn tấn, giảm 3,4%. Đàn bò thịt cả nước có 5,2 triệu con, giảm 0,6%. Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 283,6 nghìn tấn, giảm 3,5% so với năm trước. Đàn bò sữa có 186,1 nghìn con, tăng 11,4%; sản lượng sữa đạt 455,6 nghìn tấn, tăng 19,4%. Đàn lợn cả nước có 26,3 triệu con, giảm 0,9% so với cùng thời điểm năm trước do những tháng đầu năm giá thịt hơi giảm trong khi chi phí đầu vào tăng nên người nuôi hạn chế đầu tư mở rộng đàn, trong đó lợn nái 3,9 triệu con, giảm 2%. Tuy nhiên, sản lượng thịt hơi xuất chuồng vẫn đạt 3,3 triệu tấn, tăng 2,1% chủ yếu do những tháng cuối năm việc chăn nuôi có một số thuận lợi hơn, dịch bệnh không xảy ra nhiều và nhu cầu tiêu dùng của thị trường tại thời điểm này có xu hướng tăng. Đàn gia cầm cả nước có 317 triệu con, tăng 2,9%, trong đó đàn gà 236,4 triệu con, tăng 5,6%. Sản lượng thịt gia cầm đạt 762,3 nghìn tấn, tăng 4,1%; lượng trứng gia cầm đạt 7422,6 triệu quả, tăng 1,7%. Hiện nay việc kiểm soát gia cầm nhập lậu được tăng cường tại các địa phương, dịch bệnh trên gia cầm đã được khống chế nên chăn nuôi gia cầm đang có xu hướng phát triển tốt.
Tính đến ngày 25/11/2013, dịch tai xanh trên lợn và dịch cúm gia cầm đã được khống chế trên phạm vi cả nước; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày còn ở 3 tỉnh là: Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Trị.
Lâm nghiệp
Do thời tiết mưa bão xảy ra liên tiếp trong tháng nên kết quả trồng rừng bị ảnh hưởng. Diện tích rừng trồng tập trung tháng Mười Một ước tính đạt 20 nghìn ha, giảm 5,2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 5,7 triệu cây, giảm 3,4%. Sản lượng gỗ khai thác trong tháng đạt 606,4 nghìn m3, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 2,6 triệu ste, bằng cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng, diện tích rừng trồng tập trung cả nước đạt 195,7 nghìn ha, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2012; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 180,3 triệu cây, tăng 1,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4,8 triệu m3, tăng 6,1%; sản lượng củi khai thác đạt 27,9 triệu ste, tăng 1,7%.
Trong tháng tuy không có xảy ra hiện tượng cháy rừng nhưng tình trạng chặt, phá rừng trái phép vẫn xuất hiện rải rác ở một số nơi với diện tích rừng bị chặt phá là 12 ha, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nhìn chung thiệt hại rừng năm nay đã giảm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng, tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 1479 ha, giảm 53,3% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó diện tích rừng bị cháy là 878 ha, giảm 48%; diện tích rừng bị chặt phá là 602 ha, giảm 45,4%.
Thuỷ sản
Sản lượng thủy sản tháng Mười Một ước tính đạt 482,5 nghìn tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 377,4 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 56,6 nghìn tấn, tăng 2%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 298,9 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 240,9 nghìn tấn, tăng 4,4%; tôm đạt 42,6 nghìn tấn, tăng 3,9%. Nuôi cá tra đã có nhiều thuận lợi hơn trước, một mặt do giá cá tra xuất khẩu tăng, mặt khác do giá thức ăn cho nuôi thủy sản tương đối ổn định. Tuy nhiên, do trải qua thời gian dài gặp khó khăn nên diện tích thả nuôi cá vẫn chưa được cải thiện nhiều.
