Tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2013
 		 		__________ 	 	 		 
 		 		 
 		Kinh tế thế giới năm 2013 tuy vẫn còn nhiều khó khăn thách thức nhưng đã  		có một số dấu hiệu khả quan. Để đối phó với tình trạng tăng trưởng chậm,  		một số nền kinh tế mới nổi thực hiện những biện pháp tích cực để tăng  		cầu trong nước. Khu vực đồng tiền chung châu Âu đã có tín hiệu tích cực  		với số đơn đặt hàng gia tăng trong những tháng gần đây. Mặc dù vậy, tình  		hình kinh tế thế giới nhìn chung chưa có nhiều cải thiện rõ nét. Thất  		nghiệp vẫn đang là mối quan tâm lớn tại các nền kinh tế đang phát triển.  		Sản xuất kinh doanh trong nước mặc dù đã có chuyển biến tích cực nhưng  		tốc độ vẫn chậm. Mức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa chưa cao, nhất là khu  		vực sản xuất trong nước. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực kinh  		tế-xã hội trong chín tháng năm 2013 như sau:  
 		 		I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
 		 		1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước  
 		Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2013 ước tính tăng 5,14%  		so với cùng kỳ năm trước (Mức tăng cùng kỳ của năm 2011 là 6,03% và năm  		2012 là 5,10%), trong đó quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5,00%; quý III  		tăng 5,54%. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, 		 		khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản  		tăng 2,39%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây  		dựng tăng 5,20%, đóng góp 1,99 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng  		6,25%, đóng góp 2,71 điểm phần trăm.  
 		Khu vực dịch vụ tiếp tục là khu vực đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng  		chung của nền kinh tế với mức tăng của một số ngành chiếm tỷ trọng lớn  		như sau: Ngành bán buôn và bán lẻ tăng 5,92%; ngành kinh doanh bất động  		sản tăng 1,91%; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,66%; hoạt động  		tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,69%; giáo dục và đào tạo tăng  		7,98%; vận tải kho bãi tăng 5,65%.   
 		Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; khu vực công nghiệp và xây dựng là  		hai khu vực có mức tăng thấp hơn. Thời tiết không thuận lợi, giá bán sản  		phẩm ở mức thấp trong khi chi phí đầu vào ở mức cao trong khu vực nông,  		lâm nghiệp và thủy sản cùng với khó khăn về vốn, tiêu thụ sản phẩm và  		mức tồn kho cao trong khu vực công nghiệp và xây dựng là nguyên nhân chủ  		yếu tác động tiêu cực đến tăng trưởng của hai khu vực. Tuy nhiên, ngành  		công nghiệp chế biến chế tạo - ngành chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh  		tế đã có chuyển biến tích cực với tốc độ tăng ngày càng cao hơn trong  		năm: Quý I tăng 4,60%; quý II tăng 6,90%; quý III tăng 8,57%.  
 		Quy mô tổng sản phẩm trong nước 9 tháng năm nay theo giá hiện hành ước  		tính đạt 2420,9 nghìn tỷ đồng, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy  		sản chiếm 17,85%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực  		dịch vụ chiếm 44,29%.
 		 		Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
 		 		chín tháng năm 2011, 2012 và 2013
 
    
        
            |  					 					  |  					Tốc độ tăng so với    					cùng kỳ năm trước (%) |  					   					Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 9 tháng năm 2013 					(Điểm phần trăm)
 | 
        
            |  					  |  					9 tháng    					năm 2011 |  					9 tháng  					 năm 2012 |  					9 tháng      năm 2013 | 
        
            |  					 					Tổng số |  					 					6,03 |  					 					5,10 |  					 					5,14 |  					 					5,14 | 
        
            |  					Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản |  					3,74 |  					2,50 |  					2,39 |  					0,44 | 
        
            |  					Công nghiệp và xây dựng |  					6,75 |  					5,76 |  					5,20 |  					1,99 | 
        
            |  					Dịch vụ |  					6,43 |  					5,66 |  					6,25 |  					2,71 | 
    
 
 		 		 
