Tình hình  kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm 2013
  ________________
  Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
  Nông nghiệp
 Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào chăm sóc lúa đông xuân ở  các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và xuống giống lúa  hè thu tại các địa phương phía Nam. Tính đến 15/5/2013, các địa phương phía Bắc  đã kết thúc gieo cấy lúa đông xuân, diện tích ước tính đạt 1157,1 nghìn ha, bằng  vụ đông xuân năm trước, trong đó Đồng bằng sông Hồng đạt 561,2 nghìn ha, giảm  0,7%, nguyên nhân chủ yếu do một phần đất lúa được chuyển sang sử dụng vào việc  xây dựng các công trình công cộng trong Chương trình nông thôn mới, một phần  được được chuyển sang cây trồng khác. Thời tiết nắng nóng trong tháng làm hơn 36  nghìn ha lúa và hoa màu bị nhiễm sâu bệnh, trong đó gần 10,5 nghìn ha bị bệnh  khô vằn; 3,4 nghìn ha bị bệnh đạo ôn. Một số địa phương có nhiều diện tích lúa  bị nhiễm sâu bệnh là: Bắc Giang 11,4 nghìn ha; Sơn La 9,5 nghìn ha; Hải Phòng  gần 5 nghìn ha. Theo đánh giá ban đầu, năng suất lúa đông xuân của các địa  phương phía Bắc ước tính đạt 62,3 tạ/ha, xấp xỉ vụ đông xuân năm 2012; sản lượng  đạt 7,2 triệu tấn.  
  Tính đến trung tuần tháng Năm, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1950  nghìn ha lúa đông xuân, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng  vùng đồng bằng song Cửu Long ước tính đạt 10,9 triệu tấn, tăng 0,3% so với năm  trước, chủ yếu do diện tích gieo trồng tăng 1,2%. Sản lượng lúa đông xuân vùng  Duyên hải miền Trung tăng 2,3% do diện tích tăng 0,7% và năng suất tăng 1,6%. Do  ảnh hưởng của thời tiết nên sản lượng lúa đông xuân năm nay của các vùng khác ở  phía Nam giảm: Vùng Tây Nguyên giảm 9,3% do diện tích giảm 1,5% và năng suất  giảm 8,6%; vùng Đông Nam Bộ giảm gần 3% do diện tích giảm 4,8%. Sản lượng lúa  đông xuân cả nước năm nay ước tính đạt 13,1 triệu tấn, xấp xỉ bằng vụ đông xuân  trước.
 Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đã gieo sạ được  1347,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng 102,1% cùng kỳ năm trước; trong đó vùng Đồng  bằng sông Cửu Long gieo sạ 1236 nghìn ha, bằng 100,7%. Do thời tiết diễn biến  phức tạp nên hiện có khoảng hơn 53 nghìn ha lúa hè thu đang bị nhiễm sâu bệnh.  Ngành nông nghiệp khuyến cáo các địa phương tăng cường công tác kiểm tra, hướng  dẫn nông dân kỹ thuật thâm canh lúa và kiểm soát sâu bệnh bằng các chế phẩm  sinh học và công nghệ sinh thái để giảm chi phí sản xuất.  
 Gieo trồng các loại cây hoa màu đang được đẩy nhanh tiến độ tại các địa phương.  Tính đến thời điểm trên, cả nước đã gieo trồng được 646,3 nghìn ha ngô, bằng  109,3% cùng kỳ năm trước; 92,4 nghìn ha khoai lang, bằng 99,6%; 160,4 nghìn ha  lạc, bằng 95,9%; 64,7 nghìn ha đậu tương, bằng 110,2%; 545 nghìn ha rau, đậu,  bằng 105%.
 Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/4/2013 đàn trâu cả nước có 2,6  triệu con, giảm 2,5% so với cùng thời điểm năm 2012; đàn bò có 5,1 triệu con,  giảm 3,2%; đàn bò sữa có 174,7 nghìn con, tăng 10%; đàn lợn có 27 triệu con,  tăng 1,1%; đàn gia cầm có 314,4 triệu con, tăng 1,2%. Kết quả điều tra cho thấy,  đàn trâu, bò giảm chủ yếu do diện tích chăn thả ngày càng thu hẹp và hiệu quả  chăn nuôi thấp dẫn đến thời gian tái đàn chậm. Riêng đàn bò sữa có xu hướng tăng  do không bị ảnh hưởng của dịch bệnh và giá sữa nhìn chung ổn định.    Đàn lợn khôi phục chậm do giá lợn hơi giảm từ sau Tết Nguyên đán, giá thức ăn  chăn nuôi ở mức cao cùng với dịch bệnh tai xanh vẫn xảy ra rải rác ở các vùng  nên người nuôi không mạnh dạn đầu tư phát triển đàn. Chăn nuôi gia cầm đang gặp  khó khăn về giá bán thấp, một phần do sức mua giảm, mặt khác do tình trạng nhập  lậu gia cầm từ Trung Quốc vào Việt Nam chưa được kiểm soát triệt để.    Tính đến ngày 21/5/2013, dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn có ở các địa phương:  dịch cúm gia cầm ở Vĩnh Long, dịch lở mồm long móng ở Long An, dịch tai xanh  trên lợn ở Bắc Ninh và Nam Định.
  Lâm nghiệp  
 Diện tích rừng trồng tập trung tháng Năm ước tính đạt 14,8 nghìn ha, tăng 28,7%  so với cùng kỳ năm 2012; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 13,3 triệu cây,  tăng 1,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 417 nghìn m3, tăng 6,9%; sản  lượng củi khai thác đạt 2,7 triệu ste, tăng 2,3%. Tính chung năm tháng đầu năm,  diện tích rừng trồng tập trung đạt 29,5 nghìn ha, bằng cùng kỳ năm trước; số cây  lâm nghiệp trồng phân tán 94,9 triệu cây, tăng 2,5%, sản lượng gỗ khai thác đạt  1961,7 nghìn m3, tăng 7,7%; sản lượng củi khai thác đạt 12,9 triệu  ste, tăng 2,8%.
 Do ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khô hạn nên nhiều địa phương có nguy cơ cao  xảy ra cháy rừng. Trong tháng Năm xảy ra 21 vụ cháy rừng với diện tích bị cháy  là gần 80 ha; 88 vụ chặt, phá rừng với diện tích bị chặt phá khoảng 60 ha. Tính  chung năm tháng đầu năm nay, tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 674 ha, giảm  42,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 526 ha, giảm  50,7%; diện tích rừng bị chặt, phá là 148 ha,tăng 49,8%.
  Thủy sản
 Sản lượng thủy sản tháng Năm ước tính đạt 529,5 nghìn tấn, tăng 0,3% so với cùng  kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 415,6 nghìn tấn, giảm 0,5%; sản lượng  tôm đạt 44,1 nghìn tấn, tăng 2,6%.  
 Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Năm ước tính đạt 304,7 nghìn tấn, giảm 1% so  với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 257,3 nghìn tấn, giảm 2%; tôm đạt 28  nghìn tấn, tăng 3,3%. Nuôi cá tra gặp khó khăn trong thời gian dài nên mặc dù  đang mùa thu hoạch nhưng sản lượng cá tra trong tháng giảm ở nhiều địa phương:  An Giang đạt 21 nghìn tấn, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước; Cần Thơ 7 nghìn  tấn, giảm 8,6%; Vĩnh Long 1,2 nghìn tấn, giảm 66%. Hình thức thanh toán kéo dài  của các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra đang gây khó khăn cho người nuôi trong  việc thu hồi vốn và tái đầu tư sản xuất. Tính đến trung tuần tháng Năm, diện  tích thả nuôi cá tra vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có  diện tích thả nuôi giảm là: Bến Tre giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2012; An Giang  giảm 6,3%; Cần Thơ giảm 4,6%.  
 Nuôi tôm sú phát triển tương đối ổn định. Sản lượng tôm sú thu hoạch trong tháng  của Cà Mau là 13,5 nghìn tấn, xấp xỉ cùng kỳ năm trước, Bạc Liêu 5,5 nghìn tấn,  tăng 11,6%. Nuôi tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng, cá và các loại thủy sản khác  phát triển khá. Việc thực hiện chủ trương chuyển đổi và mở rộng diện tích nuôi  trồng thủy sản theo hướng đa canh, đa con kết hợp mà phổ biến là các mô hình  nuôi kết hợp tôm- cá, tôm-cua, tôm-lúa, lúa- cá, nuôi lồng, bè trên biển phát  triển với các loài thủy sản có giá trị cao đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế  và bảo đảm môi trường sinh thái bền vững.
