Tình hình kinh tế - xã hội 10 tháng năm 2013
____________
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào thu hoạch lúa mùa tại các địa phương phía Bắc; gieo cấy lúa mùa tại các địa phương phía Nam và thu hoạch lúa hè thu và thu đông trên cả nước. Tính đến trung tuần tháng Mười, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch được 847 nghìn ha lúa mùa, chiếm 71,4% diện tích gieo cấy và bằng 121,2% cùng kỳ năm 2012, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng thu hoạch được 433,9 nghìn ha, chiếm 76,2% diện tích gieo cấy và bằng 135,4%. Do lúa xuống giống đúng lịch thời vụ nên tiến độ thu hoạch lúa mùa tại các địa phương nhanh hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có tỷ lệ diện tích lúa được thu hoạch so với diện tích gieo cấy đạt cao là: Vĩnh Phúc đạt 99,7%; Hà Nội 98%; Hưng Yên 96%. Tuy nhiên, theo đánh giá sơ bộ, năng suất lúa mùa tại các địa phương phía Bắc năm nay giảm từ 1 - 1,5 tạ/ha so với vụ mùa năm trước, chủ yếu do ảnh hưởng của mưa bão nên một phần diện tích lúa sắp trỗ và sắp thu hoạch bị hư hỏng nặng.
Đến ngày 15/10, các địa phương phía Nam gieo cấy được 804,6 nghìn ha lúa mùa, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,7%, chủ yếu do chuyển đổi cơ cấu diện tích gieo cấy như đẩy mạnh mô hình sản xuất lúa - tôm hoặc chuyển đổi phần diện tích nuôi tôm sú không hiệu quả và diện tích trồng màu dưới chân ruộng sang gieo trồng lúa nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Cùng với việc gieo cấy và thu hoạch lúa mùa, đến giữa tháng Mười, cả nước đã thu hoạch được 2483 nghìn ha lúa hè thu và thu đông, chiếm 89,5% diện tích gieo cấy và bằng 112,2% cùng kỳ năm trước. Riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 2024,6 nghìn ha, trong đó có 1706,6 nghìn ha lúa hè thu với năng suất đạt 52,2 tạ/ha, giảm 0,8 tạ/ha so với năm trước; sản lượng đạt 11,2 triệu tấn, giảm 81,6 nghìn tấn do hạn cục bộ đầu vụ và mưa nhiều vào cuối vụ làm nhiều diện tích lúa bị hỏng.
Gieo trồng một số cây vụ đông năm nay nhìn chung bảo đảm tiến độ. Tính đến trung tuần tháng Mười, cả nước gieo trồng được 102,6 nghìn ha ngô, bằng 100,1% so cùng kỳ năm trước; 21,1 nghìn ha khoai lang, bằng 101,9%; 85,9 nghìn ha rau đậu, bằng 106,7%.
Trong những ngày đầu tháng Mười, bão cường độ mạnh liên tiếp tràn về, gây mưa to, lũ quét, sạt lở và ngập lụt nghiêm trọng tại các tỉnh miền Trung. Theo thống kê sơ bộ, gần 4,5 nghìn ha lúa; 25,2 nghìn ha hoa màu; 1,6 nghìn ha cây ăn quả... bị ngập và hư hại; gần 10 nghìn tấn lúa đã thu hoạch bị ngập trong nước hoặc bị nước lũ cuốn trôi.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung vẫn trong tình trạng gặp khó khăn. Ước tính đàn trâu, bò trong tháng giảm 2 - 3% so với cùng kỳ năm 2012; đàn lợn ước tính xấp xỉ cùng kỳ năm trước. Mặc dù giá thịt lợn hơi tại thời điểm này tăng nhẹ, nhu cầu nguồn thịt cho thị trường tiêu dùng những tháng cuối năm tăng lên, nhưng giá cả thị trường không ổn định thời gian qua cùng với giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao vẫn gây tâm lý lo ngại cho người nuôi trong việc đầu tư tái đàn. Chăn nuôi gia cầm có thuận lợi hơn do dịch cúm gia cầm cơ bản đã được khống chế, người nuôi đang chuẩn bị nguồn thịt cung cấp trong dịp tết. Tính đến ngày 24/10/2013, dịch tai xanh trên lợn đã được khống chế; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày có ở 3 tỉnh là: Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Quảng Trị; dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày còn ở Hòa Bình.
* Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 10 năm 2013
Lâm nghiệp
Thời tiết trong tháng thuận lợi cho cây lâm nghiệp sinh trưởng và phát triển tốt. Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Mười ước tính đạt 47,1 nghìn ha, tăng 31,6% cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 7 triệu cây, tăng 0,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 534 nghìn m3, tăng 4,9%; sản lượng củi khai thác đạt 2,9 triệu ste, tăng 1,4%. Diện tích rừng trồng tập trung cả nước mười tháng đạt 175,7 nghìn ha, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2012; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 174,6 triệu cây, tăng 2,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4179,5 nghìn m3, tăng 6,4%; sản lượng củi khai thác đạt 25,3 triệu ste, tăng 1,9%.
Thời tiết đang vào mùa mưa nên trong tháng ít xảy ra hiện tượng cháy rừng. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Mười khoảng 20 ha, giảm 88,3% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó diện tích rừng bị cháy là gần 9 ha, chủ yếu xảy ra trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; diện tích rừng bị chặt phá hơn 11 ha. Tính chung mười tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 1467 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 878 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 589 ha.
Thuỷ sản
Sản lượng thủy sản tháng Mười ước tính đạt 506,3 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó cá đạt 375,2 nghìn tấn, tăng 1,8 %; tôm đạt 58,5 nghìn tấn, tăng 5,4%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 271 nghìn tấn, tăng 2,2%, trong đó cá đạt 208,2 nghìn tấn, tăng 1%; tôm đạt 42,4 nghìn tấn, tăng 6%. Giá cá tra có xu hướng tăng trở lại do giá xuất khẩu tăng. Tuy nhiên, sản lượng cá tra thu hoạch tiếp tục giảm do thua lỗ kéo dài nên diện tích thả nuôi bị thu hẹp dẫn đến tình trạng hiện nay thiếu cá nguyên liệu chế biến tại các doanh nghiệp. Một số tỉnh có sản lượng cá tra giảm nhiều là: Bến Tre 11,7 nghìn tấn, giảm 8,5%; An Giang 18 nghìn tấn, giảm 9%; Cần Thơ 15,5 nghìn tấn, giảm 19%.
Nuôi tôm phát triển khá do người nuôi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tuân thủ lịch thả nuôi. Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển mạnh thay cho nuôi tôm sú vì cho năng suất cao và ít dịch bệnh hơn. Trong mười tháng, một số địa phương có sản lượng tôm thu hoạch khá là: Bạc Liêu đạt 56,8 nghìn tấn, tăng 12,8% so với cùng kỳ; Sóc trăng đạt 57,5 nghìn tấn, tăng 51%; Kiên Giang 32 nghìn tấn, tăng 34%;.
Khai thác thủy sản tháng Mười ước tính 235,3 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó khai thác biển đạt 213,9 nghìn tấn, tăng 3,1%. Tại vùng biển miền Trung và Bắc Bộ, do ảnh hưởng mưa bão nên nhiều tàu thuyền phải nằm bờ. Khu vực biển phía Nam thời tiết thuận lợi hơn nên sản lượng khai thác trong tháng của nhiều địa phương tăng khá so với cùng kỳ năm trước như: Cà Mau tăng 4,3%; Bạc Liêu tăng 4,4%.
Tính chung mười tháng năm nay, tổng sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 5002,5 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó cá đạt 3709,8 nghìn tấn, tăng 1,9%; tôm đạt 533,8 nghìn tấn, tăng 6,3%. Sản lượng nuôi trồng đạt 2624,3 nghìn tấn, tăng 2,1%, trong đó cá đạt 1972,1 nghìn tấn, tăng 0,4%; tôm đạt 404,4 nghìn tấn, tăng 7,8%. Khai khác đạt 2378,2 nghìn tấn, tăng 3,4 %, trong đó khai thác biển đạt 2210,4 nghìn tấn, tăng 3,1%.
Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Mười ước tính tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành khai khoáng giảm 2,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 9%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 11,6%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm nay ước tính tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 0,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,6%; cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 9,3% [1]. Trong mức tăng chung 5,4% của mười tháng năm nay, ngành chế biến, chế tạo đóng góp 4,9 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai thác làm giảm 0,2 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao trong mười tháng so với cùng kỳ năm trước là: Dệt tăng 19,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 16,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 13,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 12,9%; sản xuất trang phục tăng 11,3%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 10%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 9,3%. Một số ngành có mức tăng khá là: sản xuất đồ uống tăng 8,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,6%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 7,8%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 7,4%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thiết bị điện tăng 6,8%; sản xuất thuốc lá tăng 5,6%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 4,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 3,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 0,4%; sản xuất kim loại giảm 1,2%; khai thác than cứng và than non giảm 4,5%; khai khoáng khác giảm 6,7%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp mười tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,9%; Đồng Nai tăng 7,6%; Bình Dương tăng 7,6%; Hà Nội tăng 4,4%; Hải Phòng tăng 4,1%; Bắc Ninh tăng 3,4%; Vĩnh Phúc tăng 17%; Cần Thơ tăng 7,6%; Hải Dương tăng 8,1%; Đà Nẵng tăng 10,4%; Bà Rịa Vũng Tàu giảm 3,5%; Quảng Ninh giảm 1,9%; Quảng Nam tăng 5,6%; Quảng Ngãi tăng 21,1%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chín tháng năm 2013 tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất xe có động cơ tăng 37,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 33%; sản xuất thiết bị điện tăng 26,7%; dệt tăng 19%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 17,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 13,3%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ chín tháng tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thuốc lá tăng 6,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 5,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 4,9%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất tăng 1,7%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 9,1%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/10/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,7% so với cùng thời điểm năm 2012, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất trang phục tăng 7,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 7,4%; dệt tăng 2,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 6,9%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 13,7%; sản xuất xe có động cơ giảm 42,3%; Tuy nhiên vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Sản xuất đồ uống tăng 165,6%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 54,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 38,2%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 23,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 23,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 19,6%; sản xuất kim loại tăng 18,4%. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Chín là 74%; tỷ lệ tồn kho bình quân chín tháng năm nay là 74,1%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho bình quân chín tháng cao là: Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 116,9%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 111%; sản xuất, chế biến thực phẩm 88,1%.
Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/10/2013 tăng 4,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 1,3%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,6%. Tại thời điểm trên, chỉ số sử dụng lao động của ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 3,2%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,5%.
Trong ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sử dụng lao động tăng cao so với cùng thời điểm năm trước là: Sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 13,2%; sản xuất sản phẩm điện tử tăng 11,9%; sản xuất xe có động cơ tăng 10,5%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 9,5%; sản xuất kim loại tăng 8,5%; sản xuất trang phục tăng 8,4%. Một số ngành có chỉ số lao động giảm là: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 4,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) giảm 4,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 3,8%; sản xuất thuốc lá giảm 3,6%.
* Chỉ số sản xuất công nghiệp
* Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
* Chỉ số tiêu thụ và tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười ước tính đạt 19,3 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn Trung ương 3,6 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương 15,7 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 163,3 nghìn tỷ đồng, bằng 80,7% kế hoạch năm và giảm 1,3% so với cùng kỳ năm 2012, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 33,6 nghìn tỷ đồng, bằng 83,8% kế hoạch năm và giảm 17,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 6053 tỷ đồng, bằng 96,4% và giảm 4,8%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 3565 tỷ đồng, bằng 81,5% và giảm7,2%; Bộ Xây dựng 1097 tỷ đồng, bằng 62,3% và giảm 23,5%; Bộ Y tế 603 tỷ đồng, bằng 69,9% và giảm 31,4%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 484 tỷ đồng, bằng 69,4% và giảm 34,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 393 tỷ đồng, bằng 78,5% và giảm 22,3%; Bộ Công Thương 250 tỷ đồng, bằng 92,2% và giảm 31%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 129,7 nghìn tỷ đồng, bằng 79,9% kế hoạch năm và tăng 4% so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 20 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6% kế hoạch năm và tăng 27% so với cùng kỳ năm 2012; Thành phố Hồ Chí Minh 13,4 nghìn tỷ đồng, bằng 78% và tăng 7,4%; Đà Nẵng 4,7 nghìn tỷ đồng, bằng 62,1% và giảm 33,9%; Quảng Ninh 3,6 nghìn tỷ đồng, bằng 92,3% và tăng 9%; Vĩnh Phúc 3,2 nghìn tỷ đồng, bằng 108,2% và tăng 14,4%; Nghệ An 3 nghìn tỷ đồng, bằng 136,9% và giảm 5,2%; Thanh Hóa 3 nghìn tỷ đồng, bằng 96,3% và giảm 6,3%; Bình Dương 2,9 nghìn tỷ đồng, bằng 73,3% và tăng 10,6%; Bà Rịa - Vũng Tàu 2,8 nghìn tỷ đồng, bằng 62,9% và tăng 8,4%; Kiên Giang 2,6 nghìn tỷ đồng, bằng 80,6% và tăng 6,4%.
