Tình hình  kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2013
 _______________
 
  Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
  Nông nghiệp
 Trọng tâm của sản xuất nông nghiệp trong tháng là tập trung chăm sóc cây trồng  vụ đông xuân ở các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa, hoa màu đông xuân và gieo  trồng lúa hè thu ở các địa phương phía Nam. Tính đến 15/4/2013, cả nước đã gieo  cấy được 3120,4 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 101,4% cùng kỳ năm trước, trong đó  các địa phương phía Bắc gieo cấy 1138,1 nghìn ha, bằng 99,2%; các địa phương  phía Nam gieo cấy 1982,3 nghìn ha, bằng 102,7%. Tính đến trung tuần tháng Tư,  các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1690,8 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 98,4%  cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1568,7 nghìn  ha, chiếm 98% diện tích gieo cấy và bằng 103%. Theo báo cáo sơ bộ, sản lượng lúa  toàn vùng ước tính đạt 10,8 triệu tấn, tăng 8,5 nghìn tấn so với vụ đông xuân  trước, chủ yếu do diện tích tăng hơn 19 nghìn ha.  
 Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đã gieo sạ được  839,5 nghìn ha lúa hè thu, bằng 145,9% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng  bằng sông Cửu Long gieo sạ 824,8 nghìn ha, bằng 145%. Một số tỉnh có diện tích  gieo sạ cao là: Đồng Tháp 173 nghìn ha; Kiên Giang 117 nghìn ha; An Giang 114  nghìn ha; Long An 88 nghìn ha. Tại các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long,  tình trạng xâm nhập mặn đang ảnh hưởng đến lúa hè thu mới xuống giống.
 Tính đến giữa tháng Tư, cả nước gieo trồng được 445,4 nghìn ha ngô, bằng 98,5%  cùng kỳ năm trước; 81,8 nghìn ha khoai lang, bằng 96,4%; 154,8 nghìn ha lạc,  bằng 99%; 60 nghìn ha đậu tương, bằng 113,4%; 484,7 nghìn ha rau đậu, bằng  109,4%.
 Tình trạng khô hạn tại các địa phương vùng Tây Nguyên đã làm hơn 56 nghìn ha cây  trồng bị ảnh hưởng (trên 32 nghìn ha cà phê), trong đó 5 nghìn ha lúa và hoa màu  bị mất trắng.  
 Theo báo cáo sơ bộ, đàn trâu, bò trong tháng ước tính giảm 3-4% so với cùng kỳ  năm trước do diện tích chăn thả bị thu hẹp và thời gian tái đàn chậm. Chăn nuôi  lợn gặp khó khăn do giá bán ở mức thấp và dịch bệnh bùng phát. Dịch lợn tai xanh  xảy ra tại một số tỉnh làm chết và tiêu hủy hơn 6000 con. Dịch lở mồm long móng  trên lợn đang diễn biến phức tạp với sự xuất hiện của chủng virus mới nhưng chưa  có vac-xin phòng chống. Ước tính đàn lợn cả nước trong tháng giảm khoảng 2-3% so  với cùng kỳ năm trước. Trong chăn nuôi gia cầm, người nuôi có tâm lý lo ngại về  nguy cơ bùng phát dịch cúm. Cùng với những khó khăn do tác động của dịch bệnh,  giá trứng gia cầm giảm nhiều gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc đầu tư tái đàn.  Ước tính đàn gia cầm cả nước trong tháng giảm khoảng 2-3% so với cùng kỳ năm  2012.
 Tính đến ngày 21/4/2013, dịch cúm gia cầm đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa  qua 21 ngày còn ở các địa phương là: Dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Hà  Tĩnh; dịch tai xanh trên lợn ở Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An  và Hà Tĩnh.
  Lâm nghiệp
 Thời tiết khô hạn tại nhiều địa phương trong cả nước làm ảnh hưởng đến sản xuất  lâm nghiệp, nhất là công tác trồng rừng. Diện tích rừng trồng mới tập trung  tháng Tư ước tính đạt 6,3 nghìn ha, bằng 66,3% cùng kỳ năm trước; số cây lâm  nghiệp trồng phân tán đạt 17,6 triệu cây, tăng 1,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt  414 nghìn m3, tăng 7,3%; sản lượng củi khai thác đạt 2,8  triệu ste, tăng 2,6%.