 Hoạt động khai thác thủy sản trong tháng có nhiều thuận lợi về thời tiết. Sản  lượng khai thác tháng Năm ước tính đạt 224,8 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ  năm trước; trong đó khai thác biển đạt 209,8 nghìn tấn, tăng 2,2%. Khai thác cá  ngừ đại dương trong tháng giảm do giá cá ngừ đại dương liên tục ở mức thấp. Bình  Định là một trong những tỉnh có sản lượng khai thác cá ngừ lớn nhưng tháng Năm  chỉ đạt 710 tấn, giảm 18% so với cùng kỳ năm trước. Phú Yên có hàng trăm tàu  khai thác cá ngừ đang nằm bờ.
 Tính chung năm tháng đầu năm, sản lượng thuỷ cả nước ước tính đạt 2090,4 nghìn  tấn, tăng    0,8%    so với cùng kỳ năm trước, bao gồm sản lượng nuôi trồng đạt 992 nghìn tấn, giảm  2,2%; sản lượng khai thác đạt 1089,4 nghìn tấn, tăng 3,6% (khai thác biển đạt  1034,7 nghìn tấn, tăng 3,9%). Sản lượng cá ngừ đại dương khai thác tại Bình Định  5 tháng đầu năm ước tính đạt 3810 tấn, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước; Phú  Yên khai thác 3900 tấn, giảm 18,3%.
  Sản xuất công nghiệp
 Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Năm tăng 6,7% so với cùng kỳ năm  trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 5,9%; công nghiệp chế biến,  chế tạo tăng 6,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,1%; cung cấp nước, xử lý  rác thải, nước thải tăng 9,3%. Tính chung năm  tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 5,2% so với cùng kỳ  năm trước, tuy thấp hơn mức tăng 6,2% của cùng kỳ năm trước nhưng đang có  xu hướng tăng dần [1], trong đó ngành công  nghiệp khai khoáng tăng 2,7% (cùng kỳ năm trước tăng 3,1%); công nghiệp chế  biến, chế tạo tăng 5,5% (cùng kỳ năm trước tăng 6,3%); sản xuất và phân phối  điện tăng 8,9% (thấp hơn nhiều mức tăng 15% của cùng kỳ năm trước); cung cấp  nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 9,6% (cùng kỳ năm trước tăng 9,1%).
 Trong mức tăng chung 5,2% của năm tháng, ngành khai khoáng đóng góp 0,6 điểm  phần trăm; ngành chế biến, chế tạo đóng góp 3,9 điểm phần trăm; sản xuất và phân  phối điện đóng góp 0,6 điểm phần trăm và ngành cung cấp nước, xử lý nước thải,  rác thải đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
 Trong các ngành công nghiệp, một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao là: Sản  xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 15,3%; sản xuất da  tăng 14,7%;  sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 12,7%;    sản xuất đồ uống tăng 11,8%;    sản  xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 11,5%; khai thác, xử lý và cung cấp nước  tăng 10,3%. Một số ngành có mức tăng khá là: Sản xuất trang phục tăng 9,4%;    sản  xuất và phân phối điện tăng 8,9%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng  6%. Một số    ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Dệt  tăng 5,5%;    sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 5,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic  tăng 4,7%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 4,6%; sản xuất thuốc, hóa dược  và dược liệu tăng 3,5%; sản xuất thuốc lá tăng 2,5%; sản xuất thiết bị điện tăng  1,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 1,6%; khai  thác than cứng và than non giảm 1,7%;    sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 3,2%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và  sản phẩm quang học giảm 3,4%;    sản xuất kim loại giảm 3,6%; khai khoáng khác giảm 9,8%.
 Chỉ số sản xuất công nghiệp năm tháng đầu năm nay của một số tỉnh, thành phố có  quy mô công nghiệp lớn như sau: Thành phố Hồ Chí Minh tăng 4,5% so với cùng kỳ  năm trước; Đồng Nai tăng 6,9%; Bình Dương tăng 6,4%; Hà Nội tăng 3,9%; Hải Phòng  tăng 2,6%; Bắc Ninh tăng 5,7%; Vĩnh Phúc tăng 16,4%; Cần Thơ tăng 7,6%; Hải  Dương tăng 9,4%; Đà Nẵng tăng 10,4%.
 Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bốn tháng đầu năm 2013  tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các  ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất thiết bị điện tăng 23,3%; sản  xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 18,4%; sản xuất đồ uống  tăng 15,5%;  sản xuất xe có động cơ tăng 14,7%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic  tăng 11,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 10,6%; sản xuất thuốc lá  tăng 8,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng  8,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 6,8%. Một số ngành  có chỉ số tiêu thụ bốn tháng đầu năm tăng thấp hoặc giảm là: Dệt tăng  6,7%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất tăng 5,4%; sản xuất giấy và  sản phẩm từ giấy tăng 4,8%; sản xuất trang phục tăng 4,7%; sản xuất, chế biến  thực phẩm giảm 0,5%; sản xuất kim loại giảm 5,8%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế  giảm 9%.
 Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/5/2013 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo  tăng 12,3% so với cùng thời điểm năm trước, có xu hướng giảm dần từ đầu năm. Một  số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính  và quang học tăng 46,8%; sản xuất đồ uống tăng 32,9%; sản xuất giường, tủ, bàn  ghế tăng 32,2%; sản xuất kim loại tăng 26,6%; sản xuất thiết bị điện tăng 26,3%;  sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 25,2%; sản xuất thuốc, hóa dược và  dược liệu tăng 16%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Dệt  tăng 5,4%; sản xuất da tăng 4,5%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3,1%; sản  xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 0,3%; sản xuất xe có động cơ giảm 5,1%; sản  xuất sản phẩm thuốc lá giảm 41,1%.
 Tỷ lệ tồn kho tháng Tư năm nay là 74%, tỷ lệ tồn kho bốn tháng đầu năm là 76,7%.  Một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao hơn tỷ lệ tồn kho chung của ngành chế biến,  chế tạo là: Sản xuất xe có động cơ 122,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm từ hóa  chất 122,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 119,7%; sản xuất giường, tủ,  bàn, ghế 100,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 93,3%.
 Chỉ số sử dụng lao động tháng Năm của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,9% so  với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sử dụng lao động tháng 5/2013  tăng 2,9%, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,9%; khu vực doanh  nghiệp ngoài nhà nước giảm 2,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7%. Chỉ  số sử dụng lao động tháng Năm trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm  1,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,2%; sản xuất và phân phối điện tăng  4,2%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 4,5%.
  Đầu tư
 Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng  5/2013  ước tính đạt    17427  tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương    4024  tỷ đồng; vốn địa phương    13404  tỷ đồng. Tính chung năm tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách  Nhà nước đạt 69103 tỷ đồng, bằng 34,5% kế hoạch năm và giảm 2,9% so với cùng kỳ  năm 2012, gồm có:
 Vốn trung ương quản lý đạt 15331 tỷ đồng, bằng 32,4% kế hoạch năm và giảm 12,7%  so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận  tải là 2154 tỷ đồng, bằng 33,3% và giảm 18,8%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông  thôn 1368 tỷ đồng, bằng 30,9% và giảm 15,4%; Bộ Xây dựng 601 tỷ đồng, bằng 29,7%  và giảm 2,7%; Bộ Y tế 275 tỷ đồng, bằng 31,2% và giảm 25,5%; Bộ Giáo dục và Đào  tạo 233 tỷ đồng, bằng 33,4% và giảm 25,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 187  tỷ đồng, bằng 36,6% và giảm 12,4%; Bộ Công Thương 123 tỷ đồng, bằng 39,3% và  giảm 17,6%.
 Vốn địa phương quản lý đạt 53772 tỷ đồng, bằng 35,1% kế hoạch năm và tăng 0,4%  so với cùng kỳ năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện của một số địa phương như sau: Hà  Nội đạt 7350 tỷ đồng, bằng 26,7% kế hoạch năm và tăng 17,9% so với cùng kỳ năm  2012; thành phố Hồ Chí Minh    đạt    5384 tỷ đồng, bằng 31,4% và tăng 5,5%; Vĩnh Phúc 1570 tỷ đồng, bằng 52,4% và  tăng 17%; Đà Nẵng 1526 tỷ đồng, bằng 28,6% và giảm 41,4%; Thanh Hóa 1382 tỷ  đồng, bằng 44,1% và giảm 2,2%; Bà Rịa-Vũng Tàu 1367 tỷ đồng, bằng 31% và tăng  3,9%.
 Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/5/2013 đạt 8517,1  triệu USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vốn đăng ký của 398 dự án  được cấp phép mới đạt 5091,3 triệu USD (giảm 17,9% số dự án và tăng 5,8% số vốn  so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 160 lượt dự án được cấp phép  từ các năm trước với 3425,8 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện  năm tháng đầu năm 2013 ước tính đạt 4,6 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm  2012.
