1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng Hai tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa và rau màu vụ đông xuân. Tính đến trung tuần tháng Hai, cả nước đã gieo cấy được 2649,6 nghìn ha lúa đông xuân, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 676,1 nghìn ha, tăng 31,4%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1973,5 nghìn ha, tăng 4,6%.
Do thời tiết những ngày đầu xuân tương đối thuận lợi giúp cho bà con nông dân đảm bảo đủ các điều kiện gieo cấy lúa đông xuân nên tiến độ gieo cấy lúa đông xuân miền Bắc nhanh hơn so với cùng kỳ năm trước, trong đó Đồng bằng sông Hồng gieo cấy nhanh hơn 97%.
Các địa phương phía Nam đã kết thúc việc gieo cấy lúa đông xuân. Tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, trà lúa chính vụ đang làm đòng, chuẩn bị trỗ. Thời gian này là thời kỳ sâu bệnh phát triển mạnh, chủ yếu là bệnh rầy nâu, đạo ôn và sâu cuốn lá. Một số địa phương có nhiều diện tích lúa bị nhiễm bệnh là: An Giang 79,3 nghìn ha; Đồng Tháp 11,2 nghìn ha; Trà Vinh gần 7 nghìn ha. Các địa phương đang tích cực triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh nhằm hạn chế sự lây lan ảnh hưởng của sâu bệnh đến kết quả sản xuất.
Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân chính vụ, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long đang bước vào thu hoạch trà lúa đông xuân sớm. Tính đến trung tuần tháng Hai, toàn vùng đã thu hoạch được 281 nghìn ha, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 17,6% diện tích xuống giống. Năng suất ước tính tăng từ 1-2 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2012.
Tiến độ gieo trồng các loại cây rau màu vụ đông xuân nhìn chung nhanh hơn cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 15 tháng Hai, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 223,5 nghìn ha ngô, bằng 105% cùng kỳ năm trước; 64,6 nghìn ha khoai lang, bằng 101,1%; 48,8 nghìn ha đậu tương, bằng 64,5%; 94,9 nghìn ha lạc, bằng 100,7%; 355,2 nghìn ha rau đậu, bằng 107,9%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng tương đối ổn định. Ước tính đàn trâu, bò cả nước giảm 4% so với cùng kỳ năm trước, tổng số lợn của cả nước giảm khoảng 2-3%; số lượng gia cầm giảm 3-4%.
Tính đến thời điểm 24/02/2013, dịch bệnh tai xanh chưa qua 21 ngày còn ở Long An và Quảng Nam; không còn tỉnh nào có dịch cúm gia cầm và dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày.
b. Lâm nghiệp
Hoạt động lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào việc gieo, ươm, chăm sóc cây giống và thực hiện các công việc chuẩn bị cho trồng rừng vụ Xuân 2013. Trong hai tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước tính đạt 1225 ha, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 31,8 triệu cây, tăng 3,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 643 nghìn m3, tăng 8,4%; sản lượng củi khai thác đạt 5100 nghìn ste, tăng 3,2%.
Thời tiết vào mùa khô hạn nên nguy cơ xảy ra cháy rừng cao. Các địa phương đang tích cực triển khai công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng, tập trung hướng dẫn người dân phát nương rẫy đúng quy định; tiếp tục rà soát và củng cố các tổ phòng cháy, chữa cháy; đồng thời tăng cường công tác phòng ngừa cũng như ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp. Tuy nhiên, do thời tiết khô hạn nên trong 3 ngày từ 19/2 đến 21/2 đã xảy ra cháy lớn ở rừng phòng hộ Bắc Biển Hồ thuộc huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai, ước tính diện tích bị cháy là 270 ha. Tính chung 2 tháng đầu năm 2013 diện tích rừng bị thiệt hại 317,2 ha, trong đó diện tích bị cháy là 281,4 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 35,8 ha.
c. Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Hai ước tính đạt 346,4 nghìn tấn, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 268,4 nghìn tấn, giảm 3,2%; tôm đạt 27,7 nghìn tấn, tăng 1,8%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Hai ước tính đạt 139,1 nghìn tấn, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 106,4 nghìn tấn, giảm 5%; tôm đạt 17,3 nghìn tấn, tăng 4,8%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng giảm do sản lượng cá tra giảm. Cá tra xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do giá cá tra nguyên liệu thấp, người nuôi không có lãi, mặt khác ngân hàng siết chặt tín dụng và nhu cầu nhập khẩu của các thị trường cá tra lớn đều giảm. Một số tỉnh có sản lượng cá tra thu hoạch thấp: An Giang 18 nghìn tấn, giảm 30% so với cùng kỳ năm trước; Cần Thơ 8 nghìn tấn, giảm 11,1%; Đồng Tháp 20,6 nghìn tấn, giảm 3,3%. Nuôi tôm và thủy sản khác ổn định. Sản lượng tôm nuôi thu hoạch trong tháng tăng chủ yếu ở các vùng nuôi nội địa, quảng canh cải tiến, nuôi kết hợp và tỉa thưa thả bù phục vụ nhu cầu Tết Nguyên Đán.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Hai ước tính đạt 207,3 nghìn tấn, giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 193,7 nghìn tấn, giảm 2,3%. Tính chung hai tháng đầu năm nay, sản lượng thủy sản ước tính đạt 722,5 nghìn tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm sản lượng nuôi trồng đạt 309,7 nghìn tấn, tăng giảm 1,7%, sản lượng khai thác đạt 412,8 nghìn tấn, tăng 2%.
2. Công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Hai ước tính giảm mạnh 21,3% so với tháng trước và giảm 10,1% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do tháng Hai năm nay là tháng Tết Nguyên Đán, có số ngày nghỉ nhiều. Tuy nhiên, tính chung cả hai tháng thì chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn tăng 6,8% so cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,8% (cùng kỳ năm 2012 tăng 7,7%); công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,9% (cùng kỳ năm 2012 tăng 6,7%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,7% (cùng kỳ năm 2012 tăng 11,7%) và ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải 9,9% (do tháng Tết phải xử lý nhiều rác thải, đặc biệt là rác thải sinh hoạt hơn các tháng bình thường khác).
Đóng góp vào mức tăng chung 6,8% của hai tháng đầu năm, ngành công nghiệp khai thác đóng góp 0,4 điểm %, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 5,5 điểm %, ngành sản xuất và phân phối điện 0,8 điểm % và ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải 0,1 điểm %.
Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất hai tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất pin và ắc qui tăng 107,1%; sản xuất thiết bị điện tăng 51,3%; sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ tăng 45,9%; sản xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng 43,3%; sản xuất giày, dép tăng 35,9%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 26,4%; sản xuất xi măng tăng 19,4%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 18,9%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 18,6%; sản xuất bia tăng 14,5%; sản xuất đường tăng 14,1%. Một số ngành công nghiệp có mức tăng khá là: Sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 11,7%, sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 11,5%; thu gom rác thải không độc hại tăng 10,8%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,4%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất dây, cáp điện tăng 6,9%; khai thác khí đốt tự nhiên tăng 6,9%; sản xuất sợi tăng 4,4%; khai thác dầu thô tăng 3,3%; chế biến và bảo quản thuỷ sản tăng 2,5%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 2,4%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 1,3%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 2,8%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) giảm 2,9%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 4%; khai thác và thu gom than cứng giảm 5,7%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 12,7%; đóng tàu và cấu kiện nổi giảm 37,3%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp hai tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012 của một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 3,2%; Đồng Nai tăng 7,6%; Bình Dương tăng 3,7%; Hà Nội tăng 4,5%; Hải Phòng tăng 2,9%; Bắc Ninh tăng 10,2%; Vĩnh Phúc tăng 11,5%; Cần Thơ tăng 0,8%; Hải Dương tăng 9,5%; Đà Nẵng tăng 10,7%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Một năm 2013 so với cùng kỳ năm trước tăng 24,1% và so với tháng trước tăng 1,1%. Các ngành có chỉ số tiêu thụ tháng Một năm 2013 tăng cao so với cùng kỳ năm 2012 là: Sản xuất thiết bị truyền thông tăng 55,5%; sản xuất đường tăng 55%; sản xuất xi măng tăng 53%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 40,6%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét tăng 40,5%; sản xuất cấu kiện kim loại tăng 40,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 38,1%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 30,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 28,5%; sản xuất thuốc lá tăng 27,9%; sản xuất sợi tăng 27,2%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 26%.. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất bia tăng 22,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 21,8%; sản xuất giày, dép tăng 19,5%; may trang phục tăng 18%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 15,4%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 14,2%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm tăng 8,1%; chế biến và bảo quản thủy sản tăng 6%; chế biến sữa và sản phẩm từ sữa tăng 4,8%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 8,8%.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/02/2013 tăng 19,9% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước là: Sản xuất xe có động cơ tăng 142,5%; sản xuất dây, cáp điện tăng 64,1%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 62%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 60,1%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 58,1%; sản xuất bia tăng 49,4%; sản xuất thuốc lá tăng 49%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 28,6%; may trang phục tăng 27%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 33,7%; sản xuất giày, dép tăng 31,9%; sản xuất đường tăng 28%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 25,2%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 24,6%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng tăng 17,3%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 13,5%; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét tăng 2,5%; sản xuất pin, ắc quy giảm 38,6%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 62,9%.
3. Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Hai năm 2013 ước tính đạt 8114 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 1375 tỷ đồng; vốn địa phương 6739 tỷ đồng. Tính chung hai tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 20118 tỷ đồng, bằng 10,5% kế hoạch năm và giảm 8,1% so với cùng kỳ năm 2012, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 3823 tỷ đồng, bằng 8,1% kế hoạch năm và giảm 29,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông vận tải là 659 tỷ đồng, bằng 10,2% và giảm 28,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 316 tỷ đồng, bằng 7,1% và giảm 33,8%; Bộ Xây dựng 162 tỷ đồng, bằng 8% và giảm 8%; Bộ Y tế 70 tỷ đồng, bằng 7,9% và giảm 38,1%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 68 tỷ đồng, bằng 9,8% và giảm 39,3%; Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch 45 tỷ đồng, bằng 8,8% và giảm 29,7%; Bộ Công Thương 29 tỷ đồng, bằng 9,3% và giảm 34,1%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 16295 tỷ đồng, bằng 11,3% kế hoạch năm và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện của một số địa phương như sau: Hà Nội đạt 2331 tỷ đồng, bằng 9,1% kế hoạch năm và tăng 30,1% so với cùng kỳ năm 2012; Thành phố Hồ Chí Minh 902 tỷ đồng, bằng 5,4% và tăng 2,7%; Bà Rịa-Vũng Tàu 695 tỷ đồng, bằng 15,8% và tăng 20,3%; Đà Nẵng 642 tỷ đồng, bằng 16,2% và giảm 19,3%; Vĩnh Phúc 626 tỷ đồng, bằng 19,5% và tăng 19,4%; Kiên Giang 514 tỷ đồng, bằng 18,9% và tăng 17,3%.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/02/2013 đạt 630,3 triệu USD, bằng 38,1% cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vốn đăng ký của 99 dự án được cấp phép mới đạt 532 triệu USD (bằng 81,8% số dự án và bằng 46,1% số vốn cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 31 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 98,3 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện hai tháng đầu năm ước tính đạt 1050 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong hai tháng đầu năm, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với số vốn đăng ký đạt 409 triệu USD, chiếm 64,9% tổng vốn đăng ký; ngành y tế và trợ giúp xã hội đạt 80 triệu USD, chiếm 12,7%; ngành kinh doanh bất động sản đạt 50,2 triệu USD, chiếm 8%; các ngành còn lại đạt 91,1 triệu USD, chiếm 14,4%.
Cả nước có 16 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới trong hai tháng, trong đó Đồng Nai có số vốn đăng ký lớn nhất với 208,3 triệu USD, chiếm 39,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 117,6 triệu USD, chiếm 22,1%; Bình Dương 67,3 triệu USD, chiếm 12,7%; Thành phố Hồ Chí Minh 51,8 triệu USD, chiếm 9,7%.