 Tính chung bốn tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung đạt 14,7 nghìn ha,  bằng 82,1% cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 81,6 triệu  cây, tăng 2,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1544,7 nghìn m3, tăng 7,9%; sản lượng củi khai thác là 10,2 triệu ste, tăng 2,9%.
 Do thời tiết trong kỳ tiếp tục nắng nóng, khô hạn nên nhiều địa phương có nguy  cơ cháy rừng cao, đặc biệt các tỉnh khu vực Nam Trung bộ, Tây Nguyên và Đông Nam  bộ. Trong tháng có 74 ha rừng bị thiệt hại, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 42  ha; diện tích bị phá là 32 ha. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng thiệt  hại là 534 ha, giảm 33,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích bị cháy là  446 ha, giảm 37,1%; diện tích bị phá là 88 ha, giảm 4,5%.
  Thủy sản
 Sản lượng thuỷ sản tháng Tư ước tính đạt 409,8 nghìn tấn, tăng 0,4% so với cùng  kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 321,3 nghìn tấn, giảm 0,5%; sản lượng  tôm đạt 36,6 nghìn tấn, tăng 4% và sản lượng thủy sản khác đạt 51,9 nghìn tấn,  tăng 3,4%.
 Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Tư ước tính đạt 187,3 nghìn tấn, giảm 4% so  với cùng kỳ năm 2012, trong đó sản lượng cá đạt 148,4 nghìn tấn, giảm 6%; tôm  đạt 27,5 nghìn tấn, tăng 4,2% và thủy sản khác đạt 11,4 nghìn tấn, tăng 5,6%.  
 Nuôi cá tra vẫn gặp nhiều khó khăn về giá và thị trường tiêu thụ. Giá thức ăn  mặc dù đã giảm từ 4000- 6000 đ/kg nhưng chi phí đầu vào vẫn cao hơn giá bán từ  1000 - 1500đ/kg. Phán quyết của Mỹ áp đặt mức thuế chống phá giá đối với mặt  hàng cá tra, cá ba sa phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ dẫn tới  nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng. Trong tháng Tư, sản  lượng cá tra của An Giang ước tính đạt 18 nghìn tấn, giảm 18% so với cùng kỳ năm  2012; Cần Thơ 7,4 nghìn tấn, giảm 1,4%; Bến Tre 22 nghìn tấn, giảm 29%; Vĩnh  Long 1,8 nghìn tấn, giảm 52%.  
 Nuôi tôm sú tại các địa phương phát triển khá ổn định. Dịch bệnh tuy có xảy ra  nhưng không lan rộng, phần lớn diện tích bị nhiễm bệnh đã được xử lý kịp thời.  Trong tháng, sản lượng tôm sú thu hoạch tại Cà Mau là 11 nghìn tấn, xấp xỉ cùng  kỳ năm trước; Bạc Liêu là 6,5 nghìn tấn, tăng 6,2%... Nuôi tôm thẻ chân trắng và  tôm hùm lồng không được thuận lợi, nhất là tại các địa phương khu vực miền  Trung, chủ yếu do dịch bệnh và thời tiết nắng nóng kéo dài cùng với môi trường  nguồn nước bị ô nhiễm. Sản lượng tôm hùm lồng trong tháng của Khánh Hòa giảm  12,3% so với cùng kỳ năm trước; Phú Yên có trên 56 ha tôm thẻ chân trắng bị ảnh  hưởng do dịch bệnh; Bình Thuận xả bỏ 29 ha tôm thẻ chân trắng đang nuôi do dịch  bệnh...
 Nuôi các loại thủy sản khác phát triển theo hướng chuyển đổi và mở rộng diện  tích nuôi đa canh, đa con kết hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và bảo đảm môi  trường sinh thái bền vững. Phổ biến là các mô hình nuôi kết hợp như: Tôm - cá,  tôm - cua, tôm - lúa, lúa - cá… Các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như: Cá  mú, cá giò, tu hài… được các địa phương phát triển nuôi lồng, bè trên biển.  