 Trong năm tháng đầu năm, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong nước thu hút  các nhà đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký đạt 7596,5 triệu USD, chiếm 89,2%  tổng vốn đăng ký;    ngành kinh doanh bất động sản đạt    387,4 triệu  USD, chiếm    4,5%;  các ngành còn lại đạt  533,2  triệu  USD, chiếm    6,3%.
 Cả nước có 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực  tiếp nước ngoài cấp phép mới trong năm tháng, trong đó Thái Nguyên có số vốn  đăng ký lớn nhất với 2017 triệu USD, chiếm 39,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp  đến là Bình Định 1009,5 triệu USD, chiếm 19,8%; Bình Dương 451,2 triệu USD,  chiếm 8,9%; Đồng Nai 282,8 triệu USD, chiếm 5,6%; Vĩnh Phúc 256 triệu USD, chiếm  5%.
 Trong số 36 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới, Xin-ga-po là nhà  đầu tư lớn nhất với 2313,8 triệu USD, chiếm 45,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp  đến là Liên bang Nga 1015,2 triệu USD, chiếm 19,9%; Nhật Bản 707 triệu USD,  chiếm 13,9%; Thái Lan 298,4 triệu USD, chiếm 5,9%; Đài Loan 191,6 triệu USD,  chiếm 3,8%...
  Thu, chi ngân sách Nhà nước
 Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2013  ước tính đạt    268,4  nghìn tỷ đồng, bằng    32,9%  dự toán năm, trong đó thu nội địa    178,2  nghìn tỷ đồng, bằng  32,7%;  thu từ dầu thô    42,7  nghìn tỷ đồng, bằng    43,1%;  thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu    46,1  nghìn tỷ đồng, bằng    27,7%.  Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước    54,2 nghìn tỷ đồng,    bằng    31,1%  dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô)    41,4 nghìn tỷ đồng,  bằng    38,5%;  thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước    38,9 nghìn tỷ đồng,  bằng    32,3%;    thu    thuế thu nhập cá nhân    21 nghìn tỷ đồng,    bằng    38,3%;    thu    thuế bảo vệ môi trường    4,2 nghìn tỷ đồng,    bằng    29,2%;  thu phí, lệ phí    3,5 nghìn tỷ đồng,    bằng    34,1%.
 Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/5/2013  ước tính đạt    335,6  nghìn tỷ đồng, bằng    34,3%  dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển    62,1  nghìn tỷ đồng, bằng    35,5%  (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản    60,5  nghìn tỷ đồng, bằng    35,6%);  chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước,  Đảng, đoàn thể  (bao gồm cả chi cải cách tiền lương) ước tính đạt 235,2  nghìn tỷ đồng, bằng    34,9%;  chi trả nợ và viện trợ    38,3  nghìn tỷ đồng, bằng    36,5%.
  Thương mại, giá  cả,    dịch vụ
  Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
 Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5/2013 ước tính  đạt 215,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng  kỳ năm 2012. Tính chung năm tháng đầu năm, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu  dịch vụ tiêu dùng đạt 1065,9 nghìn tỷ đồng, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước,  nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 4,8%. Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh  thu dịch vụ tiêu dùng năm tháng đầu năm, kinh doanh thương nghiệp đạt 820,5  nghìn tỷ đồng, chiếm 77% và tăng 11,5%; khách sạn nhà hàng đạt 127,4 nghìn tỷ  đồng, chiếm 12% và tăng 16,8%; dịch vụ đạt 108,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% và  tăng 10,6%; du lịch đạt 9,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 5%.
  Xuất, nhập khẩu hàng hóa
 Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng    Năm  ước tính đạt    10,8  tỷ USD,    tăng 7,6%  so với tháng trước và    tăng 11,8%  so với cùng kỳ năm 2012. Tính chung năm tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất  khẩu đạt 49,9 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh  tế trong nước đạt 17,2 tỷ USD, tăng 2,1%; khu vực có vốn đầu tư nước  ngoài (kể cả dầu thô) đạt 32,7 tỷ USD, tăng 23,3%.