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng lên. Tính từ đầu năm đến 20/10/2013 đã có 1050 dự án được cấp phép mới với số vốn đạt 13,1 tỷ USD, bằng 100% số dự án và tăng 79% về số vốn cùng kỳ năm 2012. Đồng thời có 393 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung trong năm với 6,1 tỷ USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 19,2 tỷ USD, tăng 65,5% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện mười tháng năm 2013 ước tính đạt 9,6 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2012.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mười tháng năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 14,9 tỷ USD, chiếm 77,6% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2 tỷ USD, chiếm 10,6%; các ngành còn lại đạt 2,3 tỷ USD, chiếm 11,8%.
Trong mười tháng, cả nước có 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 3389,1 triệu USD, chiếm 25,9% tổng vốn đăng ký cấp mới cả nước; tiếp đến là Bình Thuận 2029,6 triệu USD, chiếm 15,5%; Hải Phòng 1841,6 triệu USD, chiếm 14,1%; Bình Định 1009,5 triệu USD, chiếm 7,7%; thành phố Hồ Chí Minh 844,2 triệu USD, chiếm 6,5%; Hải Dương 613,3 triệu USD, chiếm 4,7%; Bình Dương 521,1 triệu USD, chiếm 4%...
Trong số 48 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới vào Việt Nam mười tháng qua, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3586 triệu USD, chiếm 27,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 2721 triệu USD, chiếm 20,8%; Trung Quốc 2245 triệu USD, chiếm 17,2%; Nhật Bản 1152,3 triệu USD, chiếm 8,8%; Liên bang Nga 1018 triệu USD, chiếm 7,8%...
* Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn Ngân sách Nhà nước
* Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01 - 20/10/2013
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2013 ước tính đạt 572,1 nghìn tỷ đồng, bằng 70,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa 373,4 nghìn tỷ đồng, bằng 68,5%; thu từ dầu thô 85,6 nghìn tỷ đồng, bằng 86,4%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 108,5 nghìn tỷ đồng, bằng 65,2%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 111,9 nghìn tỷ đồng, bằng 64,2% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 82,6 nghìn tỷ đồng, bằng 76,9%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 80,3 nghìn tỷ đồng, bằng 66,6%; thuế thu nhập cá nhân 37,9 nghìn tỷ đồng, bằng 69,2%; thuế bảo vệ môi trường 9,1 nghìn tỷ đồng, bằng 63,7%; thu phí, lệ phí 7,7 nghìn tỷ đồng, bằng 74,5%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2013 ước tính đạt 718,8 nghìn tỷ đồng, bằng 73,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 128,8 nghìn tỷ đồng, bằng 73,6% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 124,8 nghìn tỷ đồng, bằng 73,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 509,5 nghìn tỷ đồng, bằng 75,5%; chi trả nợ và viện trợ 80,4 nghìn tỷ đồng, bằng 76,6%.
Thương mại, giá cả và du lịch
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười tháng năm nay ước tính đạt 2159 nghìn tỷ đồng, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá tăng 5,5%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng mười tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 1657,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,8% tổng mức và tăng 12,1%; khách sạn nhà hàng đạt 260,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1% và tăng 14,9%; dịch vụ đạt 220,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,2% và tăng 14,8%; du lịch đạt 20,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 3,1%.
* Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 10/2013 ước tính đạt 11,7 tỷ USD, tăng 4,6% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu mười tháng ước tính đạt 108 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 35,9 tỷ USD, tăng 3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 72,1 tỷ USD, tăng 22,3%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu mười tháng tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may...
Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu mười tháng qua, một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 17,7 tỷ USD, tăng 76,1%; hàng dệt, may đạt 14,8 tỷ USD, tăng 18,7%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 8,7 tỷ USD, tăng 41,5%; giày dép đạt 6,7 tỷ USD, tăng 14,5%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,4 tỷ USD, tăng 15,4%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 1,5 tỷ USD, tăng 25,6%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá là: Thủy sản đạt 5,4 tỷ USD, tăng 6,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,2 tỷ USD, tăng 10,3%; sản phẩm từ chất dẻo đạt 1,5 tỷ USD, tăng 12,8%; hạt điều đạt 1,4 tỷ USD, tăng 9,6%; rau quả đạt 0,8 tỷ USD, tăng 23,4%. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô, gạo, cao su và than đá giảm so với cùng kỳ năm 2012, trong đó dầu thô đạt 5,9 tỷ USD, giảm 14,2%; gạo đạt 2,6 tỷ USD, giảm 16,9%; cao su đạt 2 tỷ USD, giảm 13,7%; xăng dầu đạt 1 tỷ USD, giảm 37,1%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 10/2013 ước tính đạt 11,9 tỷ USD, tăng 5,6% so với tháng trước và tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu mười tháng đạt 108,2 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 46,2 tỷ USD, tăng 3,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 62 tỷ USD, tăng 25,7%.
Trong mười tháng qua, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện tử máy tính và linh kiện đạt 15 tỷ USD, tăng 40,2%; vải đạt 6,8 tỷ USD, tăng 18,2%; chất dẻo đạt 4,8 tỷ USD, tăng 18,9%; nguyên phụ liệu dệt may, giày, dép đạt 3,1 tỷ USD, tăng 17,7%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 2,7 tỷ USD, tăng 36,6%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng khá là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 14,9 tỷ USD, tăng 11,4%; sắt thép đạt 5,6 tỷ USD, tăng 10,7%; sản phẩm hóa chất đạt 2,3 tỷ USD, tăng 11%. Một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 5,8 tỷ USD, giảm 25,5%; cao su đạt 558 triệu USD, giảm 16,9%; dầu mỡ động thực vật đạt 551 triệu USD, giảm 13,6%; xe máy đạt 388 triệu USD, giảm 24,1%.
Trong chín tháng năm nay, xuất siêu hàng hóa thực hiện là 13 triệu USD; tháng Mười nhập siêu ước tính 200 triệu USD. Tính chung mười tháng, nhập siêu 187 triệu USD, bằng 0,2% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,3 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 10,1 tỷ USD.
* Hàng hóa xuất khẩu
* Hàng hóa nhập khẩu
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2013 tăng 0,49% so với tháng trước, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với 0,86% (Lương thực tăng 0,91%; thực phẩm tăng 1,04%); giáo dục tăng 0,53% (Dịch vụ giáo dục tăng 0,55%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,5%. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ khác có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm gồm: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,24%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,14%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,12%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,1%; giao thông giảm 0,17%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2013 tăng 5,14% so với tháng 12/2012 và tăng 5,92% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân mười tháng năm nay tăng 6,74% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
Chỉ số giá vàng tháng 10/2013 giảm 2,87% so với tháng trước; giảm 20,94% so với tháng 12/2012; giảm 22,15% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 10/2013 giảm 0,18% so với tháng trước; tăng 1,14% so với tháng 12/2012; tăng 1,06% so với cùng kỳ năm 2012.
* Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 10 năm 2013
Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách mười tháng năm nay ước tính đạt 2448,9 triệu lượt khách, tăng 5,6% và 102,6 tỷ lượt khách.km, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 28,5 triệu lượt khách, tăng 6,4% và 24,9 tỷ lượt khách.km, tăng 8,7%; vận tải địa phương đạt 2420,3 triệu lượt khách, tăng 5,6% và 77,7 tỷ lượt khách.km, tăng 4,3%. Vận tải hành khách đường bộ mười tháng ước tính đạt 2302,1 triệu lượt khách, tăng 5,8% và 74,2 tỷ lượt khách.km, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; đường hàng không đạt 14,1 triệu lượt khách, tăng 10,1% và 22,3 tỷ lượt khách.km, tăng 10,2%; đường sắt đạt 10,3 triệu lượt khách, tăng 1,8% và 3,7 tỷ lượt khách.km, tăng 1,1%; đường biển đạt 4 triệu lượt khách, tăng 4,6% và 203,1 triệu lượt khách.km, tăng 3,7%.
Vận tải hàng hóa mười tháng ước tính đạt 831 triệu tấn, tăng 4,3% và 168,7 tỷ tấn.km, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 805,9 triệu tấn, tăng 4,7% và 76,5 tỷ tấn.km, tăng 3,6%; vận tải ngoài nước đạt 25,2 triệu tấn, giảm 6,5% và 92,1 tỷ tấn.km, giảm 6,3%. Vận tải hàng hoá địa phương mười tháng đạt 785,9 triệu tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước và 76 tỷ tấn.km, tăng 4,5%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 628,5 triệu tấn, tăng 4,9% và 37,9 tỷ tấn.km, tăng 5,1%; đường sông đạt 148,4 triệu tấn, tăng 5,9% và 32,2 tỷ tấn.km, tăng 4,7%; đường biển đạt 48,5 triệu tấn, giảm 6,1% và 95 tỷ tấn.km, giảm 6,5%; đường sắt đạt 5,5 triệu tấn, giảm 4,9% và 3,2 tỷ tấn.km, giảm 5,2%.
* Vận tải hành khách và hàng hóa
Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta mười tháng năm nay ước tính đạt 6119 nghìn lượt người, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 3750 nghìn lượt người, tăng 12,7%; đến vì công việc 1023,8 nghìn lượt người, tăng 8,6%; thăm thân nhân đạt 1018,2 nghìn lượt người, tăng 8,4%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 4826,9 nghìn lượt người, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2012; đến bằng đường biển 177,8 nghìn lượt người, giảm 20%; đến bằng đường bộ 1114,2 nghìn lượt người, tăng 35,7%.
Trong mười tháng, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 1535,8 nghìn lượt người, tăng 36,2%; Hàn Quốc 618,7 nghìn lượt người, tăng 7,4%; Nhật Bản 497,7 nghìn lượt người, tăng 5,6%; Cam-pu-chia 274,8 nghìn lượt người, tăng 3,1%; Ôx-trây-li-a 266,8 nghìn lượt người, tăng 12,4%; Ma-lai-xi-a 262,5 nghìn lượt người, tăng 12,7%; Nga 228,1 nghìn lượt người, tăng 66,1%; Thái Lan 216,3 nghìn lượt người, tăng 21%. Một số quốc gia có lượng khách lớn đến nước ta nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước là: Hoa Kỳ 359,8 nghìn lượt người, giảm 2,9%; Đài Loan 331,6 nghìn lượt người; giảm 5,2%; Pháp 171,2 nghìn lượt người, giảm 5,4%; Xin-ga-po 152,3 nghìn lượt người. giảm 1,2%.
* Khách quốc tế đến Việt Nam
Một số vấn đề xã hội
Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng 10/2013, cả nước có 14,5 nghìn hộ thiếu đói, giảm 11,6% so với tháng trước, tương ứng 61 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 13%. So với cùng kỳ năm 2012, số hộ thiếu đói giảm 18,1% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 22,8%. Tính chung mười tháng, cả nước có 402,4 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 1689 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 4,9%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 43,2 nghìn tấn lương thực và 24 tỷ đồng, riêng tháng Mười hỗ trợ 1,2 nghìn tấn lương thực và 10,7 tỷ đồng.
Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm
Trong tháng Mười, trên địa bàn cả nước có 9,9 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng; 8,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 83 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 74 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 6 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu. Tính chung mười tháng năm nay, cả nước có 63,1 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng (19 trường hợp tử vong); 52,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (30 trường hợp tử vong); 695 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (17 trường hợp tử vong); 39 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp tử vong); 542 trường hợp mắc bệnh thương hàn và 2 trường hợp mắc cúm A (H5N1).
Trong tháng đã phát hiện thêm 1,1 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV hiện còn sống của cả nước tính đến ngày 17/10/2013 là 215,6 nghìn người, trong đó 63,2 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS cả nước tính đến 17/10/2013 là 64,7 nghìn người.
Tình hình ngộ độc thực phẩm thời gian gần đây có xu hướng tăng lên và diễn biến phức tạp. Trong tháng trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 1,2 nghìn trường hợp bị ngộ độc. Điển hình là các vụ ngộ độc xảy ra tại huyện Chợ Gạo (Tiền Giang) và huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) làm hàng trăm người bị ngộ độc. Các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức bảo đảm an toàn thực phẩm; đồng thời thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm để bảo vệ người tiêu dùng.
Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường
Trong tháng Mười, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 170 vụ cháy, nổ, làm 33 người chết và 79 người bị thương. Đáng chú ý là vụ nổ xảy ra tại nhà máy sản xuất pháo hoa ở Phú Thọ vào ngày 12/10/2013 làm hàng chục người chết và bị thương. Tính chung mười tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 1950 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 106 người chết và 242 người bị thương. Thiệt hại do cháy, nổ gây ra ra ước tính 1,1 nghìn tỷ đồng. Trong tháng Mười, cơ quan chức năng đã phát hiện 470 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường, trong đó 369 vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt là 4,4 tỷ đồng.
Tai nạn giao thông
Trong tháng Mười, trên địa bàn cả nước đã xảy 937 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên, làm 772 người chết và 651 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 22,6%, số người chết giảm 2%, số người bị thương tăng 12,2%. Ngoài ra, trong tháng đã xảy ra 1571 vụ va chạm giao thông, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, làm 1956 người bị thương nhẹ, tăng 3%.
Tính chung mười tháng năm nay, cả nước đã xảy ra 9092 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên, làm 7812 người chết và 5582 người bị thương. Số vụ va chạm giao thông trong mười tháng là 15227 vụ, làm 18808 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm 2012, số vụ tai nạn giao thông tăng 5,8%, số vụ va chạm giao thông giảm 9,4%, số người chết tăng 1,6%, số người bị thương giảm 9,7% và số người bị thương nhẹ giảm 9,6%. Bình quân 01 ngày trong mười tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông và 50 vụ va chạm giao thông, làm 26 người chết, 18 người bị thương và 62 người bị thương nhẹ.
Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra trong tháng gây thiệt hại nặng về người và tài sản cho các tỉnh khu vực miền Trung, làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư. Theo báo cáo sơ bộ, có 45 người chết, mất tích và khoảng 600 người bị thương do thiên tai gây ra; hơn 4 nghìn ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 339 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái; 156 km đê, kè, 262 km kênh mương và hơn 347 km đường giao thông cơ giới bị sạt lở, cuốn trôi; 628 cột điện trung, cao thế và gần 4 nghìn cột điện hạ thế bị gãy, đổ; trên 5 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng; hơn 30 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Các tỉnh bị thiệt hại nặng do thiên tai gây ra là: Quảng Bình có 22 người chết, mất tích và 453 người bị thương; hơn 700 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi và 200 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; gần 7 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Quảng Trị có 55 người bị thương; hơn 19 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; gần 6 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Nghệ An có 5 người chết, mất tích; 26 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; 3 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng; gần 11 nghìn ha lúa, hoa màu bị ngập, hư hỏng.
Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính gần 20 nghìn tỷ đồng, trong đó Quảng Bình thiệt hại hơn 12 nghìn tỷ đồng; Quảng Trị 2,6 nghìn tỷ đồng; Nghệ An 1,3 nghìn tỷ đồng. Theo báo cáo sơ bộ, tổng tiền mặt cứu trợ cho các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai trong tháng là 81,7 tỷ đồng.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