 Sản lượng thủy sản khai thác tháng Tư ước tính đạt 222,5 nghìn tấn, tăng 4,4% so  với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 212,5 nghìn tấn, tăng 4,6%.  
 Tính chung bốn tháng đầu năm nay, sản lượng thủy sản ước tính đạt 1561 nghìn  tấn, tăng 0,9% so cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt  687,3 nghìn tấn, giảm 2,7%; sản lượng thủy sản khai thác đạt  873,7 nghìn tấn,  tăng 4%. Trong sản lượng thủy sản khai thác, sản lượng khai thác biển đạt  825 nghìn tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2012 với sản lượng cá đạt 633 nghìn  tấn, tăng 4,4%; tôm đạt 35,9 nghìn tấn, tăng 3,5%. Khai thác biển chủ yếu tập  trung vào đối tượng cá lớn vùng biển xa bờ, đặc biệt là cá ngừ đại dương. Sản  lượng cá ngừ khai thác bốn tháng đầu năm nay của Bình Định là 3,1 nghìn tấn,  tăng 76,1% so với cùng kỳ năm trước; Phú Yên 3,9 nghìn tấn, tăng 8,9%. Tuy  nhiên, hiện giá cá ngừ đại dương vẫn đang giảm mạnh, dao động từ 50-55 nghìn  đồng/kg, giảm 54% so với cùng kỳ năm trước nên ảnh hưởng tới thu nhập của ngư  dân.
  Sản xuất công nghiệp
 Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Tư tăng 5,8% so với cùng kỳ năm  trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1%; công nghiệp chế biến, chế  tạo tăng 6,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,2%; cung cấp nước, xử lý rác  thải, nước thải tăng 9,7%.
 Tính chung bốn tháng đầu năm 2013, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5% so với  cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 5,9% của cùng kỳ năm 2012), trong đó ngành  công nghiệp khai khoáng tăng 2,1% (cùng kỳ năm trước tăng 3%); công nghiệp chế  biến, chế tạo tăng 5,5% (cùng kỳ năm trước tăng 6%); sản xuất và phân phối điện  tăng 9% (cùng kỳ năm trước tăng 12,9%); cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải  tăng 8,8% (bằng mức tăng của cùng kỳ năm trước).
 Trong 5% mức tăng chung của bốn tháng, ngành khai thác đóng góp 0,4 điểm phần  trăm; ngành chế biến, chế tạo đóng góp 3,9 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối  điện đóng góp 0,6 điểm phần trăm và ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác  thải đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
 Trong các ngành công nghiệp, một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao là: Sản  xuất da tăng 17,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị)  tăng 15,9%; sản  xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 14,1%; sản xuất đồ uống tăng 13,7%; sản  xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 11,8%. Một số ngành có mức tăng khá là:    Sản  xuất và phân phối điện tăng 9%; sản xuất trang phục tăng 6,5%; sản xuất thiết bị  điện tăng 6,4%. Một số    ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước như: Sản  xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 5,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng  4,6%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 3,9%; khai thác dầu thô và  khí tự nhiên tăng 3,9%; sản xuất xe có động cơ tăng 3,9%; sản xuất sản phẩm từ  cao su và plastic tăng 3,8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 0,6%; sản xuất  sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học giảm 2%; khai  thác than cứng và than non giảm 2,5%.
 Chỉ số sản xuất công nghiệp bốn tháng đầu năm 2013 của một số tỉnh, thành phố có  quy mô công nghiệp lớn như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 3,9% so với cùng kỳ  năm trước; Đồng Nai tăng 7%; Bình Dương tăng 8,6%; Hà Nội tăng 4,7%; Hải Phòng  tăng 2,5%; Bắc Ninh tăng 7,6%; Vĩnh Phúc tăng 15,1%; Cần Thơ tăng 5,8%; Hải  Dương tăng 7,7%; Đà Nẵng tăng 10,7%.
 Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ba tháng đầu năm 2013  tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các  ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất đồ uống  tăng 16,3%; sản xuất  thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 16%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và  plastic tăng 11%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 10,9%; sản xuất sản  phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 10,3%; sản xuất xe có động cơ tăng  6,8%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 6,6%;  sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất tăng 6%. Một số ngành có chỉ số  tiêu thụ ba tháng đầu năm tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thuốc lá tăng  2,5%; sản xuất trang phục tăng 2,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng  2,2%; dệt tăng 1,9%; sản xuất, chế biến thực phẩm giảm 1,1%; sản xuất thiết bị  điện giảm 2,9%; sản xuất kim loại giảm 7,2%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm  9,3%.
 Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/4/2013 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo  tăng 13,1% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng  cao là: Sản xuất đồ uống tăng 41,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 35,2%; sản xuất  giường, tủ, bàn ghế tăng 35%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 26,6%;  sản xuất thiết bị điện tăng 22,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng  17,9%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Dệt tăng 8,8%; sản  xuất chế biến thực phẩm tăng 1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 1,9%;  sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 3,9%; sản xuất da giảm 12,5%; sản xuất sản phẩm  điện tử, máy vi tính và quang học giảm 60%.
 Tỷ lệ tồn kho tháng Ba năm nay là 73,4%, tỷ lệ tồn kho ba tháng đầu năm là  77,8%. Những ngành có tỷ lệ tồn kho cao hơn tỷ lệ tồn kho chung của ngành chế  biến, chế tạo là: Sản xuất xe có động cơ 130,8%; sản xuất hóa chất và sản phẩm  từ hóa chất 126,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 122,6%; sản xuất  giường, tủ, bàn, ghế 101,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 96,3%.
 Chỉ số sử dụng lao động trong tháng Tư của các doanh nghiệp công nghiệp tăng  0,92% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sử dụng lao động  tháng 4/2013 tăng 0,1%, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,4%; khu  vực doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 3,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng  2,5%. Chỉ số sử dụng lao động tháng Tư trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng  giảm 2,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,1%; sản xuất và phân phối điện  tăng 3,5%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 1,8%.
  Đầu tư
 Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng    Tư  năm 2013  ước tính đạt    15677  tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương    3562  tỷ đồng; vốn địa phương    12115  tỷ đồng. Tính chung bốn tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách  Nhà nước đạt 51374 tỷ đồng, bằng 25,7% kế hoạch năm và giảm 3,9% so với cùng kỳ  năm 2012, gồm có:
 Vốn trung ương quản lý đạt 10984 tỷ đồng, bằng 23,2% kế hoạch năm và giảm 17% so  với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải  là 1627 tỷ đồng, bằng 25,1% và giảm 19%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn  952 tỷ đồng, bằng 21,5% và giảm 20,7%; Bộ Xây dựng 407 tỷ đồng, bằng 20,1% và  giảm 10%; Bộ Y tế 199 tỷ đồng, bằng 22,5% và giảm 26,4%; Bộ Giáo dục và Đào tạo  173 tỷ đồng, bằng 24,7% và giảm 25,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 134 tỷ  đồng, bằng 26,3% và giảm 16,2%; Bộ Công Thương 90 tỷ đồng, bằng 28,7% và giảm  19,1%.
 Vốn địa phương quản lý đạt 40390 tỷ đồng, bằng 26,4% kế hoạch năm và tăng 0,4%  so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện của một số địa phương như sau: Hà  Nội đạt 5379 tỷ đồng, bằng 19,5% kế hoạch năm và tăng 17,3% so với cùng kỳ năm  2012; thành phố Hồ Chí Minh 3639 tỷ đồng, bằng 21,2% và tăng 5,1%; Đà Nẵng 1455  tỷ đồng, bằng 27,2% và giảm 25,5%; Vĩnh Phúc 1196 tỷ đồng, bằng 39,9% và tăng  13,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1154 tỷ đồng, bằng 26,2% và tăng 13,1%; Thanh Hóa 1072 tỷ  đồng, bằng 34,2% và tăng 0,9%.
 Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/4/2013 đạt 8219,1  triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vốn đăng ký của 341 dự án  được cấp phép mới đạt 4873,1 triệu USD (giảm 10,5% số dự án và tăng 14,6% số vốn  so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 121 lượt dự án được cấp phép  từ các năm trước với 3346 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện  bốn tháng đầu năm 2013 ước tính đạt 3,8 tỷ USD, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm  2012.