 		*  Tổng sản phẩm trong nước 9 tháng năm 2013
 		 		2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản              		 
 		Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chín tháng năm 2013 theo  		giá so sánh 2010 ước tính đạt 535,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% so với cùng  		kỳ năm trước, bao gồm: Nông nghiệp đạt 387,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3%;  		lâm nghiệp đạt 17,2 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6%; thuỷ sản đạt 131,3 nghìn  		tỷ đồng, tăng 3,4%.  
 		 		a. Nông nghiệp  
 		Tính đến trung tuần tháng Chín, cả nước đã gieo cấy được 1734,6 nghìn ha  		lúa mùa, bằng 101% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc  		gieo cấy 1185,6 nghìn ha, bằng 100,1%; các địa phương phía Nam gieo cấy  		549 nghìn ha, bằng 103,1%. Diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước năm 2013  		ước tính đạt 1987,9 nghìn ha, tăng 0,7% so với vụ mùa năm 2012. Theo báo  		cáo từ các địa phương, hiện nay lúa mùa đã trỗ bông, trà lúa sớm đang  		trong giai đoạn vào chắc và chín với một phần diện tích đã cho thu  		hoạch. Thời tiết bão và mưa kéo dài đầu tháng Chín làm ngập, đổ nhiều  		diện tích lúa, trong đó một phần diện tích bị mất trắng, ảnh hưởng phần  		nào đến kết quả sản xuất. Nếu điều kiện thời tiết những tháng cuối năm  		thuận và ít bị ảnh hưởng của sâu bệnh thì sản lượng lúa mùa cả nước năm  		nay ước tính đạt 9,6 triệu tấn, tăng 0,9% so với vụ mùa năm 2012; năng  		suất ước tính đạt 48,1 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha, trong đó năng suất các  		tỉnh phía Nam tăng 0,8 tạ/ha, chủ yếu ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu  		Long.
 		Cùng với việc gieo cấy lúa mùa, các địa phương trên cả nước đang bước  		vào thu hoạch lúa hè thu. Tính đến 15/9/2013, các địa phương phía Nam đã  		thu hoạch được 1894,6 nghìn ha lúa hè thu, bằng 111,6% cùng kỳ năm trước  		và chiếm 68,6% diện tích gieo trồng, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu  		Long thu hoạch 1668,1 nghìn ha, bằng 105,4% và bằng 72,3% diện tích  		xuống giống. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa hè thu cả nước năm nay  		ước tính đạt 51,9 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha so với vụ hè thu trước; sản  		lượng ước tính đạt 14,3 triệu tấn, tăng 2,7%.
 		Ước tính diện tích lúa cả năm 2013 đạt 7890,7 nghìn ha, tăng 129,5 nghìn  		ha so với năm 2012; năng suất đạt 55,9 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha; sản lượng  		đạt 44,1 triệu tấn, tăng 407 nghìn tấn.
 		Đến trung tuần tháng Chín, cả nước đã gieo trồng được 993,3 nghìn ha  		ngô, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2012; 131,3 nghìn ha khoai lang, tăng  		0,8%; 205,3 nghìn ha lạc, giảm 1,3%; 115,3 nghìn ha đậu tương, tăng 0,3%  		và 866,4 nghìn ha rau, đậu tăng 4,9%.
 		Sản lượng cây lâu năm có xu hướng tăng do nhiều diện tích đến kỳ cho sản  		phẩm. Sản lượng cao su năm 2013 ước tính đạt 936,9 nghìn tấn, tăng 6,8%  		so với năm trước; cà phê đạt 1331,4 nghìn tấn, tăng 5,6%; chè đạt 931  		nghìn tấn, tăng 2,3%; hồ tiêu 123,5 nghìn tấn, tăng 6,5%; dừa 1276,6  		nghìn tấn, tăng 0,3%; riêng sản lượng điều chỉ đạt 281,7 nghìn tấn, giảm  		gần 10% do đầu vụ gặp mưa và ảnh hưởng của sâu bệnh.  
 		Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục gặp khó khăn do giá bán sản phẩm ở  		mức thấp trong khi giá thức ăn và các chi phí khác cho chăn nuôi ở mức  		cao khiến người nuôi không có lãi. Dịch bệnh trên gia cầm những tháng  		đầu năm diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến tâm lý của người chăn nuôi.  		Tính đến giữa tháng Chín, đàn trâu, bò cả nước giảm 2-3% so với cùng kỳ  		năm 2012; đàn lợn giảm 0,5%; đàn gia cầm giảm 1,5-2%. Sản lượng  		thịt trâu hơi xuất chuồng chín tháng giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước;  		thịt lợn hơi xấp xỉ cùng kỳ năm trước; thịt gia cầm giảm 1,3%. Tính đến  		24/9/2013, cả nước không còn địa phương nào có dịch cúm gia cầm  		và dịch lợn tai xanh chưa qua 21 ngày. Dịch lở mồm long móng chưa qua 21  		ngày còn ở tỉnh Quảng Nam.
 		*  Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo giá so sánh 2010
 		 		* Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 9 năm 2013
 		 		b. Lâm nghiệp  
 		Sản xuất lâm nghiệp từ đầu năm tuy bị ảnh hưởng thời tiết rét đậm đầu vụ  		và khô hạn kéo dài tại nhiều nơi, đặc biệt tại các tỉnh Trung Bộ, Tây  		Nguyên và Đông Nam Bộ nhưng do có mưa sớm nên các địa phương vẫn bảo đảm  		được tiến độ thời vụ nên kết quả đạt khá. Diện tích rừng trồng mới 		tập trung cả nước chín tháng ước tính đạt 128,6 nghìn ha, tăng 4,1%  		so với cùng kỳ năm trước, trong đó một  		số địa phương có diện tích rừng trồng mới nhiều như: Tuyên Quang 13  		nghìn ha; Yên Bái 12,6 nghìn ha; Bắc Kạn 11,9 nghìn ha; Quảng Ninh 11,6  		nghìn ha; Thanh Hóa 10,3 nghìn ha; Phú Yên 12 nghìn ha. Số  		cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 167,6 triệu cây, tăng 2,1%. Sản lượng  		gỗ khai thác đạt 3645 nghìn m3, tăng 6,6%, một số tỉnh có sản  		lượng gỗ khai thác lớn là:   		 		Bình Định 326,8 nghìn m3; Yên Bái 285 nghìn m3;  		Quảng Nam 260,3 nghìn m3; Quảng Ngãi 245 nghìn m3;  		Quảng Ninh 238,6 nghìn m3; Phú Thọ 232 nghìn m3;  		Thanh Hóa 178,7 nghìn m3; Đắk Lắk 176 nghìn m3. 		 		Khai thác gỗ tăng khá chủ yếu do diện  		tích rừng được quy hoạch với tỷ trọng tương đối lớn trong diện tích rừng  		hiện có, bên cạnh đó các địa phương đang từng bước thực hiện ứng dụng  		tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lâm nghiệp.  
