|  		1.  		Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản  		 		a. Nông nghiệp  		Sản xuất nông nghiệp trong tháng Hai tập trung chủ yếu vào gieo cấy,  		chăm sóc lúa và rau màu vụ đông xuân. Tính đến trung tuần tháng Hai, cả  		nước đã gieo cấy được 2649,6 nghìn ha lúa đông xuân, tăng 10,3% so với  		cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 676,1 nghìn  		ha, tăng 31,4%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1973,5 nghìn ha, tăng  		4,6%.    		Do thời tiết những ngày đầu xuân tương đối thuận lợi giúp cho bà con  		nông dân đảm bảo đủ các điều kiện gieo cấy lúa đông xuân nên tiến độ  		gieo cấy lúa đông xuân miền Bắc nhanh hơn so với cùng kỳ năm trước,  		trong đó Đồng bằng sông Hồng gieo cấy nhanh hơn 97%.  		Các địa phương phía Nam đã kết thúc việc gieo cấy lúa đông xuân. Tại các  		địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, trà lúa chính vụ đang làm đòng,  		chuẩn bị trỗ. Thời gian này là thời kỳ sâu bệnh phát triển mạnh, chủ yếu  		là bệnh rầy nâu, đạo ôn và sâu cuốn lá. Một số địa phương có nhiều diện  		tích lúa bị nhiễm bệnh là: An Giang 79,3 nghìn ha; Đồng Tháp 11,2 nghìn  		ha; Trà Vinh gần 7 nghìn ha. Các địa phương đang tích cực triển khai các  		biện pháp phòng, chống dịch bệnh nhằm hạn chế sự lây lan ảnh hưởng của  		sâu bệnh đến kết quả sản xuất.  		Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân chính vụ, các địa phương vùng đồng  		bằng sông Cửu Long đang bước vào thu hoạch trà lúa đông xuân sớm. Tính  		đến trung tuần tháng Hai, toàn vùng đã thu hoạch được 281 nghìn ha, tăng  		32,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 17,6% diện tích xuống giống.  		Năng suất ước tính tăng từ 1-2 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2012.  		Tiến độ gieo trồng các loại cây rau màu vụ đông xuân nhìn chung nhanh  		hơn cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 15 tháng Hai, các địa phương trên  		cả nước đã gieo trồng được 223,5 nghìn ha ngô, bằng 105% cùng kỳ năm  		trước; 64,6 nghìn ha khoai lang, bằng 101,1%; 48,8 nghìn ha đậu tương,  		bằng 64,5%; 94,9 nghìn ha lạc, bằng 100,7%; 355,2 nghìn ha rau đậu, bằng  		107,9%.    		Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng tương đối ổn định. Ước tính đàn  		trâu, bò cả nước giảm 4% so với cùng kỳ năm trước, tổng số lợn của cả  		nước giảm khoảng 2-3%; số lượng gia cầm giảm 3-4%.  		Tính đến thời điểm 24/02/2013, dịch bệnh tai xanh chưa qua 21 ngày còn ở  		Long An và Quảng Nam; không còn tỉnh nào có dịch cúm gia cầm và dịch lở  		mồm long móng chưa qua 21 ngày.  		 		b. Lâm nghiệp  		Hoạt động lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào việc gieo, ươm,  		chăm sóc cây giống và thực hiện các công việc chuẩn bị cho trồng rừng vụ  		Xuân 2013. Trong hai tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung cả  		nước ước tính đạt 1225 ha, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước; số cây  		lâm nghiệp trồng phân tán đạt 31,8 triệu cây, tăng 3,5%; sản lượng gỗ  		khai thác đạt 643 nghìn m3, tăng 8,4%; sản lượng củi khai  		thác đạt 5100 nghìn ste, tăng 3,2%.    		