 Trong bốn tháng đầu năm, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút các nhà đầu  tư nước ngoài vào Việt Nam với số vốn đăng ký đạt 7412,9 triệu USD, chiếm 90,2%  tổng vốn đăng ký;    ngành kinh doanh bất động sản đạt    307,1 triệu  USD, chiếm    3,7%;  các ngành còn lại đạt  499,1  triệu  USD, chiếm    6,1%.
 Cả nước có 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực  tiếp nước ngoài cấp phép mới trong bốn tháng, trong đó Thái Nguyên có số vốn  đăng ký lớn nhất với 2000 triệu USD, chiếm 41% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp  đến là Bình Định 1009,5 triệu USD, chiếm 20,7%; Bình Dương 447,2 triệu USD,  chiếm 9,2%; Đồng Nai 282,8 triệu USD, chiếm 5,8%; Vĩnh Phúc 256 triệu USD, chiếm  5,3%.
 Trong số 33 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới vào Việt Nam bốn  tháng đầu năm nay, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 2300,8 triệu USD, chiếm  47,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Liên bang Nga 1015,2 triệu USD,  chiếm 20,8%; Nhật Bản 656,2 triệu USD, chiếm 13,5%; Thái Lan 298,1 triệu USD,  chiếm 6,1%; Hàn Quốc 132,9 triệu USD, chiếm 2,7%...
  Thu, chi ngân sách Nhà nước
 Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2013  ước tính đạt    201,4  nghìn tỷ đồng, bằng    24,7%  dự toán năm, trong đó thu nội địa    133,9  nghìn tỷ đồng, bằng    24,5%;  thu từ dầu thô    34,6  nghìn tỷ đồng, bằng    35%;  thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu    32  nghìn tỷ đồng, bằng    19,2%.  Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước    40,1 nghìn tỷ đồng,    bằng    23%  dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô)  31,3 nghìn tỷ đồng,  bằng    29,2%;  thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước  28,8 nghìn tỷ đồng,  bằng    23,9%;    thu    thuế thu nhập cá nhân    15,5 nghìn tỷ đồng,    bằng    28,3%;    thu    thuế bảo vệ môi trường    3,4 nghìn tỷ đồng,    bằng    23,6%;  thu phí, lệ phí    2,7 nghìn tỷ đồng,    bằng    25,8%.
 Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2013  ước tính đạt    258  nghìn tỷ đồng, bằng    26,4%  dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển    47,7  nghìn tỷ đồng, bằng    27,2%  (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản    46,5  nghìn tỷ đồng, bằng    27,3%);  chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước,  Đảng, đoàn thể  (bao gồm cả chi cải cách tiền lương) ước tính đạt 182,1  nghìn tỷ đồng, bằng    27%;  chi trả nợ và viện trợ    28,2  nghìn tỷ đồng, bằng    26,8%.
  Thương mại, giá cả, dịch vụ
  Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
 Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư ước tính đạt  213,4 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 11,9% so với cùng kỳ  năm 2012. Tính chung bốn tháng đầu năm, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu  dịch vụ tiêu dùng đạt 849,9 nghìn tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước,  nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 4,6%. Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh  thu dịch vụ tiêu dùng bốn tháng đầu năm, kinh doanh thương nghiệp đạt 653,2  nghìn tỷ đồng, chiếm 76,9% và tăng 10,6%; khách sạn nhà hàng đạt 102,5 nghìn tỷ  đồng, chiếm 12,1% và tăng 16,3%; dịch vụ đạt 86,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% và  tăng 16,1%; du lịch đạt 8 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 7,1%.
  Xuất, nhập khẩu hàng hóa
 Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư ước tính đạt 9,7 tỷ USD, giảm 12,1% so với  tháng trước và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung bốn tháng đầu năm,  kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 39,4 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm  trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 13,9 tỷ USD, tăng 7%; khu vực có  vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 25,5 tỷ USD, tăng 23,2%.  