 		Thời tiết những tháng đầu năm khô hạn gây ra tình trạng cháy rừng ở một  		vài nơi. Trong chín tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 1446 ha, giảm  		52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 868,8  		ha, giảm 57,9%; diện tích rừng bị phá 578 ha, giảm 8,9%. Một số tỉnh có  		diện tích rừng bị cháy nhiều là: Gia Lai 411 ha; Hà Giang 79 ha; Cà Mau  		44 ha; Lâm Đồng 38 ha; Đắk Lắk 31 ha; Lai Châu 27 ha. Một số tỉnh có  		diện tích rừng bị phá nhiều là: Đắk Nông 130 ha; Lâm Đồng 84 ha; Kon Tum  		76 ha; Bình Phước 60 ha; Quảng Nam 45 ha.
 		 		c. Thủy sản  
 		Sản lượng thủy sản chín tháng năm 2013 ước tính đạt 4496 nghìn tấn, tăng  		2,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 3335 nghìn tấn, tăng  		1,9%; tôm đạt 475 nghìn tấn, tăng 6,4%.  
 		Sản lượng thủy sản nuôi trồng chín tháng ước tính đạt 2353 nghìn tấn,  		tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1764 nghìn tấn, tăng  		0,3%; tôm đạt 362 nghìn tấn, tăng 8%, thủy sản nuôi trồng khác đạt 227  		nghìn tấn, tăng 7%.  
 		Trong nuôi trồng thủy sản, sản xuất cá tra gặp nhiều khó khăn với tình  		trạng thua lỗ kéo dài nên diện tích nuôi ngày càng bị thu hẹp. Nguyên  		nhân một mặt do giá cá tra nguyên liệu giảm, giá chi phí nguyên liệu đầu  		vào tăng; mặt khác do nhu cầu nhập khẩu của các thị trường lớn giảm. Bên  		cạnh đó, cá tra của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ bị áp mức thuế chống phá  		giá với mức thuế nhập khẩu cao làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu mặt  		hàng này. Một số địa phương có diện tích và sản lượng cá tra giảm nhiều  		là: An Giang giảm 13% về diện tích và giảm 8% về sản lượng; Cần Thơ giảm  		5% về diện tích; Vĩnh Long giảm 2% về diện tích và giảm 11% về sản  		lượng; Bến Tre giảm 5% về diện tích và giảm 4% về sản lượng.   		 		Sản xuất cá tra giảm chủ yếu ở khu vực hộ gia đình do hợp đồng với doanh  		nghiệp chế biến chỉ được ký kết khi cá đạt tiêu chuẩn nên thường xảy ra  		tình trạng giá cả không ổn định, lệ thuộc vào thị trường tiêu thụ từng  		thời điểm. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp có tính ổn định hơn do chủ  		động được từng khâu trong quá trình thả nuôi, thu hoạch và tiêu thụ;  		đồng thời đầu tư theo hướng hiện đại với các tiêu chuẩn cao nhằm hướng  		đến cung cấp nguồn hàng bảo đảm an toàn, vệ sinh và chất lượng tốt trên  		thị trường trong nước và thế giới.
 		Nuôi tôm đạt sản lượng khá do các địa phương tuân thủ chặt chẽ lịch thả  		nuôi trong năm và chất lượng con giống được kiểm soát chặt chẽ. Cơ cấu  		tôm nuôi theo xu hướng phát triển mạnh nuôi tôm thẻ chân trắng thay cho  		tôm sú vì loại tôm này cho năng xuất và hiệu quả kinh tế cao hơn cũng  		như ít bị dịch bệnh hơn.   		 		Diện tích  		nuôi tôm thẻ chân trắng trong kỳ ước tính đạt 49 nghìn ha, tăng 47,3% so  		với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 154,3 nghìn tấn, tăng 39,2%.  
 		Hoạt động khai thác thủy sản trong năm có nhiều thuận lợi về thời tiết  		cũng như về sự hỗ trợ và tạo điều kiện của chính quyền địa phương trong  		việc trang bị máy thông tin liên lạc và vay vốn ưu đãi, đóng mới tàu  		thuyền công suất lớn. Sản lượng thủy sản khai thác chín tháng năm nay  		ước tính đạt 2143 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong  		đó khai thác biển đạt 2004 nghìn tấn, tăng 3,5%. Riêng sản lượng cá ngừ  		đại dương chín tháng ước tính đạt 13 nghìn tấn, giảm 5,7% do chất lượng  		cá không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu làm giá cá giảm mạnh nên nhiều   		 		ngư dân chuyển sang nghề lưới cản và khai thác cá ngừ sọc dưa nhằm đem  		lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
 		*  Sản lượng thủy sản  
 		 		3. Sản xuất công nghiệp  
 		Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Chín năm nay ước tính tăng  		5,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 5,1%;  		công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,5%; sản xuất và phân phối điện tăng  		9,4%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 11,2%.  
 		Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chín tháng ước tính tăng 5,4% so với  		cùng kỳ năm 2012, trong đó ngành khai khoáng giảm 0,2%; công nghiệp chế  		biến, chế tạo tăng 6,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,3%; cung cấp  		nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 9,5%. Trong mức tăng chung của chín  		tháng, ngành chế biến, chế tạo đóng góp 4,8 điểm phần trăm; sản xuất và  		phân phối điện đóng góp 0,54 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý  		nước thải, rác thải đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai thác  		làm giảm 0,04 điểm phần trăm.
 		Một số ngành có chỉ số sản xuất chín tháng tăng cao so với cùng kỳ năm  		trước là: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 16,7%; dệt tăng  		16,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng  		14%; sản xuất xe có động cơ tăng 12,6%; sản xuất trang phục tăng 11,4%;  		sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 11%; khai thác, xử lý và  		cung cấp nước tăng 10%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 9,1%.  		Một số ngành có mức tăng khá là: Sản xuất đồ uống tăng 8,8%; sản xuất  		giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 8,7%; sản xuất và phân phối điện tăng  		8,3%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thiết bị điện  		tăng 6,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm và ngành sản xuất thuốc lá cùng  		tăng 4,4%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 1,3%; sản xuất sản  		phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 1,3%; sản xuất kim loại giảm  		1,1%; khai thác than cứng và than non giảm 5,1%; khai khoáng khác giảm  		6,2%.