 Trong năm tháng đầu năm, kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu đạt mức tăng cao  là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 7,7 tỷ USD, tăng 103,1% so với cùng kỳ  năm trước; hàng dệt may đạt 6,4 tỷ USD, tăng 16,7%; điện tử, máy tính và linh  kiện đạt 3,9 tỷ USD, tăng 41,6%; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù đạt 734 triệu  USD, tăng 20,5%; hạt tiêu đạt 470 triệu USD, tăng 15,4%. Một số mặt hàng xuất  khẩu có kim ngạch tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Giày dép đạt 3,1 tỷ USD,  tăng 11,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,2 tỷ USD, tăng 13%; gỗ và sản  phẩm gỗ đạt 2 tỷ USD, tăng 12%; sắt thép đạt 718 triệu USD, tăng 10,5%; sản phẩm  chất dẻo đạt 696 triệu USD, tăng 10,4%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng  thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước, đáng chú ý là có các mặt hàng nông sản  và thủy sản: Dầu thô đạt 3 tỷ USD, tăng 2,6%; thủy sản đạt 2,3 tỷ USD, giảm  2,5%; máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác đạt 2,1 tỷ USD, giảm 3,7%; cà phê  đạt 1,5 tỷ USD, giảm 20,9%; gạo đạt 1,3 tỷ USD, giảm 5,3%; cao su đạt 760 triệu  USD, giảm 26,7%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 622 triệu USD, giảm 11,2%; than đá  đạt 421 triệu USD, giảm 20,7%.
 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Năm ước tính đạt 12 tỷ USD, tăng 9,4% so với  tháng trước và tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm tháng đầu năm,  kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 51,9 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm  2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 23,2 tỷ USD, tăng 7,6%; khu vực có  vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,7 tỷ USD, tăng 25,4%.  
 Trong năm tháng đầu năm, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng  kỳ năm 2012 là: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 7,1 tỷ USD, tăng 53,6%; máy  móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 7 tỷ USD, tăng 8,5%; vải đạt 3,3 tỷ  USD, tăng 17,8%; sắt thép đạt 3 tỷ USD, tăng 16,3%; chất dẻo đạt 2,2 tỷ USD,  tăng 16,1%;  nguyên phụ liệu dệt may giày, dép đạt 1,5 tỷ USD, tăng 18,7 %; thức  ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,1 tỷ USD, tăng 38,6%; sản phẩm chất dẻo đạt  969 triệu USD, tăng 20,8%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 824 triệu  USD, tăng 253,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm  trước là: Xăng dầu đạt 3 tỷ USD, giảm 21,4%; hóa chất đạt 1,2 triệu USD, giảm  2,2%; ôtô 855 triệu USD, giảm 0,5%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 561 triệu USD, giảm  5,2%; cao su đạt 312 triệu USD, giảm 16,3%.  
 Nhập siêu tháng Năm ước tính 1,2 tỷ USD, bằng 11,1% kim ngạch hàng hóa xuất  khẩu. Nhập siêu năm tháng đầu năm nay là 1,9 tỷ USD, bằng 3,9% tổng kim ngạch  hàng hóa xuất khẩu.
  Chỉ số giá tiêu dùng
 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2013 giảm 0,06% so với tháng trước. Các nhóm hàng  hóa và dịch vụ có chỉ số giảm gồm: Giao thông giảm 0,57%;  nhà ở và vật liệu xây  dựng giảm 0,53%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,35% (Lương thực giảm 0,69%;  thực phẩm giảm 0,45%); bưu chính viễn thông giảm 0,07%. Nhóm thuốc và dịch vụ y  tế có chỉ số giá tăng 1,58% (Dịch vụ y tế tăng 1,92%), góp vào chỉ số giá chung  cả nước 0,09%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng nhẹ: Đồ  uống và thuốc lá tăng 0,41%; may mặc, mũ nón, giày dép và thiết bị và đồ dùng  gia đình cùng tăng 0,36%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,23%; giáo dục tăng  0,02%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng này giảm chủ yếu do một số nguyên nhân sau:  (1) Giá xăng dầu được điều chỉnh giảm hai đợt trong tháng Tư; (2) Giá các mặt  hàng lương thực và thực phẩm tiếp tục giảm do tiêu dùng trong dân có phần chững  lại vì lo ngại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm.  
 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5/2013 tăng 2,35% so với tháng 12/2012 và tăng 6,36%  so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tháng năm nay tăng  6,74% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
 Chỉ số giá vàng tháng 5/2013 giảm 4,62% so với tháng trước; giảm 11,46% so với  tháng 12/2012; giảm 5,83% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng  5/2013 tăng 0,21% so với tháng trước; tăng 0,55% so với tháng 12/2012; tăng  0,59% so với cùng kỳ năm 2012.