 Trong bốn tháng đầu năm, kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu đạt mức tăng cao  là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 5,8 tỷ USD, tăng 92,3% so với cùng kỳ  năm trước; hàng dệt may đạt 5,1 tỷ USD, tăng 20,3%; điện tử, máy tính và linh  kiện đạt 3,2 tỷ USD, tăng 46,1%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt 694 triệu  USD, tăng 342,7%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 561 triệu USD, tăng 20,1%.  Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Dầu  thô đạt 2,5 tỷ USD, tăng 6,5%; giày dép đạt 2,3 tỷ USD, tăng 9%; phương tiện vận  tải và phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 11%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,6 tỷ USD, tăng  13%; sắt thép đạt 581 triệu USD, tăng 15%; sản phẩm chất dẻo đạt 559 triệu USD,  tăng 13%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản và thủy sản giảm so với  cùng kỳ năm trước như: Thủy sản đạt 1,7 tỷ USD, giảm 4,8%; cà phê đạt 1,3 tỷ  USD, giảm 13,7%; cao su đạt 639 triệu USD, giảm 20,6%.
 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tư ước tính đạt 10,7 tỷ USD, giảm 7,6% so với  tháng trước và tăng 19% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bốn tháng đầu năm,  kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 40,2 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2012,  bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 18,4 tỷ USD, tăng 10,5%; khu vực có vốn  đầu tư nước ngoài đạt 21,8 tỷ USD, tăng 25,2%.  
 Trong bốn tháng đầu năm, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng  kỳ năm 2012 là: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 5,6 tỷ USD, tăng 60,7%; vải  đạt 2,3 tỷ USD, tăng 13,8%; chất dẻo đạt 1,7 tỷ USD, tăng 15,6%; nguyên phụ liệu  dệt may giày, dép đạt 1,1 tỷ USD, tăng 13,6 %; thức ăn gia súc và nguyên phụ  liệu đạt 892 triệu USD, tăng 47,1%; bông đạt 393 triệu USD, tăng 39,5%. Một số  mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt  2,2 tỷ USD, giảm 26,9%; hóa chất đạt 879 triệu USD, giảm 5,6%; ôtô 656 triệu  USD, giảm 1,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 435 triệu USD, giảm 8,1%; cao su đạt 243  triệu USD, giảm 15,8%.  
 Nhập siêu tháng Tư ước tính 1 tỷ USD, bằng 10,3% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.  Nhập siêu bốn tháng đầu năm nay là 722 triệu USD, bằng 1,8% tổng kim ngạch hàng  hóa xuất khẩu.
  Chỉ số giá tiêu dùng  
 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2013 tăng 0,02% so với tháng trước. Trong các nhóm  hàng hóa và dịch vụ, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 3,62% (Dịch vụ  y tế tăng 4,51%). Các nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng nhẹ gồm: Giao thông tăng  1,2%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,45%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng  0,38%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,33%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,1%;  giáo dục tăng 0,05%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giảm gồm:  Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,91% (Lương thực giảm 0,86%; thực phẩm  giảm 1,24%); nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,44%; bưu chính viễn thông giảm  0,15%.
 Chỉ số giá tháng này tăng chủ yếu do ảnh hưởng của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và  giao thông. Mức tăng của giá dịch vụ y tế góp vào chỉ số giá chung cả nước là  0,2%; giá xăng dầu tăng 2,21% đóng góp vào CPI chung là 0,08%.
 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2013 tăng 2,41% so với tháng 12/2012 và tăng 6,61%  so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân bốn tháng năm nay tăng  6,83% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
 Chỉ số giá vàng tháng 4/2013 giảm 2,56% so với tháng trước; giảm 7,17% so với  tháng 12/2012; giảm 3,41% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng  4/2013 tăng 0,01% so với tháng trước; tăng 0,37% so với tháng 12/2012; tăng  0,47% so với cùng kỳ năm 2012.