Khai thác thủy sản trong tháng ước tính đạt 183,6 nghìn tấn, giảm 4,8% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, khai thác biển đạt 166,7 nghìn tấn, giảm 5,5% do trong tháng xảy ra mưa bão lớn làm ảnh hưởng nhiều đến khai thác thủy sản tại các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Tính chung 11 tháng năm nay, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 5485 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó nuôi trồng đạt 2923,2 nghìn tấn, tăng 2,3%; khai thác đạt 2561,8 nghìn tấn, tăng 2,8%.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Mười Một ước tính tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành khai khoáng giảm 4,2%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,2%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 9,8%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp mười một tháng năm nay ước tính tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 0,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,6%; cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 9,2%. Trong mức tăng chung của mười một tháng năm nay, ngành chế biến, chế tạo đóng góp 5 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai thác làm giảm 0,1 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao trong mười một tháng so với cùng kỳ năm trước là: Dệt tăng 21,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 15,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 13,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 12,5%; sản xuất trang phục tăng 11,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 10%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 9,4%; sản xuất đồ uống tăng 9%. Một số ngành có mức tăng khá là: Sản xuất và phân phối điện tăng 8,6%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 7,9%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 7,1%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thuốc lá tăng 6,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 5,9%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 5,7%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 0,3%; khai thác than cứng và than non giảm 2,6%; sản xuất kim loại giảm 3%; khai khoáng khác giảm 6,5%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp mười một tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 6%; Đồng Nai tăng 7,6%; Bình Dương tăng 7,4%; Hà Nội tăng 4,4%; Hải Phòng tăng 4,2%; Bắc Ninh tăng 4,3%; Vĩnh Phúc tăng 14%; Cần Thơ tăng 7,7%; Hải Dương tăng 7,5%; Đà Nẵng tăng 10,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 3,8%; Quảng Ninh giảm 0,1%; Quảng Nam tăng 6,4%; Quảng Ngãi tăng 18,5%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mười tháng năm nay tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất xe có động cơ tăng 37,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 30,6%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 17,6%; sản xuất thiết bị điện tăng 17,1%; dệt tăng 14,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 12,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ mười tháng tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất đồ uống tăng 11,2%; sản xuất thuốc lá tăng 7,8%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 3,2%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 9,4%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/11/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,4% so với cùng thời điểm năm 2012, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm là: Sản xuất thiết bị điện tăng 8,6%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,1%; sản xuất trang phục giảm 4,6%; dệt tăng 1,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 2,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 14,4%; sản xuất xe có động cơ giảm 45,5%. Tuy nhiên, vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn nhiều so với mức tăng chung như: Sản xuất đồ uống tăng 120,8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 111,4%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 80,2%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 33,2%; sản xuất kim loại tăng 25,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 25,5%. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Mười là 72,4%; tỷ lệ tồn kho bình quân mười tháng năm nay là 74%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho bình quân cao là: Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 119,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 113,1%; sản xuất, chế biến thực phẩm 86,2%.
Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2013 tăng 4,5% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước không biến động nhiều; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,8%. Tại thời điểm trên, chỉ số sử dụng lao động của ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5%; sản xuất và phân phối điện tăng 3,6%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,7%.
Chỉ số sử dụng lao động trong một số ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng thời điểm năm trước như: Sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 14,2%; sản xuất kim loại tăng 12,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 11,5%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 9,1%; sản xuất sản phẩm điện tử tăng 8,8%; sản xuất trang phục tăng 6,5%. Một số ngành có chỉ số lao động giảm là: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) giảm 2,3%; sản xuất thuốc lá giảm 2,6%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 3,9%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 4,3%.