 		Chỉ số sản xuất công nghiệp chín tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước  		của một số địa phương như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 6%; Đồng Nai  		tăng 7,5%; Bình  Dương tăng 8,4%; Hà Nội tăng 4,3%; Hải Phòng tăng 4,9%;  		Bắc Ninh tăng 4,7%; Vĩnh Phúc tăng 21,6%; Cần Thơ tăng 7,6%; Hải Dương  		tăng 9,3%; Đà Nẵng tăng 10,6%; Bà Rịa Vũng Tàu giảm 1,5%; Quảng Ninh  		giảm 2,3%; Quảng Nam tăng 5,3%; Quảng Ngãi tăng 23,7%.
 		Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tám tháng năm  		nay tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các ngành có chỉ số  		tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất xe có động cơ tăng 35,3%; sản xuất da và  		các sản phẩm có liên quan tăng 31,6%; sản xuất thiết bị điện tăng 24,9%;  		sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,6%; dệt tăng 14,8%;  		sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 13,1%.  		Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tám tháng tăng thấp hoặc giảm là:  		Sản xuất thuốc lá tăng 5,9%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 4,8%; sản  		xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 4,7%; sản xuất hóa chất và các sản  		phẩm từ hóa chất tăng 2,4%; sản xuất kim loại tăng 1,5%.
 		Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/9/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến,  		chế tạo tăng 9,3% so với cùng thời điểm năm 2012, trong đó một số ngành  		có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Dệt tăng 8,5%; sản xuất thiết  		bị điện tăng 8,1%; sản xuất trang phục tăng 5,1%; sản xuất thuốc lá tăng  		2,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 1,6%; sản xuất sản phẩm từ kim  		loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 2,2%; sản xuất sản phẩm từ  		khoáng phi kim loại khác giảm 11,6%; sản xuất xe có động cơ giảm 36,8%.  		Tuy nhiên vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Sản xuất  		đồ uống tăng 121%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 41,2%; sản  		xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 38,9%; sản xuất da và các sản phẩm có  		liên quan tăng 26,8%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 18,9%;  		sản xuất kim loại tăng 11,5%.   		 		Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Tám là  		70,7%; tỷ lệ tồn kho bình quân tám tháng năm nay là 74,1%, trong đó một  		số ngành có tỷ lệ tồn kho bình quân tám tháng cao là: Sản xuất hóa chất  		và sản phẩm hóa chất 113,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm 89,8%.
 		Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm  		01/9/2013 tăng 4,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong  		đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 1,4%; khu vực doanh nghiệp ngoài  		nhà nước tăng 1,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,4%. Chỉ số  		sử dụng lao động của ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,7%; công  		nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,7%; sản xuất và phân phối điện tăng  		3,1%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,9%. Một số ngành  		công nghiệp cấp II có chỉ số sử dụng lao động tăng cao so với cùng thời  		điểm năm trước là: Xử lý ô nhiễm và hoạt động quản lý chất thải tăng  		28,3%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 13,9%; sản xuất sản  		phẩm điện tử, máy tính và các sản phẩm quang học tăng 12,8%; sản xuất xe  		có động cơ tăng 9,9%; sản xuất trang phục tăng 7,5%; sản xuất kim loại  		tăng 5,5%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 4,3%.
 		 		4. Hoạt động xây dựng  
 		Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng năm 2013  		theo giá hiện hành ước tính đạt   		 		531,9  		nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt   		 		63,2  		nghìn tỷ đồng, chiếm   		 		11,9%;  		khu vực ngoài Nhà nước   		 		446,6  		nghìn tỷ đồng, chiếm 84%;  		khu vực có vốn đầu tư nước ngoài   		 		22,1  		nghìn tỷ đồng, chiếm   		 		4,1%.  		Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng chia theo loại công trình như sau:  		Công trình nhà ở đạt   		 		224,5  		nghìn tỷ đồng; công trình nhà không để ở đạt   		 		83,5  		nghìn tỷ đồng; công trình kỹ thuật dân dụng đạt   		 		158,8  		nghìn tỷ đồng; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt   		 		65,1  		nghìn tỷ đồng.
 		Giá trị sản xuất xây dựng chín tháng theo giá so sánh 2010 ước tính đạt  		432,6 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu  		vực Nhà nước đạt 52,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2%; khu vực ngoài Nhà nước  		đạt 361,3 nghìn tỷ đồng, tăng 4,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt  		18,6 nghìn tỷ đồng, tăng 37,5%.  
 		 		5. Hoạt động dịch vụ
 		 		a.   		 		Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng  