Trong số 20 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 228,3 triệu USD, chiếm 42,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đài Loan 80,4 triệu USD, chiếm 15,1%; Thái Lan 54,3 triệu USD, chiếm 10,2%; Sin-ga-po 39,5 triệu USD, chiếm 7,4%...
4. Thương mại, chỉ số giá và dịch vụ
a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng hai tháng đầu năm 2013 ước tính đạt 422,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 3,6%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, kinh doanh thương nghiệp đạt 328,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,7% và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 48,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,6% và tăng 13%; dịch vụ đạt 41,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% và tăng 14,5%; du lịch đạt 3,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,8% và giảm 4,4%.
b. Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai ước tính đạt 7,5 tỷ USD, giảm 34,6% so với tháng trước, trong đó kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm mạnh: cao su giảm 53,9%; giầy dép giảm 51,4%; dầu thô giảm 18,9%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai giảm 9%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Hai giảm mạnh so với tháng trước và cùng kỳ là do dịp nghỉ tết Nguyên đán rơi vào tháng Hai, tổng số ngày làm việc trong tháng Hai chỉ có 16 ngày (Tết Nguyên đán năm trước vào tháng Một). Tính chung hai tháng đầu năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 19 tỷ USD, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 6,8 tỷ USD, tăng 18,2%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 12,2 tỷ USD, tăng 27,3%.
Trong hai tháng đầu năm, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Hàng dệt may đạt 2,8 tỷ USD, tăng 38,4%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,7 tỷ USD, tăng 67,3%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,5 tỷ USD, tăng 53,4%; giày dép đạt 1,2 tỷ USD, tăng 20,9%; dầu thô đạt 1,2 tỷ USD, tăng 25,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 949 triệu USD, tăng 42,8%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 809 triệu USD, tăng 35,2%; sắn và sản phẩm sắn đạt 290 triệu USD, tăng 46,8%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu hai tháng đầu năm, EU vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch ước đạt 3,7 tỷ USD, tăng 34% so với cùng kỳ 2012. Tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch ước đạt 3,4 tỷ USD, tăng 30%; ASEAN đạt 2,7 tỷ USD, tăng 23%; Nhật Bản đạt 1,9 tỷ USD, tăng 3,4%; Trung Quốc 1,9 tỷ USD, tăng 21,4%; Hàn Quốc đạt 1 tỷ USD, tăng 36,7%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Hai ước tính đạt 6,6 tỷ USD, giảm 38,3% so với tháng trước và giảm 24,5% so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung hai tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 17,3 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 8,1 tỷ USD, tăng 7,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9,2 tỷ USD, tăng 12,9%.
Trong hai tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu của nhiều mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 2,4 tỷ USD, tăng 5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,3 tỷ USD, tăng 36,6%; vải đạt 1 tỷ USD, tăng 20,8%; hóa chất đạt 444 triệu USD, tăng 4,1%; nguyên phụ liệu dệt may giày dép đạt 419 triệu USD, tăng 9,2%; kim loại thường đạt 396 triệu USD, tăng 10,9%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 329 triệu USD, tăng 228,8%; sản phẩm chất dẻo đạt 308 triệu USD, tăng 10,5%; gỗ và nguyên phụ liệu gỗ đạt 239 triệu USD, tăng 21%.
Thị trường hàng hóa nhập khẩu hai tháng đầu năm, Trung Quốc vẫn luôn là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch ước tính đạt 4,8 tỷ USD, tăng 37,4%; ASEAN đạt 2,9 tỷ USD, giảm 6,3%; Hàn Quốc đạt 2,7 tỷ USD, tăng 22,6%; EU đạt 1,5 tỷ USD, tăng 29,4%; Nhật Bản đạt 1,4 tỷ USD, giảm 12,4%.