Thời tiết vào mùa khô hạn nên nguy cơ xảy ra cháy rừng cao. Các địa  		phương đang tích cực triển khai công tác bảo vệ và phòng chống cháy  		rừng, tập trung hướng dẫn người dân phát nương rẫy đúng quy định; tiếp  		tục rà soát và củng cố các tổ phòng cháy, chữa cháy; đồng thời tăng  		cường công tác phòng ngừa cũng như ngăn chặn kịp thời những hành vi vi  		phạm pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp. Tuy nhiên, do thời tiết khô  		hạn nên trong 3 ngày từ 19/2 đến 21/2 đã xảy ra cháy lớn ở rừng phòng hộ  		Bắc Biển Hồ thuộc huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai, ước tính diện tích bị  		cháy là 270 ha. Tính chung 2 tháng đầu năm 2013 diện tích rừng bị thiệt  		hại 317,2 ha, trong đó diện tích bị cháy là 281,4 ha; diện tích rừng bị  		chặt phá là 35,8 ha.  		 		c. Thủy sản  		Sản lượng thủy sản tháng Hai ước tính đạt 346,4 nghìn tấn, giảm 2,5% so  		với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 268,4 nghìn tấn, giảm 3,2%; tôm  		đạt 27,7 nghìn tấn, tăng 1,8%.  		Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Hai ước tính đạt 139,1 nghìn tấn,  		giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 106,4 nghìn tấn,  		giảm 5%; tôm đạt 17,3 nghìn tấn, tăng 4,8%. Sản lượng thủy sản nuôi  		trồng giảm do sản lượng cá tra giảm. Cá tra xuất khẩu gặp nhiều khó khăn  		do giá cá tra nguyên liệu thấp, người nuôi không có lãi, mặt khác ngân  		hàng siết chặt tín dụng và nhu cầu nhập khẩu của các thị trường cá tra  		lớn đều giảm. Một số tỉnh có sản lượng cá tra thu hoạch thấp: An Giang  		18 nghìn tấn, giảm 30% so với cùng kỳ năm trước; Cần Thơ 8 nghìn tấn,  		giảm 11,1%; Đồng Tháp 20,6 nghìn tấn, giảm 3,3%. Nuôi tôm và thủy sản  		khác ổn định. Sản lượng tôm nuôi thu hoạch trong tháng tăng chủ yếu ở  		các vùng nuôi nội địa, quảng canh cải tiến, nuôi kết hợp và tỉa thưa thả  		bù phục vụ nhu cầu Tết Nguyên Đán.  		Sản lượng thủy sản khai thác tháng Hai ước tính đạt 207,3 nghìn tấn,  		giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 193,7  		nghìn tấn, giảm 2,3%. Tính chung hai tháng đầu năm nay, sản lượng thủy  		sản ước tính đạt 722,5 nghìn tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2012, bao  		gồm sản lượng nuôi trồng đạt 309,7 nghìn tấn, tăng giảm 1,7%, sản lượng  		khai thác đạt 412,8 nghìn tấn, tăng 2%.  		 		2. Công nghiệp  		Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Hai ước tính giảm mạnh  		21,3% so với tháng trước và giảm 10,1% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu  		do tháng Hai năm nay là tháng Tết Nguyên Đán, có số ngày nghỉ nhiều. Tuy  		nhiên, tính chung cả hai tháng thì chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn tăng  		6,8% so cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng  		1,8% (cùng kỳ năm 2012 tăng 7,7%); công nghiệp chế biến, chế tạo tăng  		7,9% (cùng kỳ năm 2012 tăng 6,7%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng  		11,7% (cùng kỳ năm 2012 tăng 11,7%) và ngành cung cấp nước, xử lý nước  		thải, rác thải 9,9% (do tháng Tết phải xử lý nhiều rác thải, đặc biệt là  		rác thải sinh hoạt hơn các tháng bình thường khác).  		Đóng góp vào mức tăng chung 6,8% của hai tháng đầu năm, ngành công  		nghiệp khai thác đóng góp 0,4 điểm %, ngành công nghiệp chế biến, chế  		tạo 5,5 điểm %, ngành sản xuất và phân phối điện 0,8 điểm % và ngành  		cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải 0,1 điểm %.  		Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất hai tháng tăng cao so với cùng  		kỳ năm trước là: Sản xuất pin và ắc qui tăng 107,1%; sản xuất thiết bị  		điện tăng 51,3%; sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ tăng 45,9%; sản  		xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng 43,3%; sản xuất giày, dép tăng  		35,9%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 26,4%; sản xuất xi măng tăng  		19,4%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 18,9%; sản xuất mô  		tô, xe máy tăng 18,6%; sản xuất bia tăng 14,5%; sản xuất đường tăng  		14,1%. Một số ngành công nghiệp có mức tăng khá là: Sản xuất, truyền tải  		và phân phối điện tăng 11,7%, sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 11,5%;  		thu gom rác thải không độc hại tăng 10,8%; khai thác, xử lý và cung cấp  		nước tăng 9,4%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất  		dây, cáp điện tăng 6,9%; khai thác khí đốt tự nhiên tăng 6,9%; sản xuất  		sợi tăng 4,4%; khai thác dầu thô tăng 3,3%; chế biến và bảo quản thuỷ  		sản tăng 2,5%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng  		2,4%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 1,3%; sản xuất thuốc, hoá dược và  		dược liệu giảm 2,8%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) giảm  		2,9%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 4%; khai thác và thu gom than cứng  		giảm 5,7%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 12,7%; đóng tàu và  		cấu kiện nổi giảm 37,3%.  		Chỉ số sản xuất công nghiệp hai tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm  		2012 của một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thành  		phố Hồ Chí Minh tăng 3,2%; Đồng Nai tăng 7,6%; Bình Dương tăng 3,7%; Hà  		Nội tăng 4,5%; Hải Phòng tăng 2,9%; Bắc Ninh tăng 10,2%; Vĩnh Phúc tăng  		11,5%; Cần Thơ tăng 0,8%; Hải Dương tăng 9,5%; Đà Nẵng tăng 10,7%.  		Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Một năm  		2013 so với cùng kỳ năm trước tăng 24,1% và so với tháng trước  		tăng 1,1%. Các ngành có chỉ số tiêu thụ tháng Một năm 2013 tăng cao so  		với cùng kỳ năm 2012 là: Sản xuất thiết bị truyền thông tăng 55,5%; sản  		xuất đường tăng 55%; sản xuất xi măng tăng 53%; sản xuất sản phẩm từ  		plastic tăng 40,6%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét tăng 40,5%;  		sản xuất cấu kiện kim loại tăng 40,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng  		38,1%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 30,3%;  		sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 28,5%; sản xuất thuốc lá tăng  		27,9%; sản xuất sợi tăng 27,2%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 26%..  		Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất bia  		tăng 22,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 21,8%; sản xuất giày, dép tăng  		19,5%; may trang phục tăng 18%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục)  		tăng 15,4%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 14,2%; sản xuất  		thức ăn gia súc, gia cầm tăng 8,1%; chế biến và bảo quản thủy sản tăng  		6%; chế biến sữa và sản phẩm từ sữa tăng 4,8%; sản xuất sản phẩm điện tử  		dân dụng giảm 8,8%.  		Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/02/2013 tăng 19,9% so với cùng thời điểm  		năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm  		năm trước là: Sản xuất xe có động cơ tăng 142,5%; sản xuất dây, cáp điện  		tăng 64,1%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 62%; sản xuất thiết bị  		truyền thông tăng 60,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 58,1%;  		sản xuất bia tăng 49,4%; sản xuất thuốc lá tăng 49%; sản xuất mô tô, xe  		máy tăng 28,6%; may trang phục tăng 27%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn,  		bao bì từ giấy và bìa tăng 33,7%; sản xuất giày, dép tăng 31,9%; sản  		xuất đường tăng 28%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 25,2%;  		sản xuất sắt, thép, gang tăng 24,6%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng  		thấp hoặc giảm là: sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng tăng  		17,3%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 13,5%; sản xuất vật liệu  		xây dựng từ đất sét tăng 2,5%; sản xuất pin, ắc quy giảm 38,6%; sản xuất  		linh kiện điện tử giảm 62,9%.  		 		3. Đầu tư  		Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng  		  		 		Hai  		năm 2013  		ước tính đạt   		 		8114  		tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương   		 		1375  		tỷ đồng; vốn địa phương   		 		6739  		tỷ đồng. Tính chung hai tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn  		ngân sách Nhà nước đạt 20118 tỷ đồng, bằng 10,5% kế hoạch năm và giảm  		8,1% so với cùng kỳ năm 2012, gồm có:  		- Vốn trung ương quản lý đạt 3823 tỷ đồng, bằng 8,1% kế hoạch năm và  		giảm 29,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của  		Bộ Giao thông   		 		vận  		tải là 659 tỷ đồng, bằng 10,2% và giảm 28,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát  		triển   		 		nông  		thôn 316 tỷ đồng, bằng 7,1% và giảm 33,8%; Bộ Xây dựng 162 tỷ đồng, bằng  		8% và giảm 8%; Bộ Y tế 70 tỷ đồng, bằng 7,9% và giảm 38,1%; Bộ Giáo dục  		và Đào tạo 68 tỷ đồng, bằng 9,8% và giảm 39,3%; Bộ Văn hóa   		 		-   		 		Thể thao và Du lịch 45 tỷ đồng, bằng 8,8% và giảm 29,7%; Bộ Công Thương  		29 tỷ đồng, bằng 9,3% và giảm 34,1%.  		- Vốn địa phương quản lý đạt 16295 tỷ đồng, bằng 11,3% kế hoạch năm và  		giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện của một số địa  		phương như sau: Hà Nội đạt 2331 tỷ đồng, bằng 9,1% kế hoạch năm và tăng  		30,1% so với cùng kỳ năm 2012;   		 		Thành  		phố Hồ Chí Minh 902 tỷ đồng, bằng 5,4% và tăng 2,7%; Bà Rịa-Vũng Tàu 695  		tỷ đồng, bằng 15,8% và tăng 20,3%; Đà Nẵng 642 tỷ đồng, bằng 16,2% và  		giảm 19,3%; Vĩnh Phúc 626 tỷ đồng, bằng 19,5% và tăng 19,4%; Kiên Giang  		514 tỷ đồng, bằng 18,9% và tăng 17,3%.  		Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/02/2013 đạt  		630,3 triệu USD, bằng 38,1% cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vốn đăng ký của  		99 dự án được cấp phép mới đạt 532 triệu USD (bằng 81,8% số dự án và  		bằng 46,1% số vốn cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 31 lượt dự  		án được cấp phép từ các năm trước với 98,3 triệu USD. Vốn đầu tư trực  		tiếp nước ngoài thực hiện hai tháng đầu năm ước tính đạt 1050 triệu USD,  		tăng 5% so với cùng kỳ năm 2012.  		Trong hai tháng đầu năm, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút các  		nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với số vốn đăng ký đạt 409 triệu USD,  		chiếm 64,9% tổng vốn đăng ký; ngành y tế và trợ giúp xã hội đạt 80 triệu  		USD, chiếm 12,7%;   		 		ngành kinh doanh bất động sản đạt   		 		50,2 triệu  		USD, chiếm   		 		8%;  		các ngành còn lại đạt   		 		91,1  		triệu  		USD, chiếm 14,4%.  		