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười Một ước tính đạt 20,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn Trung ương 3,6 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương 17,1 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười một tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 183,5 nghìn tỷ đồng, bằng 90,6% kế hoạch năm và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2012, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 37,2 nghìn tỷ đồng, bằng 92,8% kế hoạch năm và giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 6866 tỷ đồng, bằng 109,4% và giảm 2,7%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 3965 tỷ đồng, bằng 90,6% và giảm 8,3%; Bộ Xây dựng 1187 tỷ đồng, bằng 67,4% và giảm 27%; Bộ Y tế 690 tỷ đồng, bằng 80% và giảm 29,1%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 561 tỷ đồng, bằng 80,5% và giảm 32%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 436 tỷ đồng, bằng 87,1% và giảm 21,8%; Bộ Công Thương 274 tỷ đồng, bằng 101% và giảm 32,7%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 146,3 nghìn tỷ đồng, bằng 90% kế hoạch năm và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, bằng 84,4% kế hoạch năm và tăng 28,1% so với cùng kỳ năm 2012; thành phố Hồ Chí Minh 15,1 nghìn tỷ đồng, bằng 88,3% và tăng 9,8%; Đà Nẵng 4,9 nghìn tỷ đồng, bằng 64,9% và giảm 35,7%; Quảng Ninh 3,7 nghìn tỷ đồng, bằng 96% và tăng 5,7%; Vĩnh Phúc 3,5 nghìn tỷ đồng, bằng 118,2% và tăng 9,5%; Thanh Hóa 3,5 nghìn tỷ đồng, bằng 111,4% và giảm 3,9%; Nghệ An 3,4 nghìn tỷ đồng, bằng 153,7% và giảm 1,8%; Bình Dương 3,3 nghìn tỷ đồng, bằng 85,8% và tăng 12,1%; Bà Rịa - Vũng Tàu 3,1 nghìn tỷ đồng, bằng 66,7% và tăng 7,3%; Đồng Nai 3,1 nghìn tỷ đồng, bằng 94,4 nghìn tỷ đồng và tăng 17,4%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến 20/11/2013 thu hút 1175 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 13,8 tỷ USD, tăng 0,1% về số dự án và tăng 73,3% về số vốn so với cùng kỳ năm 2012. Đồng thời có 446 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung trong năm với 7 tỷ USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 20,8 tỷ USD, tăng 54,2% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện mười một tháng năm nay ước tính đạt 10,6 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2012.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mười một tháng năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 16,1 tỷ USD, chiếm 77,2% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2 tỷ USD, chiếm 9,8%; các ngành còn lại đạt 2,7 tỷ USD, chiếm 13%.
Trong mười một tháng, cả nước có 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 3338,1 triệu USD, chiếm 24,2% tổng vốn đăng ký cấp mới cả nước; tiếp đến là Bình Thuận 2029,6 triệu USD, chiếm 14,7%; Hải Phòng 1841,6 triệu USD, chiếm 13,4%; Bình Định 1019,7 triệu USD, chiếm 7,4%; thành phố Hồ Chí Minh 935,3 triệu USD, chiếm 6,8%; Bình Dương 711,2 triệu USD, chiếm 5,2%; Hải Dương 615,3 triệu USD, chiếm 4,5%...
Trong số 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới vào Việt Nam mười một tháng, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3655,4 triệu USD, chiếm 26,5% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 3008,1 triệu USD, chiếm 21,8%; Trung Quốc 2255,3 triệu USD, chiếm 16,4%; Nhật Bản 1250,3 triệu USD, chiếm 9,1%; Liên bang Nga 1021,6 triệu USD, chiếm 7,4%...
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/11/2013 ước tính đạt 657,6 nghìn tỷ đồng, bằng 80,6% dự toán năm, trong đó thu nội địa 432,6 nghìn tỷ đồng, bằng 79,3%; thu từ dầu thô 97 nghìn tỷ đồng, bằng 97,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 123,1 nghìn tỷ đồng, bằng 73,9%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 130,7 nghìn tỷ đồng, bằng 75% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 94,4 nghìn tỷ đồng, bằng 88%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 92,2 nghìn tỷ đồng, bằng 76,6%; thuế thu nhập cá nhân 41,6 nghìn tỷ đồng, bằng 75,9%; thuế bảo vệ môi trường 10 nghìn tỷ đồng, bằng 70,4%; thu phí, lệ phí 8,3 nghìn tỷ đồng, bằng 79,6%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/11/2013 ước tính đạt 803,1 nghìn tỷ đồng, bằng 82,1% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 146,2 nghìn tỷ đồng, bằng 83,5% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 141,6 nghìn tỷ đồng, bằng 83,3%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 567,4 nghìn tỷ đồng, bằng 84,1%; chi trả nợ và viện trợ 89,5 nghìn tỷ đồng, bằng 85,3%.
Thương mại, giá cả và du lịch
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười một tháng năm nay ước tính đạt 2386,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá tăng 5,6%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười một tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1832,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,8% tổng mức và tăng 12,2%; khách sạn nhà hàng đạt 287,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1% và tăng 15,3%; dịch vụ đạt 243,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,2% và tăng 13,4%; du lịch đạt 22,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 1,8%.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2013 ước tính đạt 12,3 tỷ USD, giảm 2,5% so với tháng trước và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu mười một tháng ước tính đạt 121 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 39,9 tỷ USD, tăng 3,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 81,2 tỷ USD, tăng cao ở mức 23,5%.
Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu mười một tháng năm nay, một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 20,2 tỷ USD, tăng 78,4%; hàng dệt, may đạt 16,4 tỷ USD, tăng 19,7%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 9,9 tỷ USD, tăng 41,6%; giày dép đạt 7,4 tỷ USD, tăng 14,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,9 tỷ USD, tăng 15,8%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 1,7 tỷ USD, tăng 26,6%; sản phẩm từ chất dẻo đạt 1,6 tỷ USD, tăng 13,2%; rau quả đạt 0,9 tỷ USD, tăng 24,2%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá là: Thủy sản đạt 6,1 tỷ USD, tăng 9,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,6 tỷ USD, tăng 7,9%; sắt thép đạt 1,6 tỷ USD, tăng 10,4%; hạt điều đạt 1,5 tỷ USD, tăng 10,9%. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô, gạo, cao su, than đá và xăng dầu giảm so với cùng kỳ năm 2012, trong đó dầu thô đạt 6,6 tỷ USD, giảm 14,4%; gạo đạt 2,8 tỷ USD, giảm 18,8%; cao su đạt 2,2 tỷ USD, giảm 13,4%; xăng dầu đạt 1,1 tỷ USD, giảm 34,9%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11/2013 ước tính đạt 12,2 tỷ USD, giảm 2,1% so với tháng trước và tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu mười một tháng đạt 121,1 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 52,2 tỷ USD, tăng 6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 68,9 tỷ USD, tăng 26%.
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu mười một tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 17 tỷ USD, tăng 15,6%; Điện tử máy tính và linh kiện đạt 16,5 tỷ USD, tăng 38,8%; vải đạt 7,7 tỷ USD, tăng 19,1%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 7,6 tỷ USD, tăng 70,7%; chất dẻo đạt 5,2 tỷ USD, tăng 19%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 2,8 tỷ USD, tăng 27,2%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu mười một tháng tăng thấp hoặc giảm là: Sợi dệt đạt 1,4 tỷ USD, tăng 8,1%; sản phẩm khác từ dầu mỏ đạt 0,8 tỷ USD, tăng 8,6%; xăng dầu đạt 6,4 tỷ USD, giảm 24,1%; cao su đạt 621 triệu USD, giảm 15,8%; dầu mỡ động thực vật đạt 620 triệu USD, giảm 10,4%; xe máy đạt 427 triệu USD, giảm 24,7%.
Trong mười tháng năm nay, nhập siêu hàng hóa thực hiện là 146 triệu USD. Tháng Mười Một xuất siêu ước tính 50 triệu USD. Tính chung mười một tháng, nhập siêu 96 triệu USD, bằng 0,1% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,3 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 12,2 tỷ USD.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2013 tăng 0,34% so với tháng trước, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,62% (Lương thực tăng 1,29%; thực phẩm tăng 0,56%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,41%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,35%. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ khác có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm gồm: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,28%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,24%; hai nhóm giáo dục và văn hóa, giải trí và du lịch cùng tăng 0,1%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%; giao thông giảm 0,34%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%.
CPI tháng 11/2013 tăng 5,5% so với tháng 12/2012 và tăng 5,78% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân mười một tháng năm nay tăng 6,65% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
Giá tiêu dùng tháng này mặc dù chịu ảnh hưởng một phần của thời tiết mưa bão làm giá lương thực, thực phẩm nhích lên nhưng bên cạnh đó, một số yếu tố tác động góp phần giữ giá không bị tăng cao như: Giá xăng dầu được điều chỉnh giảm trong tháng, mặt bằng lãi xuất ở mức thấp… do đó CPI tháng Mười Một năm nay tăng thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây [1].