  Vận tải hành khách và hàng hóa
 Vận tải hành khách    bốn  tháng đầu năm    nay    ước tính đạt    910  triệu lượt khách, tăng    4,4%  và    40  tỷ lượt khách.km, tăng    4,1%  so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt    14,2  triệu lượt khách, giảm    1,7%  và    11  tỷ lượt khách.km, tăng    3,4%;  vận tải địa phương đạt    895,8  triệu lượt khách, tăng    4,5%  và    29  tỷ lượt khách.km, tăng    4,3%.  Vận tải hành khách đường bộ    bốn  tháng ước tính đạt    830,7  triệu lượt khách, tăng    4,6%  và    28,1  tỷ lượt khách.km, tăng    3,8%  so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt    68  triệu lượt khách, tăng    2,4%  và    1,5  tỷ  lượt khách.km, tăng    6,2%;  đường hàng không đạt    5,5  triệu lượt khách,    tăng 0,6%  và    9  tỷ lượt khách.km, tăng    5,6%;  đường biển đạt    2,1  triệu lượt khách, tăng 1,2%  và    120,3  triệu lượt khách.km, tăng    0,9%;  đường sắt đạt    3,7  triệu lượt khách, giảm    2,1%  và    1,3  tỷ  lượt khách.km, giảm    2,5%.
 Vận tải hàng hóa    bốn  tháng    đầu năm    ước tính đạt    328,6  triệu tấn, tăng    2,6%  và    59,4  tỷ tấn.km, giảm    9,8%  so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt    317  triệu tấn, tăng    3%  và    26,7  tỷ tấn.km, tăng    2,3%;  vận tải ngoài nước đạt    11,6  triệu tấn, giảm    7,6%  và    32,7  tỷ tấn.km, giảm    17,7%.  Vận tải hàng hoá đường bộ đạt    255,4  triệu tấn, tăng    4,2%  và    18,2  tỷ tấn.km, tăng 2,1%;  đường sông đạt  57,7  triệu tấn,    giảm  1,3%  và    4,8  tỷ tấn.km,    giảm 2,6%;  đường biển đạt    13,4  triệu tấn, giảm    7,9%  và    34,9  tỷ tấn.km, giảm    16%;  đường sắt đạt    2,2  triệu tấn,    giảm 2,7%  và    1,2  tỷ  tấn.km, giảm 2%.  
  Khách quốc tế đến Việt Nam
 Trong bốn tháng đầu năm 2013, số khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt trên 2,4  triệu lượt người, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng  đường hàng không gần 2 triệu lượt người, giảm 6,4%, khách đến bằng đường bộ 348  nghìn lượt người, tăng 1,3% và khách đến bằng đường biển 78,6 nghìn lượt người,  giảm 3,7%. Khách quốc tế đến Việt Nam trong bốn tháng đầu năm với mục đích du  lịch, nghỉ dưỡng đạt 1,5 triệu lượt người, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2012;  khách đến vì công việc 406,4 nghìn lượt người, giảm 5,4%. Khách quốc tế đến nước  ta trong bốn tháng đầu năm từ một số quốc gia chính như sau: Khách đến từ Trung  Quốc đạt 547,5 nghìn lượt người, tăng 6,7%; khách đến từ Hàn Quốc 280,1 nghìn  lượt người, tăng 2%; khách đến từ Nhật Bản 205 nghìn lượt người, giảm 3,3%;  khách đến từ Mỹ 165,2 nghìn lượt người, giảm 6,9%; khách đến từ Úc 118,5 nghìn  lượt người, tăng 6,8%; khách đến từ Đài Loan 116 nghìn lượt người, giảm 25,6%;  khách đến từ Nga 112,9 nghìn lượt người, tăng 51%.  
  Một số vấn đề xã hội
  Thiếu đói trong nông dân  
 Trong  tháng Tư,    cả nước có    59,5  nghìn hộ thiếu đói,    chiếm 0,5% tổng số hộ nông nghiệp, tương ứng với 255,2  nghìn nhân khẩu thiếu đói,  chiếm 0,5% tổng số nhân khẩu nông nghiệp. So với cùng kỳ năm 2012, số hộ thiếu  đói giảm 2,9%  và số nhân khẩu thiếu đói giảm 2,1%.  Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa phương  đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 16,1  nghìn tấn lương thực và    trên 8,2  tỷ đồng, riêng tháng Tư đã hỗ trợ gần    4  nghìn tấn lương thực.
  Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
 Trong tháng, trên địa bàn cả nước có 6,7 nghìn trường hợp mắc bệnh tay, chân,  miệng; 2,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 2 trường hợp mắc bệnh  thương hàn (1 trường hợp tử vong); 32 trường hợp mắc bệnh viêm não virút; 1  trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 1 trường hợp mắc cúm A  (H5N1). Tính chung bốn tháng đầu năm, cả nước có 18 nghìn trường hợp mắc bệnh  tay, chân, miệng (5 trường hợp tử vong); 11,2 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất  huyết (10 trường hợp tử vong); 53 trường hợp mắc bệnh thương hàn (1 trường hợp  tử vong); 112 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (2 trường hợp tử vong); 1  trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 1 trường hợp mắc cúm A  (H5N1). Tính từ 15/2/2013 đến 11/4/213, có 17 trường hợp mắc hội chứng viêm da  dầy sừng bàn tay, bàn chân, chủ yếu xẩy ra tại Quảng Ngãi.
 Trong tháng đã phát hiện thêm 245 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm  HIV hiện còn sống của cả nước tính đến giữa tháng 4/2013 lên 210,6 nghìn người,  trong đó 54,4 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 54,5 nghìn người  đã tử vong do AIDS.  
 Theo báo cáo của các địa phương, trong tháng đã xảy ra 8 vụ ngộ độc thực phẩm  làm 250 người bị ngộ độc. Tính chung bốn tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã  xảy ra 23 vụ ngộ độc thực phẩm làm 737 người bị ngộ độc, trong đó 4 trường hợp  tử vong.  
  Tai nạn giao thông      
 Trong tháng    Tư,  trên địa bàn cả nước đã xảy ra 887  vụ tai nạn giao thông, làm chết 755 người và làm bị thương 538  người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm    3%;  số người chết    tăng 1,9%;  số người bị thương giảm    21,2%.    Tính chung bốn tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 3709 vụ tai nạn  giao thông, làm chết 3333 người và làm bị thương 2349 người. So với cùng kỳ năm  trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 1,3%; số người chết tăng 5,2%; số người bị  thương giảm 13,4%. Bình quân một ngày trong bốn tháng đầu năm, trên địa bàn cả  nước xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, làm chết 28 người và làm bị thương 20  người.  
  Thiệt hại do thiên tai
 Thiệt hại do thiên tai trong tháng chủ yếu do mưa đá, lốc xoáy xảy ra tại các  tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó Lào Cai chịu thiệt hại nặng nhất về người và  tài sản với 38 người chết và bị thương, thiệt hại ước tính trên 270 tỷ đồng. Thiên tai trong tháng làm 59 người chết và bị thương; 118 ngôi nhà bị sập,  cuốn trôi; gần 23 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc mái; khoảng 3 nghìn  ha lúa và hoa màu bị thiệt hại, trong đó 1,7 nghìn ha mất trắng. Tổng giá trị  thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính gần 389 tỷ đồng, riêng thiệt  hại do mưa đá, lốc xoáy là 382 tỷ đồng.  
  Tình hình cháy nổ và bảo  vệ môi trường  
 Trong tháng Tư, các cơ quan chức năng đã phát hiện 406 vụ  vi phạm vệ sinh môi trường  tại 36 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.  Số vụ  vi phạm vệ sinh môi trường  bị  xử lý    là 226  vụ với tổng số tiền phạt    là 352,6  tỷ  đồng.  
 Công tác tuyên truyền phòng, chống cháy nổ mặc dù được tăng cường nhưng tình  hình cháy, nổ vẫn diễn biến phức tạp. Trong bốn tháng đầu năm nay, trên địa bàn  cả nước đã xảy ra 841 vụ cháy, nổ nghiêm trọng, làm 46 người chết và 55 người bị  thương. Thiệt hại do cháy, nổ ước tính khoảng 291 tỷ đồng. Riêng tháng Tư đã xảy  ra 206 vụ cháy, nổ, làm 8 người chết và 13 người bị thương, thiệt hại gần 197 tỷ  đồng.  
   Nguồn:    TỔNG  CỤC    THỐNG KÊ