 		Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng  		  		 		chín   		 		tháng ước tính đạt   		 		1932  		nghìn tỷ đồng, tăng 12,5%  		so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá tăng   		 		5,3%.  		Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng   		 		chín   		 		tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt   		 		1484,3  		nghìn tỷ đồng, chiếm 76,8%  		tổng mức và tăng 12,1%;  		khách sạn nhà hàng đạt   		 		233  		nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1%  		và tăng   		 		14,7%;  		dịch vụ đạt   		 		196,7   		 		nghìn tỷ đồng, chiếm   		 		10,2%  		và tăng   		 		14,6%;  		du lịch đạt 18  		nghìn tỷ đồng, chiếm   		 		0,9%  		và tăng   		 		3,9%.
 		*  Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
 		 		b. Vận tải hành khách và hàng hóa            		 
 		Vận tải hành khách   		 		chín   		 		tháng năm nay ước tính đạt   		 		2209,7  		triệu lượt khách, tăng   		 		5,3%  		và   		 		93,1  		tỷ lượt khách.km, tăng   		 		5,1%  		so với cùng kỳ năm 2012,  		bao gồm: Vận tải trung ương đạt 26,6  		triệu lượt khách, tăng   		 		6,1%  		và   		 		22,2  		tỷ lượt khách.km, tăng   		 		7,8%;  		vận tải địa phương đạt   		 		2183,1  		triệu lượt khách, tăng   		 		5,2%  		và   		 		70,8  		tỷ lượt khách.km, tăng   		 		4,2%.  		Vận tải hành khách đường bộ   		 		chín   		 		tháng ước tính đạt   		 		2076  		triệu lượt khách, tăng   		 		5,4%  		và   		 		67  		tỷ lượt khách.km, tăng   		 		4,2%  		so với cùng kỳ năm trước; đường hàng không đạt   		 		13  		triệu lượt khách, tăng   		 		8,4%  		và   		 		20,5  		tỷ lượt   		 		khách.km,  		tăng   		 		9,5%;  		đường sắt đạt   		 		9,3  		triệu lượt khách,   		 		tăng 0,8%  		và   		 		3,4  		tỷ lượt khách.km,   		 		giảm  		2%; đường biển đạt 3,6  		triệu lượt khách, tăng   		 		4,4%  		và   		 		182,3   		 		triệu lượt khách.km, tăng   		 		3,6%. 		 		
 		Vận tải hàng hóa   		 		chín tháng  		ước tính đạt   		 		742,8  		triệu tấn, tăng   		 		3,8%  		và   		 		150,5  		tỷ tấn.km, giảm   		 		2,4%  		so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt   		 		720,1  		triệu tấn, tăng   		 		4,2%  		và   		 		66,7  		tỷ tấn.km, tăng   		 		3,4%;  		vận tải ngoài nước đạt   		 		22,7  		triệu tấn, giảm   		 		7,2%  		và   		 		83,8  		tỷ tấn.km, giảm   		 		6,6%.  		Vận tải hàng hoá địa phương   		 		chín  		tháng đạt   		 		700  		triệu tấn, tăng   		 		4,5%  		so với cùng kỳ năm trước và   		 		67,5  		tỷ tấn.km, tăng   		 		3,6%.  		Vận tải hàng hoá đường bộ đạt   		 		561  		triệu tấn, tăng   		 		4,3%  		và   		 		33,5  		tỷ tấn.km, tăng   		 		4%;  		đường sông đạt   		 		133  		triệu tấn, tăng   		 		5,4%  		và   		 		28,7  		tỷ tấn.km, tăng   		 		4,2%;  		đường biển đạt   		 		43,8  		triệu tấn, giảm   		 		6,3%  		và   		 		85,1  		tỷ tấn.km, giảm   		 		6,6%;  		đường sắt đạt   		 		4,9  		triệu tấn, giảm   		 		5,2%  		và   		 		2,8  		tỷ tấn.km, giảm 5,8%.
 		 		* Vận tải hành khách và hàng hóa
 		 		c.  		Khách quốc tế đến Việt Nam  
 		Khách quốc tế đến nước ta trong chín tháng   		 		ước tính đạt  		5490,2  		nghìn lượt người, tăng   		 		9,9%  		so với cùng kỳ năm trước,  		trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt   		 		3364,6  		nghìn lượt người, tăng   		 		12,7%;  		đến vì công việc   		 		918,6  		nghìn lượt người, tăng   		 		7,8%;  		thăm thân nhân đạt 913,8 		 		 		 		nghìn lượt người,   		 		tăng 7,1%.  		Trong chín tháng năm nay, khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng  		không đạt 4348,6 nghìn lượt người, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2012;  		khách đến bằng đường bộ đạt 972,1 nghìn lượt người, tăng 31,2%; khách  		đến bằng đường biển đạt 169,6 nghìn lượt người, giảm 13,6%.
 		Một  		số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta   		 		chín tháng qua   		 		tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc   		 		1359  		nghìn lượt người, tăng   		 		37%;  		Hàn Quốc   		 		562,1  		nghìn lượt người, tăng   		 		6,8%;  		Nhật Bản   		 		450,5  		nghìn lượt người, tăng   		 		5,1%;  		Cam-pu-chia   		 		247,7  		nghìn lượt người,   		 		tăng 4,5%;  		Ôx-trây-li-a   		 		238,6  		nghìn lượt người,   		 		tăng 12,5%; 		 		 		 		Ma-lai-xi-a   		 		237,1  		nghìn lượt người, tăng   		 		12,5%; 		 		 		 		Liên bang Nga 206 nghìn lượt người, tăng 65,9%;  		Thái Lan   		 		195  		nghìn lượt người, tăng 23,1%;  		Vương quốc Anh 136,1 nghìn lượt người, tăng 8%.   		 		Một số nước   		 		và vùng lãnh thổ   		 		có lượng khách đến nước ta giảm so với cùng kỳ năm trước là:  		  		 		Hoa Kỳ 328,2 nghìn lượt người, giảm 3,1%;   		 		Đài Loan   		 		297,6  		nghìn lượt người,   		 		giảm 6,3%;  		Pháp 157,6  		nghìn lượt người,   		 		giảm 6,7%;  		Xin-ga-po 136,3 nghìn lượt người, giảm 2,1%; Lào 96,3 nghìn lượt người;  		giảm 10%; Ca-na-đa 77,5 nghìn lượt người, giảm 11,6%.
 		 		* Khách quốc tế đến Việt Nam
 		 		II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
 		 		1. Đầu tư phát triển
 		Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện   		 		chín tháng   		 		năm   		 		2013  		theo giá   		 		hiện hành   		 		ước tính đạt   		 		755,9  		nghìn tỷ đồng, tăng   		 		6,1%  		so với cùng kỳ năm trước và bằng   		 		31,2% GDP,  		bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước   		 		297,3  		nghìn tỷ đồng, chiếm 39,3% tổng vốn và tăng   		 		4,2%;  		khu vực ngoài Nhà nước   		 		280  		nghìn tỷ đồng, chiếm 37,1% và tăng   		 		8,5%;  		khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài   		 		178,6  		nghìn tỷ đồng, chiếm 23,6% 		và   		 		tăng 5,6%.
Vốn đầu  tư phát triển toàn xã hội thực hiện  
  9 tháng   năm 2013    theo giá hiện hành  
   