Chỉ số giá vàng tháng 11/2013 giảm 1,04% so với tháng trước, giảm 21,76% so với tháng 12/2012 và giảm 21,4% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2013 giảm 0,1% so với tháng trước, tăng 1,04% so với tháng 12/2012 và tăng 1,07% so với cùng kỳ năm 2012.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách mười một tháng năm nay ước tính đạt 2696,3 triệu lượt khách, tăng 6% và 112,7 tỷ lượt khách.km, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 30,9 triệu lượt khách, tăng 7,2% và 27,4 tỷ lượt khách.km, tăng 10,1%; vận tải địa phương đạt 2665,3 triệu lượt khách, tăng 5,9% và 85,4 tỷ lượt khách.km, tăng 4,2%. Vận tải hành khách đường bộ mười một tháng ước tính đạt 2536,1 triệu lượt khách, tăng 6,2% và 81,4 tỷ lượt khách.km, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; đường hàng không đạt 15,5 triệu lượt khách, tăng 11,4% và 24,5 tỷ lượt khách.km, tăng 11,3%; đường sắt đạt 11,2 triệu lượt khách, tăng 2,4% và 4,1 tỷ lượt khách.km, tăng 3,4%; đường biển đạt 4,4 triệu lượt khách, tăng 4,6% và 224,2 triệu lượt khách.km, tăng 4,1%.
Vận tải hàng hóa mười một tháng ước tính đạt 920,1 triệu tấn, tăng 4,7% và 188,2 tỷ tấn.km, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 892,1 triệu tấn, tăng 5,1% và 82,8 tỷ tấn.km, tăng 4,9%; vận tải ngoài nước đạt 27,9 triệu tấn, giảm 5,9% và 105,4 tỷ tấn.km, giảm 5%. Vận tải hàng hoá địa phương mười một tháng đạt 871,1 triệu tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước và 82,9 tỷ tấn.km, tăng 5,9%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 696,2 triệu tấn, tăng 5,3% và 42,3 tỷ tấn.km, tăng 5,7%; đường sông đạt 164,4 triệu tấn, tăng 6,6% và 35,7 tỷ tấn.km, tăng 5,3%; đường biển đạt 53,4 triệu tấn, giảm 5,9% và 106,4 tỷ tấn.km, giảm 4,9%; đường sắt đạt 5,9 triệu tấn, giảm 6,7% và 3,4 tỷ tấn.km, giảm 6,3%.
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta mười một tháng ước tính đạt 6850 nghìn lượt người, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 4198,2 nghìn lượt người, tăng 12,1%; đến vì công việc 1146,1 nghìn lượt người, tăng 8,3%; thăm thân nhân đạt 1139,4 nghìn lượt người, tăng 8,7%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 5413,7 nghìn lượt người, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2012; khách đến bằng đường biển 183,5 nghìn lượt người, giảm 27,2% ; khách đến bằng đường bộ 1252,7 nghìn lượt người, tăng 38,7%.
Trong mười một tháng năm nay, một số quốc gia có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 1726,1 nghìn lượt người, tăng 34,1%; Hàn Quốc 682,9 nghìn lượt người, tăng 7,4%; Nhật Bản 553,6 nghìn lượt người, tăng 5,5%; Cam-pu-chia 310,2 nghìn lượt người, tăng 3,6%; Ma-lai-xi-a 296,5 nghìn lượt người, tăng 12,3%; Ôx-trây-li-a 290,1 nghìn lượt người, tăng 10,9%; Thái Lan 241,9 nghìn lượt người, tăng 18,5%; Nga 263,9 nghìn lượt người, tăng 64,3%; Vương quốc Anh 169,9 nghìn lượt người, tăng 8,4%. Một số nước và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta giảm là: Hoa Kỳ 396,3 nghìn lượt người, giảm 2,7%; Đài Loan 366,5 nghìn lượt người, giảm 3,8%; Pháp 193,3 nghìn lượt người, giảm 4,7%; Xin-ga-po 170,9 nghìn lượt người, giảm 1,6% ; Lào 113,8 nghìn lượt người, giảm 17%.
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng Mười Một, cả nước có 14,7 nghìn hộ thiếu đói, tăng 1,4% so với tháng trước, tương ứng với 63 nghìn nhân khẩu thiếu đói, tăng 3,9%. So với tháng 11/2012, số hộ thiếu đói tăng 12,2% và số nhân khẩu thiếu đói tăng 7,3%. Tính chung mười một tháng, cả nước có 417,1 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 1752 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 4,5%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 44,5 nghìn tấn lương thực và 24 tỷ đồng, riêng tháng Mười Một hỗ trợ 1,3 nghìn tấn lương thực.
Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Mười Một, trên địa bàn cả nước có 7,7 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (8 trường hợp tử vong); 54 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 38 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 6,8 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng và 12 vụ ngộ độc thực phẩm với 374 người bị ngộ độc (2 trường hợp tử vong). Tính chung mười một tháng, cả nước có 60,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (38 trường hợp tử vong); 749 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (17 trường hợp tử vong); 39 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp tử vong); 580 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 69,9 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng (19 trường hợp tử vong) và 127 vụ ngộ độc thực phẩm với 4,4 nghìn người bị ngộ độc, trong đó 20 trường hợp tử vong.
Trong tháng cả nước đã phát hiện thêm 2,1 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV hiện còn sống của cả nước tính đến ngày 17/11/2013 là 215,3 nghìn người, trong đó 63,5 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS cả nước tính đến thời điểm trên là 67,2 nghìn người.
Tình hình cháy, nổ
Trong tháng 11/2013, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 217 vụ cháy, nổ, làm 8 người chết và 17 người bị thương. Tính chung mười một tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 2167 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 120 người chết và 264 người bị thương. Thiệt hại do cháy, nổ gây ra từ đầu năm đến nay ước tính khoảng 1,7 nghìn tỷ đồng.
Tai nạn giao thông
Trong tháng Mười Một, trên địa bàn cả nước đã xảy 1067 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên, làm 814 người chết và 730 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 6,7%, số người chết giảm 7,4%, số người bị thương giảm 13,9%. Ngoài ra, trong tháng đã xảy ra 1729 vụ va chạm giao thông, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, làm 2187 người bị thương nhẹ, tăng 9,2%.
Tính chung mười một tháng năm nay, cả nước đã xảy ra 10159 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên, làm 8626 người chết và 6312 người bị thương. Số vụ va chạm giao thông trong mười một tháng là 17006 vụ, làm 20992 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm 2012, số vụ tai nạn giao thông tăng 4,3%, số vụ va chạm giao thông giảm 8,2%, số người chết tăng 0,7%, số người bị thương giảm 10,2% và số người bị thương nhẹ giảm 8%. Bình quân 01 ngày trong mười một tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông và 51 vụ va chạm giao thông, làm 26 người chết, 19 người bị thương và 63 người bị thương nhẹ.
Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra liên tiếp trong tháng gây thiệt hại nặng về người và tài sản cho các địa phương, làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của dân cư. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai làm 54 người chết, mất tích và 93 người bị thương; hơn 600 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; gần 260 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái; 52 km đê, kè, 275 km kênh mương và 185 km đường giao thông cơ giới bị sạt lở, cuốn trôi; hơn 100 cột điện trung, cao thế và 360 cột điện hạ thế bị gãy, đổ; khoảng 700 ha lúa và hoa màu bị mất trắng và hơn 59 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Các tỉnh bị thiệt hại nặng do thiên tai gây ra là: Quảng Ngãi có 20 người chết, mất tích và 70 người bị thương; gần 103 nghìn ngôi nhà bị sập, sạt lở, tốc mái và hơn 2 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Bình Định có 19 người chết, mất tích và 9 người bị thương; hơn 70 nghìn ngôi nhà bị sập, sạt lở, tốc mái; gần 2,5 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính hơn 2,8 nghìn tỷ đồng, trong đó Bình Định thiệt hại hơn 1,3 nghìn tỷ đồng; Quảng Ngãi gần 1 nghìn tỷ đồng. Theo báo cáo sơ bộ, tổng tiền mặt cứu trợ cho các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai trong tháng là 3,2 tỷ đồng.
Tính chung mười một tháng năm nay, thiên tai đã làm 301 người chết, mất tích và 976 người bị thương; hơn 6 nghìn ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; gần 670 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái; trên 250 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong mười một tháng ước tính gần 28 nghìn tỷ đồng.
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
[1] CPI tháng 11 so với tháng 12 năm trước của một số năm như sau: Năm 2009 tăng 5,07%; năm 2010 tăng 9,58%; năm 2011 tăng 17,5%; năm 2012 tăng 6,52%.
* Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 11 năm 2013
* Chỉ số sản xuất công nghiệp
* Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
* Chỉ số tiêu thụ và tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
* Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
* Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 20/11/2013
* Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
* Hàng hóa xuất khẩu
* Hàng hóa nhập khẩu
* Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 11 năm 2013
* Vận tải hành khách và hàng hóa
* Khách quốc tế đến Việt Nam