Cả nước có 16 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu  		tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong hai tháng, trong đó Đồng Nai  		có số vốn đăng ký lớn nhất với 208,3 triệu USD, chiếm 39,2% tổng vốn  		đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 117,6 triệu USD, chiếm 22,1%;  		Bình Dương 67,3 triệu USD, chiếm 12,7%; Thành phố Hồ Chí Minh 51,8 triệu  		USD, chiếm 9,7%.  		Trong số 20 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới, Nhật Bản  		là nhà đầu tư lớn nhất với 228,3 triệu USD, chiếm 42,9% tổng vốn đăng ký  		cấp mới; tiếp đến là Đài Loan 80,4 triệu USD, chiếm 15,1%; Thái Lan 54,3  		triệu USD, chiếm 10,2%; Sin-ga-po 39,5 triệu USD, chiếm 7,4%...  		 		4. Thương mại, chỉ số giá và dịch vụ  		 		a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng  		Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng  		hai   		 		tháng   		 		đầu năm  2013   		 		ước tính đạt   		 		422,2  		nghìn tỷ đồng, tăng  		10,9%  		so với cùng kỳ năm trước,  		nếu  		loại trừ yếu tố giá thì tăng   		 		3,6%.  		Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, kinh  		doanh thương nghiệp đạt 328,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,7% và tăng 10,4%  		so với cùng kỳ năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 48,8 nghìn tỷ đồng,  		chiếm 11,6% và tăng 13%; dịch vụ đạt 41,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% và  		tăng 14,5%; du lịch đạt 3,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,8% và giảm 4,4%.  		 		b. Xuất, nhập khẩu hàng hoá    		Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai ước tính đạt 7,5 tỷ USD, giảm  		34,6% so với tháng trước, trong đó kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu  		chủ lực giảm mạnh: cao su giảm 53,9%; giầy dép giảm 51,4%; dầu thô giảm  		18,9%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai  		giảm 9%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai giảm mạnh so với tháng  		trước và cùng kỳ là do dịp nghỉ tết Nguyên đán rơi vào tháng Hai, tổng  		số ngày làm việc trong tháng Hai chỉ có 16 ngày (Tết Nguyên đán năm  		trước vào tháng Một). Tính chung hai tháng đầu năm nay, kim ngạch hàng  		hóa xuất khẩu đạt 19 tỷ USD, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm 2012, bao  		gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 6,8 tỷ USD, tăng 18,2%; khu vực kinh  		tế có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 12,2 tỷ USD, tăng 27,3%.  		Trong hai tháng đầu năm, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá  		so với cùng kỳ năm trước là: Hàng dệt may đạt 2,8 tỷ USD, tăng 38,4%;  		điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,7 tỷ USD, tăng 67,3%; điện tử,  		máy tính và linh kiện đạt 1,5 tỷ USD, tăng 53,4%; giày dép đạt 1,2 tỷ  		USD, tăng 20,9%; dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, tăng 25,5%; phương tiện vận tải  		và phụ tùng đạt 949 triệu USD, tăng 42,8%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 809  		triệu USD, tăng 35,2%; sắn và sản phẩm sắn đạt 290 triệu USD, tăng  		46,8%.    		Về thị trường hàng hóa xuất khẩu hai tháng đầu năm, EU vẫn là thị trường  		xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch ước đạt 3,7 tỷ USD, tăng 34% so với  		cùng kỳ 2012. Tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch ước đạt 3,4  		tỷ USD, tăng 30%; ASEAN đạt 2,7 tỷ USD, tăng 23%; Nhật Bản đạt 1,9 tỷ  		USD, tăng 3,4%; Trung Quốc 1,9 tỷ USD, tăng 21,4%; Hàn Quốc đạt 1 tỷ  		USD, tăng 36,7%.  		Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Hai ước tính đạt 6,6 tỷ USD, giảm  		38,3% so với tháng trước và giảm 24,5%  so với cùng kỳ năm 2012. Tính  		chung hai tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 17,3 tỷ USD,  		tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước  		đạt 8,1 tỷ USD, tăng 7,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9,2 tỷ  		USD, tăng 12,9%.    		Trong hai tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu của nhiều mặt hàng tăng so  		với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt  		2,4 tỷ USD, tăng 5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,3 tỷ USD, tăng  		36,6%; vải đạt 1 tỷ USD, tăng 20,8%; hóa chất đạt 444 triệu USD, tăng  		4,1%; nguyên phụ liệu dệt may giày dép đạt 419 triệu USD, tăng 9,2%; kim  		loại thường đạt 396 triệu USD, tăng 10,9%; phương tiện vận tải khác và  		phụ tùng đạt 329 triệu USD, tăng 228,8%; sản phẩm chất dẻo đạt 308 triệu  		USD, tăng 10,5%; gỗ và nguyên phụ liệu gỗ đạt 239 triệu USD, tăng 21%. 		 		  		Thị trường hàng hóa nhập khẩu hai tháng đầu năm, Trung Quốc vẫn  		luôn là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch ước tính đạt 4,8 tỷ  		USD, tăng 37,4%; ASEAN đạt 2,9 tỷ USD, giảm 6,3%; Hàn Quốc đạt 2,7 tỷ  		USD, tăng 22,6%; EU đạt 1,5 tỷ USD, tăng 29,4%; Nhật Bản đạt 1,4 tỷ USD,  		giảm 12,4%.  		Hai tháng đầu năm xuất siêu ước đạt 1,68 tỷ USD, bằng 8,8% tổng kim  		ngạch hàng hoá xuất khẩu, trong đó xuất siêu của khu vực FDI (kể cả dầu  		thô) đạt 2,96 tỷ USD và khu vực kinh tế trong nước vẫn tiếp tục nhập  		siêu với gần 1,3 tỷ USD.  		 		c. Chỉ số giá tiêu dùng  		Chỉ số giá tiêu dùng tháng 02/2013 tăng 1,32% so với tháng trước, đây là  		mức tăng thấp nhất so với tốc độ tăng của tháng Hai các năm trước. Chỉ  		số giá tháng này tăng   		 		chủ yếu   		 		do giá lương thực, thực phẩm tăng ở hầu hết các mặt hàng do nhu cầu tiêu  		dùng cho Tết Nguyên Đán; giá dịch vụ giao thông công cộng tăng khá cao  		do nhu cầu đi lại Tết tăng, trong đó giá vé xe khách bình quân tăng trên  		11%; giá vé tầu hỏa tăng trên 4%; tỉnh Tuyên Quang tăng giá dịch vụ y tế  		theo Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC ngày 29/2/2012 tăng  		138,61%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng hơn 1% là: Hàng  		ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,28% (Lương thực tăng 0,37%; thực phẩm tăng  		3%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,85%); đồ uống và thuốc lá tăng 1,5%;  		may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn  		lại có chỉ số giá tăng thấp hơn 1% hoặc giảm gồm: Giao thông tăng 0,81%;  		thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,6%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,58%  		(Dịch vụ y tế tăng 0,63%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,45%; văn  		hóa, giải trí và du lịch tăng 0,4%; giáo dục tăng 0,03%; bưu chính viễn  		thông giảm 0,03%.  		Chỉ số giá tiêu dùng tháng 02/2013 tăng 2,59% so với tháng 12/2012 và  		tăng 7,02% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân hai  		tháng năm 2013 tăng 7,04% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.  		