    
        
            |  			  |  			Nghìn tỷ đồng |  			Cơ cấu     (%) |  			So với cùng kỳ  			năm trước (%) | 
        
            |  			 			TỔNG SỐ |  			 			755,9 |  			 			100,0 |  			 			106,1 | 
        
            |  			Khu vực Nhà nước |  			297,3 |  			39,3 |  			104,2 | 
        
            |  			Khu vực ngoài Nhà nước |  			280,0 |  			37,1 |  			108,5 | 
        
            |  			Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài |  			178,6 |  			23,6 |  			105,6 | 
    
 
  
 Trong vốn đầu tư thực hiện 9 tháng của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà  nước ước tính đạt 144,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,3% kế hoạch năm và giảm 1,2% so  với cùng kỳ năm 2012, gồm có:  
 - Vốn trung ương quản lý đạt 30 nghìn tỷ đồng, bằng 74,8% kế hoạch năm và giảm  16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông  Vận tải là 5277 tỷ đồng, bằng 84,1% và giảm 6,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển  Nông thôn 3114 tỷ đồng, bằng 71,2% và giảm 7,5%; Bộ Xây dựng 1016 tỷ đồng, bằng  57,7% và giảm 19,1%; Bộ Y tế 536 tỷ đồng, bằng 62,1% và giảm 31,3%; Bộ Giáo dục  và Đào tạo 438 tỷ đồng, bằng 62,8% và giảm 32,9%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du  lịch 349 tỷ đồng, bằng 69,7% và giảm 21,9%; Bộ Công Thương 225 tỷ đồng, bằng 83%  và giảm 29,1%.
-    Vốn địa phương quản lý đạt 114,5 nghìn tỷ đồng, bằng 71,7% kế hoạch năm và tăng  3,7% so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước  của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 17523 tỷ  đồng, bằng 63,6% kế hoạch năm và tăng 29,4% so với cùng kỳ năm 2012; thành phố  Hồ Chí Minh 11823 tỷ đồng, bằng 69% và tăng 6,2%; Đà Nẵng 3651 tỷ đồng, bằng  48,5% và giảm 43,4%; Quảng Ninh 3254 tỷ đồng,    bằng 83,5% và tăng 7,6%; Vĩnh Phúc 2935 tỷ đồng, bằng 97,9% và tăng 18,5%; Nghệ  An 2764 tỷ đồng, bằng 125% và giảm 6,4%; Thanh Hóa 2632 tỷ đồng, bằng 84% và  giảm 7,4%; Bà Rịa-Vũng Tàu 2477 tỷ đồng,  bằng 56,2% và tăng 7,9%; Bình Dương 2413 tỷ đồng, bằng 62,1% và tăng 8,9%; Kiên  Giang 2309 tỷ đồng, bằng 72,2% và tăng 4,9%.
 Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/9/2013  đạt   15005,3  triệu USD,   tăng 36,1%    so với    cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của   872  dự án được cấp phép mới đạt   9294,1  triệu USD,    giảm 7,3%   về    số dự án và    tăng 34,9%   về    số vốn; vốn đăng ký bổ sung của   340  lượt dự án được cấp phép từ các năm trước   là 5711,2  triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chín tháng   năm nay    ước tính đạt 8,6 tỷ USD,   tăng    6,4%    so với    cùng kỳ năm   2012.  
 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chín tháng tập trung chủ yếu vào ngành công  nghiệp chế biến, chế tạo với 12969,3 triệu USD, chiếm 86,4% tổng vốn đăng ký;  ngành kinh doanh bất động sản đạt 588,1 triệu USD, chiếm 3,9%; các ngành   khác    đạt 1447,9 triệu USD, chiếm 9,7%.
 Cả nước có 46 tỉnh,  thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài   được    cấp phép mới trong chín tháng năm  nay, trong  đó Thái Nguyên có số vốn đăng ký lớn nhất với 2142 triệu USD, chiếm 23% tổng vốn  đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 1837 triệu USD, chiếm 19,8%; Bình Định  1009 triệu USD, chiếm 10,9%; thành phố Hồ Chí Minh 818 triệu USD, chiếm 8,8%;  Hải Dương 613 triệu USD, chiếm 6,6%; Bình Dương 507 triệu USD, chiếm 5,5%;  Đồng  Nai 384 triệu USD, chiếm 4,1%...
  Trong số 45 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư   được    cấp phép mới vào Việt Nam  chín tháng  qua,  Xin-ga-po tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với 2695 triệu USD, chiếm 29% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến  là Hàn Quốc 2237 triệu USD, chiếm 24,1%; Nhật Bản 1123 triệu USD, chiếm  12,1%; Liên bang Nga 1018 triệu USD, chiếm 11%; Đặc khu Hành chính Hồng   Kông  584 triệu USD, chiếm 6,3%...
 * Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
 * Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ  01/01 – 20/9/2013
 2. Tài chính,  ngân hàng 
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2013 ước  tính đạt 509,7 nghìn tỷ đồng, bằng 62,5% dự toán năm, trong đó thu nội địa 331,2  nghìn tỷ đồng, bằng 60,7%; thu từ dầu thô 77,5 nghìn tỷ đồng, bằng 78,3%; thu  cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 96,8 nghìn tỷ đồng, bằng 58,1%.  Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 98,4 nghìn tỷ đồng, bằng  56,5% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu  thô) 74,1 nghìn tỷ đồng, bằng 69%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài  Nhà nước 72,1 nghìn tỷ đồng, bằng 59,9%; thuế thu nhập cá nhân 35 nghìn tỷ đồng,  bằng 63,9%; thuế bảo vệ môi trường 8 nghìn tỷ đồng, bằng 56,3%; thu phí, lệ phí  6,7 nghìn tỷ đồng, bằng 64,8%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2013 ước  tính đạt 640,4 nghìn tỷ đồng, bằng 65,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát  triển 114,1 nghìn tỷ đồng, bằng 65,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 110,5  nghìn tỷ đồng, bằng 65%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng,  an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách  tiền lương) ước tính đạt 453 nghìn tỷ đồng, bằng 67,2%; chi trả nợ và viện trợ  73,3 nghìn tỷ đồng, bằng 69,8%.
  3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa  
  a. Xuất khẩu hàng hoá
 Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9/2013 ước tính đạt 11,3 tỷ USD, giảm 5,2% so  với tháng trước và tăng 20% so với cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch hàng hóa xuất  khẩu chín tháng ước tính đạt 96,5 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước,  bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 32,5 tỷ USD, tăng 4,4%; khu vực có vốn  đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 63,9 tỷ USD, tăng 22,4%. Kim ngạch hàng  hóa xuất khẩu chín tháng tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với  các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh  kiện, hàng dệt may...  
 Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực chín tháng, một số mặt hàng có kim ngạch  tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 15,1  tỷ USD, tăng 75,5%; hàng dệt, may đạt 13,2 tỷ USD, tăng 18%; điện tử, máy tính  và linh kiện đạt 7,8 tỷ USD, tăng 45,3%; giày dép đạt 6,1 tỷ USD, tăng 16,3%; gỗ  và sản phẩm gỗ đạt 3,8 tỷ USD, tăng 13,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt  3,9 tỷ USD, tăng 13,7%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 1,4 tỷ USD, tăng  25,1%; rau quả đạt 0,8 tỷ USD, tăng 24,5%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất  khẩu tăng khá là: Sản phẩm từ chất dẻo đạt 1,3 tỷ USD, tăng 12,6%; hạt điều đạt  1,2 tỷ USD, tăng 11,3%. Riêng kim ngạch xuất khẩu dầu thô, gạo, cao su và than  đá giảm so với cùng kỳ năm 2012, trong đó dầu thô đạt 5,5 tỷ USD, giảm 11,8%;  gạo đạt 2,4 tỷ USD, giảm 14,6%; cao su đạt 1,7 tỷ USD, giảm 16,1%; than đá đạt  0,7 triệu USD, giảm 25,3%.
  b. Nhập khẩu hàng hóa
 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 9/2013 ước tính đạt 11,6 tỷ USD, tăng 2,5% so  với tháng trước và tăng 24%  so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu chín tháng đạt 96,6 tỷ  USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt  42,1 tỷ USD, tăng 5,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 54,5 tỷ USD, tăng  24,8%.  