Hai tháng đầu năm xuất siêu ước đạt 1,68 tỷ USD, bằng 8,8% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu, trong đó xuất siêu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) đạt 2,96 tỷ USD và khu vực kinh tế trong nước vẫn tiếp tục nhập siêu với gần 1,3 tỷ USD.
c. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 02/2013 tăng 1,32% so với tháng trước, đây là mức tăng thấp nhất so với tốc độ tăng của tháng Hai các năm trước. Chỉ số giá tháng này tăng chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm tăng ở hầu hết các mặt hàng do nhu cầu tiêu dùng cho Tết Nguyên Đán; giá dịch vụ giao thông công cộng tăng khá cao do nhu cầu đi lại Tết tăng, trong đó giá vé xe khách bình quân tăng trên 11%; giá vé tầu hỏa tăng trên 4%; tỉnh Tuyên Quang tăng giá dịch vụ y tế theo Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC ngày 29/2/2012 tăng 138,61%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng hơn 1% là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,28% (Lương thực tăng 0,37%; thực phẩm tăng 3%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,85%); đồ uống và thuốc lá tăng 1,5%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn 1% hoặc giảm gồm: Giao thông tăng 0,81%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,6%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,58% (Dịch vụ y tế tăng 0,63%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,45%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,4%; giáo dục tăng 0,03%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 02/2013 tăng 2,59% so với tháng 12/2012 và tăng 7,02% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân hai tháng năm 2013 tăng 7,04% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
Chỉ số giá vàng tháng 02/2013 giảm 0,33% so với tháng trước; giảm 2,05% so với tháng 12/2012 và giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2012. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 02/2013 tăng 0,03% so với tháng trước; giảm 0,05% so với tháng 12/2012 và giảm 0,65% so với cùng kỳ năm 2012.
d. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách hai tháng đầu năm ước tính đạt 510,4 triệu lượt khách, tăng 7,6% và 22,5 tỷ lượt khách.km, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 7,1 triệu lượt khách, giảm 2,8% và 5,4 tỷ lượt khách.km, tăng 1,2%; vận tải địa phương đạt 503,4 triệu lượt khách, tăng 7,7% và 17 tỷ lượt khách.km, tăng 7,1%. Vận tải hành khách đường bộ hai tháng ước tính đạt 472 triệu lượt khách, tăng 7,9% và 16,7 tỷ lượt khách.km, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 33,3 triệu lượt khách, tăng 5,4% và 729 triệu lượt khách.km, tăng 10,8%; đường hàng không đạt 2,5 triệu lượt khách, giảm 4,8% và 4,4 tỷ lượt khách.km, tăng 1,5%; đường biển đạt 1 triệu lượt khách, tăng 1,5% và 59,7 triệu lượt khách.km, tăng 1%; đường sắt đạt 1,7 triệu lượt khách, giảm 6,7% và 609,2 triệu lượt khách.km, giảm 5,2%.
Vận tải hàng hóa hai tháng ước tính đạt 150,4 triệu tấn, tăng 5,7% và 31,4 tỷ tấn.km, giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 144,7 triệu tấn, tăng 6,6% và 9,9 tỷ tấn.km, tăng 5,8%; vận tải ngoài nước đạt 5,8 triệu tấn, giảm 5,9% và 21,5 tỷ tấn.km, giảm 6,7%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 115,3 triệu tấn, tăng 7,5% và 5,8 tỷ tấn.km, tăng 6,2%; đường sông đạt 28,1 triệu tấn, tăng 1,2% và 2,5 tỷ tấn.km, tăng 0,7%; đường biển đạt 6 triệu tấn, giảm 6,9% và 22,5 tỷ tấn.km, giảm 7,4%; đường sắt đạt 1 triệu tấn, tăng 0,1% và 520,2 triệu tấn.km, giảm 2,3%.
e. Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong hai tháng đầu năm 2013 ước tính đạt 1213,1 nghìn lượt người, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 743,9 nghìn lượt người, giảm 8%; đến vì công việc 204,9 nghìn lượt người, giảm 8,4%; thăm thân nhân đạt 200,6 nghìn lượt người, giảm 14,3%.