Chỉ số giá vàng tháng 02/2013 giảm 0,33% so với tháng trước; giảm 2,05%  		so với tháng 12/2012 và giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2012. Chỉ số giá đô  		la Mỹ tháng 02/2013 tăng 0,03% so với tháng trước; giảm 0,05% so với  		tháng 12/2012 và giảm 0,65% so với cùng kỳ năm 2012.  		 		d. Vận tải hành khách và hàng hóa  		Vận tải hành khách hai tháng đầu năm ước tính đạt 510,4 triệu lượt  		khách, tăng 7,6% và 22,5 tỷ lượt khách.km, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm  		2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 7,1 triệu lượt khách, giảm 2,8% và  		5,4 tỷ lượt khách.km, tăng 1,2%; vận tải địa phương đạt 503,4 triệu lượt  		khách, tăng 7,7% và 17 tỷ lượt khách.km, tăng 7,1%. Vận tải hành khách  		đường bộ hai tháng ước tính đạt 472 triệu lượt khách, tăng 7,9% và 16,7  		tỷ lượt khách.km, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt  		33,3 triệu lượt khách, tăng 5,4% và 729 triệu lượt khách.km, tăng 10,8%;  		đường hàng không đạt 2,5 triệu lượt khách, giảm 4,8% và 4,4 tỷ lượt  		khách.km, tăng 1,5%; đường biển đạt 1 triệu lượt khách, tăng 1,5% và  		59,7 triệu lượt khách.km, tăng 1%; đường sắt đạt 1,7 triệu lượt khách,  		giảm 6,7% và 609,2 triệu lượt khách.km, giảm 5,2%.  		Vận tải hàng hóa hai tháng ước tính đạt 150,4 triệu tấn, tăng 5,7% và  		31,4 tỷ tấn.km, giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải  		trong nước đạt 144,7 triệu tấn, tăng 6,6% và 9,9 tỷ tấn.km, tăng 5,8%;  		vận tải ngoài nước đạt 5,8 triệu tấn, giảm 5,9% và 21,5 tỷ tấn.km, giảm  		6,7%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 115,3 triệu tấn, tăng 7,5% và 5,8 tỷ  		tấn.km, tăng 6,2%; đường sông đạt 28,1 triệu tấn, tăng 1,2% và 2,5 tỷ  		tấn.km, tăng 0,7%; đường biển đạt 6 triệu tấn, giảm 6,9% và 22,5 tỷ  		tấn.km, giảm 7,4%; đường sắt đạt 1 triệu tấn, tăng 0,1% và 520,2 triệu  		tấn.km, giảm 2,3%.    		 		e. Khách quốc tế đến Việt Nam  		Khách quốc tế đến nước ta trong hai tháng đầu năm 2013 ước tính đạt  		1213,1 nghìn lượt người, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó  		khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 743,9 nghìn lượt người,  		giảm 8%; đến vì công việc 204,9 nghìn lượt người, giảm 8,4%; thăm thân  		nhân đạt 200,6 nghìn lượt người, giảm 14,3%.  		Trong hai tháng đầu năm nay, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng  		khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Hàn Quốc 156,6 nghìn  		lượt người, tăng 10,4%; Ôx-trây-li-a 64,5 nghìn lượt người, tăng 7,1%;  		Nga 54 nghìn lượt người, tăng 38%; Ma-lai-xi-a 46,7 nghìn lượt người,  		tăng 1,3%; Thái Lan 36,6 nghìn lượt người, tăng 18,8%. Bên cạnh đó, một  		số nước có số lượng khách lớn đến nước ta nhưng giảm so với cùng kỳ năm  		trước: Trung Quốc 264,5 nghìn lượt người, giảm  8,8%; Nhật Bản 98,6  		nghìn lượt người, giảm 9%; Hoa Kỳ 90,4 nghìn lượt người, giảm 7,7%; Đài  		Loan 68,3 nghìn lượt người, giảm 22,5%; Cam-pu-chia 48,7 nghìn lượt  		người, giảm 21,1%; Pháp 35,4 nghìn lượt người, giảm 25,7%; Anh 30,7  		nghìn lượt người, giảm 15,9%.  		 		5. Một số vấn đề xã hội  		Trong dịp Tết Nguyên đán   		 		Quý Tỵ năm 2013,   		 		chính quyền và cấp ủy các tỉnh, thành phố cùng các tổ chức chính trị-xã  		hội và các doanh nghiệp đã tổ chức các đoàn đi thăm, tặng quà và chúc  		Tết các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo và  		các đối tượng chính sách.   		 		Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, đã có hơn 6 triệu phần  		quà với trị giá hơn 1937,6 tỷ đồng đã được trao   		 		cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách 		 		 		 		và 878,4 tỷ đồng   		 		cứu trợ xã hội cho đối tượng là các hộ nghèo, người khuyết tật và người  		có hoàn cảnh khó khăn.    		 		Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm: 		 		 		 		Trong tháng Hai năm 2013, trên địa bàn cả nước đã có 4,1 nghìn trường  		hợp mắc bệnh tay chân miệng; 2,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất  		huyết (6 trường hợp tử vong); 37 trường hợp mắc bệnh viêm não virút và 6  		trường hợp mắc bệnh thương hàn. Tính chung hai tháng đầu năm, cả nước có  		6,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng tại 58/63 tỉnh, thành phố  		trực thuộc Trung ương với 1 trường hợp tử vong; 5,5 nghìn trường hợp mắc  		bệnh sốt xuất huyết (8 trường hợp tử vong); 46 trường hợp mắc bệnh viêm  		não virút và 10 trường hợp mắc bệnh thương hàn.  		Trong tháng đã phát hiện thêm 764 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số  		người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng Hai năm 2013 lên 264,3  		nghìn người, trong đó 108,5 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn  		AIDS và 54,4 nghìn người đã tử vong do AIDS.    		Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm   		 		là  		đáng quan ngại. Trong tháng Hai đã xảy ra 4 vụ ngộ độc thực phẩm làm 179  		người bị ngộ độc, trong đó 2 trường hợp đã tử vong. Tính chung hai tháng  		đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 9 vụ ngộ độc thực phẩm làm 242  		người bị ngộ độc, trong đó 3 trường hợp tử vong. Đáng chú ý là vụ ngộ  		độc thực phẩm xẩy ra tối 23/1 tại nhà máy dệt may Phong Phú thuộc huyện  		Hải Lăng (Quảng Trị) làm 88 người phải nhập viện.  		 		Tai nạn giao thông: 		 		 		 		Trong tháng 2/2013 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1117 vụ tai nạn giao  		thông, làm chết 1035 người và làm bị thương 721 người. Riêng trong 9  		ngày Tết  đã xảy ra 373 vụ tai nạn giao thông, làm chết 314  		người và làm bị thương 387 người. Tính chung hai tháng đầu năm  		2013, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2090 vụ tai nạn giao thông, làm  		chết 1925 người và làm bị thương 1301 người. So với cùng kỳ năm 2012, số  		vụ tai nạn giao thông tăng 7,7%, số người chết tăng 15,6% và số người bị  		thương giảm 12,2%. Bình quân 1 ngày trong hai tháng đầu năm, trên địa  		bàn cả nước xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông, làm chết 33 người và làm  		bị thương 22 người.    		 		Bảo vệ môi trường và trật tự an toàn xã hội: 		 		 		 		Tình hình cháy, nổ diễn biến rất phức tạp. Trong hai tháng đầu năm, trên  		địa bàn cả nước đã xảy ra hơn 180 vụ cháy, nổ làm nhiều người chết và bị  		thương, thiệt hại ước tính khoảng 25 tỷ đồng. Đặc biệt là vụ nổ, sập gây  		cháy nghiêm trọng tại Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh làm 10 người chết và  		3 người bị thương. Cũng trong tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện 687  		vụ  		vi phạm   		 		quy định về   		 		vệ sinh môi trường,   		 		trong đó 201 vụ bị  		xử lý   		 		với tổng số  		tiền phạt  		trên 3,1 tỷ  		đồng.  		 		Nguồn:   		 		TỔNG CỤC THỐNG  		KÊ |