 Trong chín tháng qua, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với  cùng kỳ năm trước là: Điện tử máy tính và linh kiện đạt 13 tỷ USD, tăng 40,5%;  vải đạt 6,1 tỷ USD, tăng 19,1%; chất dẻo đạt 4,2 tỷ USD, tăng 17%; nguyên phụ  liệu dệt may, giày, dép đạt 2,7 tỷ USD, tăng 19,6%; thức ăn gia súc và nguyên  phụ liệu đạt 2,4 tỷ USD, tăng 39,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng  khá là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ  tùng đạt 13,2 tỷ USD, tăng 9,3%; sắt thép đạt 5 tỷ USD, tăng 11,7%; sản phẩm hóa  chất đạt 2 tỷ USD, tăng 11,7%. Một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch giảm so  với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 5,3 tỷ USD, giảm 25,4%; cao su đạt 502  triệu USD, giảm 17,1%; dầu mỡ động thực vật đạt 467 triệu USD, giảm 18,3%; khí  đốt hóa lỏng đạt 439 triệu USD, giảm 12,6%.  
   Trong tám tháng năm nay, xuất siêu hàng hóa thực hiện là 176 triệu USD; tháng  Chín nhập siêu ước tính 300 triệu USD; tính chung chín   tháng, nhập  siêu    124 triệu USD,  bằng 0,1%    tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu  9574 triệu USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 9450 triệu USD.
 * Hàng hóa xuất  khẩu
 * Hàng hóa nhập  khẩu
  4. Chỉ số giá  
  a. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)  
 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2013 tăng 1,06% so với tháng trước, trong đó nhóm  giáo dục tăng cao nhất với 9,38% (Dịch vụ giáo dục tăng 10,66%). Các nhóm hàng  hóa, dịch vụ khác có chỉ số giá tăng dưới 1% hoặc giảm gồm: Nhà  ở và vật liệu xây dựng tăng  0,91%;    hàng ăn và dịch vụ ăn uống  tăng 0,65% (Lương thực tăng 0,41%; thực phẩm tăng 0,87%);    may mặc, mũ nón, giày dép tăng  0,29%;  thiết bị và đồ dùng gia đình tăng  0,23%;    đồ uống và thuốc lá    tăng 0,22%;    văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,09%;    thuốc và dịch vụ y tế tăng  0,04%; giao thông giảm 0,24%; bưu chính viễn thông giảm 0,01%.
 Chỉ số giá tháng này tăng chủ yếu do các yếu tố sau: (1) Giá điện được điều  chỉnh tăng thêm 5% từ ngày 01/8/2013; (2) Một số địa phương tiếp tục thực hiện  lộ trình tăng học phí; (3) Nhu cầu tiêu dùng vật phẩm phục vụ học tập của học  sinh vào năm học mới tăng cao. Riêng mức tăng của chỉ số giá nhóm giáo dục làm  CPI chung cả nước tăng 0,54%.
 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2013 tăng 4,63% so với tháng 12/2012 và tăng 6,30%  so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân chín tháng năm nay tăng  6,83% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
  b. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
 Chỉ số giá vàng tháng 9/2013 tăng 1,97% so với tháng trước; giảm 18,6% so với  tháng 12/2012; giảm 16,13% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng  9/2013 giảm 0,26% so với tháng trước; tăng 1,32% so với tháng 12/2012; tăng 1,3%  so với cùng kỳ năm 2012.
  c.    Chỉ số giá sản xuất  
 Chỉ số giá sản xuất chín tháng năm 2013 có một số biến động: Chỉ số giá bán sản  phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 0,9% so với cùng  kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III giảm 1,9% so với quý trước và tăng  2,4% so với cùng kỳ năm 2012.    Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp tăng     4,7%  so với cùng kỳ năm   2012,  trong đó chỉ số giá quý III  tăng   0,5%  so với quý trước và tăng   5,8%  so với cùng kỳ năm    trước.  Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất tăng    3,0%  so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III tăng 0,4%  so với quý trước và tăng    3,1%  so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá cước vận tải tăng    7,2%  so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III  tăng   0,3%  so với quý trước và tăng   6,5%  so với cùng kỳ năm 2012.
  d.    Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
 Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá   chín  tháng năm  2013 giảm 3,2%  so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III  giảm 0,7%    so với quý trước và giảm   1,3%  so với cùng kỳ năm 2012.  Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá    chín  tháng giảm 2,3%  so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá quý III  giảm   1,7%  so với quý trước và   giảm 1,7%  so với cùng kỳ năm 2012.  
 * Chỉ số giá  tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 9 năm 2013
 * Chỉ số giá  bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm, thủy sản quý III 2013
  *   Chỉ số giá  bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp quý III năm 2013
   *  Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý III năm 2013
   *  Chỉ số giá xuất khẩu quý III năm 2013
   *  Chỉ số giá nhập khẩu quý III năm 2013
   *  Chỉ số giá xuất nhập khẩu hàng hóa và tỷ giá thương mại hàng hóa quý III năm  2013
   *  Chỉ số giá cước vận tải kho bãi quý III năm 2013
  III.  MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
  1. Lao động và việc làm  
 Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính đến 01/10/2013 là 53,9 triệu  người, tăng 446,1 nghìn người so với lực lượng lao động tại thời điểm 01/7/2013,  trong đó lao động nam chiếm 51,5%; lao động nữ chiếm 48,5%. Lực lượng lao động  trong độ tuổi lao động tại thời điểm 01/10/2013 là 47,7 triệu người, tăng 366  nghìn người so với thời điểm 01/7/2013, trong đó nam chiếm 53,7%; nữ chiếm  46,3%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế chín  tháng năm 2013 ước tính 52,4 triệu người, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2012. Lao  động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc chín tháng năm nay của khu vực nông, lâm  nghiệp và thủy sản chiếm 47,4% tổng số, không biến động nhiều so với năm trước;  khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 20,7%, giảm 0,5 điểm phần trăm; khu vực  dịch vụ chiếm 31,9%, tăng 0,5 điểm phần trăm.
 Tỷ lệ lao động phi chính thức trong tổng số lao động 15 tuổi trở lên đang làm  việc chín tháng năm 2013 ước tính 33,7%, trong đó khu vực thành thị là 47,1%;  khu vực nông thôn là 28%.
 Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi chín tháng năm 2013 ước tính là  2,22%, trong đó khu vực thành thị là 3,67%, khu vực nông thôn là 1,56% (Số liệu  của chín tháng năm 2012 tương ứng là: 2,06%; 3,31%; 1,48%). Tỷ lệ thiếu việc làm  của lao động trong độ tuổi chín tháng năm 2013 ước tính là 2,66%, trong đó khu  vực thành thị là 1,50%, khu vực nông thôn là 3,18% (Số liệu của chín tháng năm  2012 tương ứng là: 2,75%; 1,46%; 3,33%).  
 Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên trong độ tuổi 15-24 chín tháng năm 2013 ước  tính là 5,97%, trong đó khu vực thành thị là 10,79%, tăng 1,27 điểm phần trăm so  với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 4,49%, tăng 0,05 điểm phần trăm. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên chín tháng năm 2013 ước  tính là 1,29%, trong đó khu vực thành thị là 2,45%, khu vực nông thôn là 0,77%.  Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng lên do sản xuất vẫn gặp khó khăn  làm ảnh hưởng đến việc làm của người lao động.
  2. Đời sống dân cư và đảm bảo an sinh xã hội
 Công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội luôn được Chính phủ quan  tâm, chỉ đạo quyết liệt cùng sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương  nhằm giảm bớt khó khăn trong đời sống của dân cư.  Theo báo cáo của các địa phương, tổng kinh  phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo chín tháng năm nay là 2694  tỷ đồng, bao gồm: 1211 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách;  1085 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 398 tỷ đồng dành cho cứu đói, cứu trợ xã hội  khác. Ngoài ra, các địa phương đã thực hiện cấp trên 7,2 triệu sổ/thẻ bảo hiểm y  tế và giấy khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng chính sách.