  Vận tải hành khách và hàng hóa
 Vận tải hành khách    năm tháng đầu năm ước tính đạt 1149,1  triệu lượt khách, tăng    3,7%  và    50,2  tỷ lượt khách.km, tăng    3,3%  so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vận tải trung ương đạt    17,9  triệu lượt khách,    tăng 1,3%  và    13,5  tỷ lượt khách.km, tăng    2,2%;  vận tải địa phương đạt    1131,2  triệu lượt khách, tăng    3,7%  và    36,8  tỷ lượt khách.km, tăng    3,7%.  Vận tải hành khách đường bộ    năm  tháng ước tính đạt    1048,9  triệu lượt khách, tăng    3,9%  và    35,6  tỷ lượt khách.km, tăng    2,6%  so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt   85,9  triệu lượt khách, tăng    1,7%  và    1,9  tỷ  lượt khách.km, tăng    5,6%;  đường hàng không đạt    6,8  triệu lượt khách,    tăng 2,7%  và    10,9  tỷ lượt khách.km, tăng    6%;  đường biển đạt    2,6  triệu lượt khách, tăng    2,2%  và    151,4  triệu lượt khách.km, tăng    2%;  đường sắt đạt    4,8  triệu lượt khách, giảm    0,2%  và    1,7  tỷ  lượt khách.km, giảm    1,9%.
 Vận tải hàng hóa    năm  tháng ước tính đạt    410,3  triệu tấn, tăng    1,5%  và    79,1  tỷ tấn.km, giảm    3,1%  so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt    396,6  triệu tấn, tăng    1,9%  và    34,7  tỷ tấn.km, tăng    1,1%;  vận tải ngoài nước đạt    13,7  triệu tấn, giảm    8,9%  và    44,5  tỷ tấn.km, giảm    6,2%.  Vận tải hàng hoá đường bộ đạt    318  triệu tấn, tăng    3%  và    22,4  tỷ tấn.km, tăng    1,2%;  đường sông đạt  72,8  triệu tấn,    giảm  1,6%  và    5,9  tỷ tấn.km,    giảm 2,4%;  đường biển đạt    16,7  triệu tấn, giảm 9,7%  và    49  tỷ tấn.km, giảm    5%;  đường sắt đạt    2,7  triệu tấn,    giảm 5,5%  và    1,6  tỷ  tấn.km, giảm    7%.  
  Khách quốc tế đến Việt Nam
 Trong năm tháng đầu năm 2013, số khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt trên 2,9  triệu lượt người, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng  đường hàng không đạt 2,4 triệu lượt người, giảm 3,4%, khách đến bằng đường bộ  461,7 nghìn lượt người, tăng 9% và khách đến bằng đường biển đạt 99 nghìn lượt  người, tăng 4,1%. Khách quốc tế đến Việt Nam trong năm tháng đầu năm với mục  đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1,8 triệu lượt người, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm  2012; khách đến vì công việc 500,5 nghìn lượt người, giảm 1,6%, thăm thân nhân  đạt 494,3 nghìn lượt người, giảm 5,4%.
 Trong    năm    tháng đầu năm nay, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta  tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc    696,1  nghìn lượt người,  tăng 15,4%;   Hàn Quốc    331,2  nghìn lượt người, tăng    2,5%;  Ôx-trây-li-a    139,9  nghìn lượt người, tăng 7,5%;  Nga    136,8  nghìn lượt người, tăng    57,8%;  Ma-lai-xi-a    127,4  nghìn lượt người, tăng    9,4%;  Thái Lan    109,7  nghìn lượt người, tăng    23,9%.    Một  số nước có số lượng khách lớn đến nước ta nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước  là:  Nhật Bản    250,8  nghìn lượt người, giảm    0,6%;  Hoa Kỳ    194,3  nghìn lượt người, giảm    6,9%;  Đài Loan    148,2  nghìn lượt người, giảm 22,6%;  Cam-pu-chia    126,8  nghìn lượt người, giảm    11,2%.
  Một số vấn đề xã hội
  Thiếu đói trong nông dân
 Trong tháng 5/2013, cả nước có 49,2 nghìn hộ thiếu đói, giảm 17,3% so với tháng  trước, tương ứng 206,9 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 18,9%. So với cùng kỳ năm  2012, số hộ thiếu đói giảm 28% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 28,2%. Tính chung  năm tháng đầu năm nay, cả nước có 287,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 12,9% so  với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 1199,4 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm  12,8%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm các cấp, các ngành và địa  phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 19,4 nghìn tấn lương thực và 11,5 tỷ đồng,  riêng tháng Năm đã hỗ trợ 3,3 nghìn tấn lương thực và hơn 3 tỷ đồng.
  Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
 Trong tháng, trên địa bàn cả nước có 7,2 nghìn trường hợp mắc bệnh tay, chân,  miệng; 2,1 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 29 trường hợp mắc bệnh  thương hàn; 53 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (3 trường hợp tử vong) và 1  trường hợp mắc cúm A (H5N1). Tính chung năm tháng đầu năm, cả nước có 25,2 nghìn  trường hợp mắc bệnh tay, chân, miệng (7 trường hợp tử vong); 13,9 nghìn trường  hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (10 trường hợp tử vong); 82 trường hợp mắc bệnh  thương hàn; 175 trường hợp mắc bệnh viêm não virút (5 trường hợp tử vong) và 2  trường hợp mắc cúm A (H5N1). Tính từ 15/2/2013 đến 17/5/2013, có 18 trường hợp  mắc hội chứng viêm da dầy sừng bàn tay, bàn chân, chủ yếu xảy ra tại Quảng Ngãi.
 Trong tháng đã phát hiện thêm 1009 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người  nhiễm HIV hiện còn sống của cả nước tính đến ngày 17/5/2013 lên 212,7 nghìn  người, trong đó 62,4 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử  vong do AIDS cả nước tính đến ngày 17/5/2013 là 63,7 nghìn người.
 Mặc dù tháng Năm năm nay là tháng an toàn thực phẩm nhưng các vụ ngộ độc thực  phẩm vẫn xảy ra nhiều. Theo báo cáo của các địa phương, trong tháng đã xảy ra 20  vụ ngộ độc thực phẩm làm 373 người bị ngộ độc, trong đó 11 trường hợp tử vong.  Tính chung năm tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 43 vụ ngộ độc thực  phẩm, làm 1110 người bị ngộ độc, trong đó 15 trường hợp tử vong.  
  Tai nạn giao thông
 Trong tháng    Năm,  trên địa bàn cả nước đã xảy ra    893  vụ tai nạn giao thông, làm chết    805  người và làm bị thương    521  người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 2,9%; số người  chết tăng 2,8%; số người bị thương giảm 14,7%.    Tính chung năm tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 4602 vụ tai nạn  giao thông, làm chết 4138 người và làm bị thương 2870 người. So với cùng kỳ năm  trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 1,6%; số người chết tăng 4,8%; số người bị  thương giảm 13,6%. Bình quân một ngày trong năm tháng đầu năm, trên địa bàn cả  nước xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, làm chết 27 người và làm bị thương 19  người.   
  Thiệt hại do thiên tai
 Thiên tai xảy ra trong tháng làm 16 người chết, mất tích và 58 người bị thương;  385 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; hơn 26 nghìn ngôi nhà bị ngập nước, sạt lở, tốc  mái; trên 3 nghìn ha lúa và 4,5 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Một số địa  phương bị thiệt hại nặng do thiên tai gây ra là: Lào Cai có 4 người chết, 21  người bị thương; 5,4 nghìn ngôi nhà bị sập, sạt lở, tốc mái. Hai tỉnh Cao Bằng  và Phú Thọ có trên 3 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị  thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính gần 254 tỷ đồng, trong đó Cao  bằng thiệt hại nhiều nhất với trên 60 tỷ đồng.  
  Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường  
 Trong năm tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1039 vụ cháy, nổ nghiêm  trọng, làm 52 người chết và 65 người bị thương. Thiệt hại do cháy, nổ ước tính  khoảng 320 tỷ đồng. Riêng tháng Năm đã xảy ra 198 vụ cháy, nổ, làm 6 người chết  và 10 người bị thương, thiệt hại gần 30 tỷ đồng.
 Trong tháng Năm, các cơ quan chức năng phát hiện 497 vụ  vi phạm vệ sinh môi trường  tại 40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Số vụ  vi phạm vệ sinh môi trường  bị  xử lý    là 324  vụ với tổng số tiền phạt    là 233 tỷ  đồng.
  Nguồn:    TỔNG  CỤC    THỐNG KÊ
 	
  [1]     Chỉ số sản xuất công nghiệp các tháng đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm trước như  sau: Tháng Một: 125,8% do tháng 01/2012 là tháng Tết Nguyên đán; tháng Hai:  84,7% do tháng 02/2013 là tháng Tết Nguyên đán; tháng Ba: 104,5%; tháng Tư:  105,9% và tháng Năm: 106,2%.