Trong hai tháng đầu năm nay, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Hàn Quốc 156,6 nghìn lượt người, tăng 10,4%; Ôx-trây-li-a 64,5 nghìn lượt người, tăng 7,1%; Nga 54 nghìn lượt người, tăng 38%; Ma-lai-xi-a 46,7 nghìn lượt người, tăng 1,3%; Thái Lan 36,6 nghìn lượt người, tăng 18,8%. Bên cạnh đó, một số nước có số lượng khách lớn đến nước ta nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước: Trung Quốc 264,5 nghìn lượt người, giảm 8,8%; Nhật Bản 98,6 nghìn lượt người, giảm 9%; Hoa Kỳ 90,4 nghìn lượt người, giảm 7,7%; Đài Loan 68,3 nghìn lượt người, giảm 22,5%; Cam-pu-chia 48,7 nghìn lượt người, giảm 21,1%; Pháp 35,4 nghìn lượt người, giảm 25,7%; Anh 30,7 nghìn lượt người, giảm 15,9%.
5. Một số vấn đề xã hội
Trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ năm 2013, chính quyền và cấp ủy các tỉnh, thành phố cùng các tổ chức chính trị-xã hội và các doanh nghiệp đã tổ chức các đoàn đi thăm, tặng quà và chúc Tết các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, đã có hơn 6 triệu phần quà với trị giá hơn 1937,6 tỷ đồng đã được trao cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách và 878,4 tỷ đồng cứu trợ xã hội cho đối tượng là các hộ nghèo, người khuyết tật và người có hoàn cảnh khó khăn.
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm: Trong tháng Hai năm 2013, trên địa bàn cả nước đã có 4,1 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 2,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (6 trường hợp tử vong); 37 trường hợp mắc bệnh viêm não virút và 6 trường hợp mắc bệnh thương hàn. Tính chung hai tháng đầu năm, cả nước có 6,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng tại 58/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với 1 trường hợp tử vong; 5,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (8 trường hợp tử vong); 46 trường hợp mắc bệnh viêm não virút và 10 trường hợp mắc bệnh thương hàn.
Trong tháng đã phát hiện thêm 764 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng Hai năm 2013 lên 264,3 nghìn người, trong đó 108,5 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 54,4 nghìn người đã tử vong do AIDS.
Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm là đáng quan ngại. Trong tháng Hai đã xảy ra 4 vụ ngộ độc thực phẩm làm 179 người bị ngộ độc, trong đó 2 trường hợp đã tử vong. Tính chung hai tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 9 vụ ngộ độc thực phẩm làm 242 người bị ngộ độc, trong đó 3 trường hợp tử vong. Đáng chú ý là vụ ngộ độc thực phẩm xẩy ra tối 23/1 tại nhà máy dệt may Phong Phú thuộc huyện Hải Lăng (Quảng Trị) làm 88 người phải nhập viện.
Tai nạn giao thông: Trong tháng 2/2013 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1117 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1035 người và làm bị thương 721 người. Riêng trong 9 ngày Tết đã xảy ra 373 vụ tai nạn giao thông, làm chết 314 người và làm bị thương 387 người. Tính chung hai tháng đầu năm 2013, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2090 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1925 người và làm bị thương 1301 người. So với cùng kỳ năm 2012, số vụ tai nạn giao thông tăng 7,7%, số người chết tăng 15,6% và số người bị thương giảm 12,2%. Bình quân 1 ngày trong hai tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông, làm chết 33 người và làm bị thương 22 người.
Bảo vệ môi trường và trật tự an toàn xã hội: Tình hình cháy, nổ diễn biến rất phức tạp. Trong hai tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra hơn 180 vụ cháy, nổ làm nhiều người chết và bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 25 tỷ đồng. Đặc biệt là vụ nổ, sập gây cháy nghiêm trọng tại Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh làm 10 người chết và 3 người bị thương. Cũng trong tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện 687 vụ vi phạm quy định về vệ sinh môi trường, trong đó 201 vụ bị xử lý với tổng số tiền phạt trên 3,1 tỷ đồng.
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
|