Tình trạng thiếu đói giáp hạt ở khu vực nông thôn chưa  được cải thiện nhiều. Trong tháng Chín, cả nước có 16,4 nghìn hộ thiếu đói, tăng  10% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 70 nghìn nhân khẩu thiếu đói, tăng  3%. Tính chung chín tháng năm nay, cả nước có 387,9 nghìn lượt hộ thiếu đói,  giảm 3,3% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 1628 nghìn lượt nhân khẩu bị  thiếu đói, giảm 4,1%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp,  các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 42 nghìn tấn lương thực và  13,3 tỷ đồng.  
  3. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm  
 Trong chín tháng năm 2013, cả nước có    53,2 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (19 trường hợp tử vong);     44,1 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (25 trường hợp tử vong);  612 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (16 trường hợp tử vong); 468 trường hợp  mắc thương hàn; 33 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp  tử vong); 2 trường hợp mắc cúm A (H5N1) và 18 trường hợp mắc hội chứng viêm da  dày sừng bàn tay, bàn chân.
 Trong tháng Chín đã phát hiện thêm 576 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người  nhiễm HIV của cả nước tính đến 17/9/2013 lên 215,3 nghìn người, trong đó 63,1  nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 63,9 nghìn người đã tử vong do  AIDS.  
 Công tác thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất,  tiêu thụ và sử dụng thực phẩm mặc dù tiếp tục được tăng cường nhưng ý thức và  hành vi của người sản xuất, kinh doanh cũng như người tiêu dùng trong cộng đồng  vẫn chưa được nâng cao. Số vụ ngộ độc tập thể vẫn diễn ra trên nhiều địa phương  trong cả nước. Trong tháng Chín, cả nước đã xảy ra 13 vụ ngộ độc thực phẩm làm  157 trường hợp bị ngộ độc, trong đó 1 trường hợp tử vong. Tính chung chín tháng  năm 2013, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 108 vụ ngộ độc thực phẩm làm 2,8 nghìn  trường hợp bị ngộ độc, trong đó 18 người tử vong.  
  4. Tai nạn giao thông                    
 Trong tháng   Chín,   trên địa bàn cả  nước đã xảy   886 vụ tai nạn  giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên,   làm   710  người  chết và 523  người bị  thương.  So  với cùng kỳ năm trước,   số vụ   tai nạn giao thông  tăng 10,2%,  số người chết giảm   7,5%,  số người bị thương   tăng 5,9%.  Ngoài ra, trong tháng đã xảy ra 1517 vụ va chạm giao thông, tăng 13,7% so với  cùng kỳ năm trước, làm 1899 người bị thương nhẹ, tăng 19,4%.   
 Tính chung chín  tháng năm nay, cả nước đã xảy ra   8155 vụ tai nạn  giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên,   làm   7040  người  chết và 4931  người bị  thương. Số vụ va chạm giao thông trong chín tháng là 13706 vụ, làm 16849 người  bị thương nhẹ. So  với cùng kỳ năm   2012,  số vụ  tai nạn giao  thông   tăng 4,1%,  số vụ va  chạm giao thông giảm 10,7%,   số người chết  tăng 2,1%,  số người bị thương   giảm 11,9%  và số người bị thương nhẹ giảm 10,9%.
 Bình quân   01  ngày trong chín tháng năm nay,   trên địa bàn  cả nước xảy  ra  30 vụ  tai nạn giao thông và 50 vụ va chạm giao thông,   làm   26  người  chết, 18  người bị  thương và 62 người bị thương nhẹ.
 5. Thiệt hại do  thiên tai  
  Trong chín tháng năm 2013,  thiên tai xảy ra gây thiệt hại   lớn  về người và tài sản, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư của nhiều địa  phương trong cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm   176  người chết và mất tích,   262  người bị thương;   1,6 nghìn  ngôi nhà bị sập, cuốn trôi;   83,7  nghìn ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái;   14,8  km đề, kè,   2,1 nghìn  công trình, đập, cống bị hư hỏng và 2,2  nghìn cột điện bị gãy, đổ; gần   88,3  nghìn ha lúa và  51,7  nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng.   Lào Cai là địa phương    bị thiệt hại nặng nhất với 23 người chết và mất tích, 82 người bị thương;  18,9  nghìn ngôi nhà bị sập, sạt lở, tốc mái  và gần 2 nghìn    ha lúa   và    hoa màu bị ngập, hư hỏng.    Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong chín tháng ước tính    4,5  nghìn tỷ đồng, trong đó   Lào Cai  thiệt hại khoảng   686  tỷ đồng, chiếm   15%  tổng giá trị thiệt hại của cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ  các địa phương bị ảnh hưởng thiên tai trong chín tháng năm   nay  là   gần 10  tỷ đồng.   
  6. Tình trạng cháy, nổ  
 Trong chín tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1,8 nghìn vụ cháy, nổ  nghiêm trọng, làm 73 người chết và 163 người bị thương, thiệt hại do các vụ  cháy, nổ gây ra ước tính hơn 1069 tỷ đồng. Riêng tháng Chín đã xảy ra 159 vụ  cháy, nổ, làm 3 người chết, 25 người bị thương với giá trị thiệt hại ước tính  gần 521 tỷ đồng.  
  Khái quát lại,  kinh tế-xã hội nước ta chín tháng năm nay có chuyển biến tích cực: Tăng trưởng  kinh tế tiếp tục tăng, trong đó khu vực dịch vụ giữ ổn định và tăng khá. Lạm  phát ở mức được kiểm soát. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng tăng  rõ rệt. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.  Nợ xấu vẫn chưa được giải quyết. Sản xuất nông nghiệp, thủy sản gặp khó khăn về  tiêu thụ sản phẩm và chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết xấu. Sản xuất kinh doanh  trong nước tuy đã có cải thiện, sức mua có dấu hiệu tăng nhưng vẫn còn ở mức  thấp. Trong những tháng cuối năm, để tiếp tục giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy  nhanh tiến độ sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng, các  ngành, các cấp và địa phương cần tập trung làm tốt một số vấn đề trọng tâm sau  đây:
  Một là,  tiếp tục quá trình giải quyết vấn đề nợ xấu ngân hàng.   Thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ linh hoạt có kiểm  soát, bảo đảm mức lạm phát và mức tăng trưởng hợp lý nhằm ổn định kinh tế vĩ mô.  Đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường. Tập trung nguồn  lực nhằm hỗ trợ tài chính cũng như xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc cơ cấu  lại các tổ chức tín dụng.  
  Hai là,  tiếp tục ban hành và thực hiện các  chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp cùng các biện pháp trợ giúp doanh  nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.    Thúc đẩy nhanh hơn tiến độ tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là việc  hoàn thiện cơ chế, chính sách trong lĩnh vực này. Nâng cao tính cạnh tranh của  sản phẩm hàng hóa, nhất là sản phẩm xuất khẩu. Kích  cầu tiêu dùng nội địa để tăng tổng cầu nhằm đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng  tồn kho, góp phần phát triển sản xuất của doanh  nghiệp.
  Ba là,  quan tâm thường xuyên và hiệu quả đến đời sống và việc làm của người lao động,  nhất là đối tượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp để ổn định cuộc sống và tạo  điều kiện tốt cho nguồn nhân lực trẻ được đào tạo và tiếp cận kiến thức tiên  tiến. Nghiên cứu xây dựng đồng bộ cơ chế, chính sách quy định trong công tác an  sinh xã hội để giảm khó khăn và cải thiện hơn nữa đời sống cho các đối tượng  được thụ hưởng. Các địa phương cần chủ động hơn nữa trong việc triển khai các  chương trình, đề án và chính sách mới về bảo trợ xã hội, trợ cấp khó khăn cho hộ  nghèo.  
  Nguồn: Tổng cục thống kê