Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển Kinh tế -- Xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2004
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 7 VÀ 7 THÁNG ĐẦU NĂM 2004
(Tóm tắt Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ ngày 4-5 tháng 8 năm 2004)
I. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH, XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ
1. Về tình hình sản xuất:
(1) Theo báo cáo của Bộ Công nghiệp, sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, riêng khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh có tốc độ tăng trưởng rất cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7 ước tăng 2% so với tháng 6, trong đó công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh tăng tới 3,3%.
Tính chung 7 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 15,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 11,6% (Trung ương tăng 13,7%, địa phương tăng 7,3%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,4%.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn do giá nhiều loại nguyên, nhiên liệu và vật tư đầu vào tăng lên nhưng do có thị trường tiêu thụ, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong 7 tháng đầu đã đạt tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: than sạch khai thác tăng 31,9%, dầu thô khai thác tăng 13,6%, thuỷ sản chế biến 17,3%, gạch xây 15,8%, gạch lát 19,4%, quần áo dệt kim 23,1%, quần áo may sẵn 20,6%, giấy bìa các loại 34%, máy công cụ 20,3%, ắc quy 27,4%, tivi các loại 37,6%, xe máy các loại 48,7%, xe đạp hoàn chỉnh 114,4%,...
Tuy nhiên, một số sản phẩm chủ yếu có tốc độ tăng trưởng khá mặc dù vẫn thấp hơn tốc độ bình quân chung của toàn ngành công nghiệp như: điện tăng 12%, xi măng 6,7%, xà phòng các loại 14,6%, phân hoá học 13,2%, sứ vệ sinh 6,5%, vải lụa thành phẩm 11,5%, máy biến thế 7,7%, sữa hộp 14,3%, bột ngọt 12,1%.
Một số sản phẩm có tốc độ tăng trưởng chậm so với cùng kỳ năm trước do thay đổi điều kiện sản xuất hoặc bị cạnh tranh gay gắt bởi hàng nhập khẩu, như thép cán tăng 3,2%, động cơ điện tăng 1,2%, động cơ diezen 2,7%, xút NaOH 3%, bia 5,2%, thuốc lá bao 3,8%, thuốc viên các loại 3%, thuốc trừ sâu 3,6%.
Ngoài ra, còn có một số sản phẩm có khối lượng sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước như quạt điện dân dụng giảm 2,2%, đường mật các loại giảm 6,2%, thuốc ống các loại giảm 5%, ô tô các loại giảm 2,5%,...
Theo địa bàn sản xuất, công nghiệp tại nhiều địa phương trong 7 tháng đầu năm vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hoặc khá cao so với cùng kỳ năm trước, nhất là các địa phương có qui mô và tỷ trọng sản xuất công nghiệp lớn như: công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh tăng 15,5%, Hà Nội tăng 15,1%, Bình Dương 33,1%, Đồng Nai 19,4%, Vĩnh Phúc 24,7%, Thanh Hoá 16,7%, Đà Nẵng 19,4%, Khánh Hoà 21,1%, Cần Thơ 20,2%, Hà Tây 18,3%, Hải Dương 18,3%, Hải Phòng 15,1%, Quảng Ninh 21,7%.
Điểm nổi bật trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm là khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh liên tục dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp. Nhiều tỉnh, thành phố do biết khai thác tốt thế mạnh của địa phương và tạo được môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi nên công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển cao đáng kể so với các thành phần kinh tế khác, như công nghiệp ngoài quốc doanh tại Cần Thơ tăng 70,6%, Hà Tây 23,8%, Vĩnh Phúc 61,3%, Phú Thọ 47,1%, Khánh Hoà 24,6%, Hải Dương 30,9%, thành phố Hồ Chí Minh 17%,...
Mặc dù vậy, vẫn còn một số địa phương có có quy mô và tỷ trọng sản xuất công nghiệp lớn nhưng có tốc độ tăng trưởng công nghiệp trong 7 tháng đầu năm tương đối thấp hơn, thậm chí giảm sút như công nghiệp Bà Rịa -Vũng Tàu giảm 0,7%.
(2) Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản xuất nông nghiệp tiếp tục vượt qua nhiều khó khăn về thời tiết, duy trì được sản xuất ổn định.
Đến ngày 15/7/2004 cả nước đã gieo cấy được 1.022 nghìn ha lúa mùa, đạt 46,9% kế hoạch năm và bằng 93,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó các địa phương phía Bắc đã gieo cấy được 875 nghìn ha, bằng 88% so với cùng kỳ năm trước, các địa phương phía Nam đã gieo cấy được 147 nghìn ha, bằng 127% so với cùng kỳ.
Các địa phương phía Nam tiếp tục thu hoạch lúa hè thu trà sớm và gieo cấy lúa hè thu. Đến ngày 15/7/2003 cả nước đã thu hoạch được 791 nghìn ha lúa hè thu, bằng 38,1% diện tích gieo cấy và tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long đã thu hoạch được 742 nghìn ha, bằng 41,4% diện tích gieo cấy và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước.
Đến ngày 15/7, các địa phương trong cả nước đã gieo trồng được gần 546 nghìn ha rau, đậu các loại, tăng 9,6% so với cùng kỳ; 767 nghìn ha ngô, tăng 18,9%; 284 nghìn ha sắn, bằng 99,5% so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày tăng khá; đến ngày 15/7, cả nước đã trồng được 440,2 nghìn ha, tăng 9,4% so với cùng kỳ, trong đó đậu tương 132,5 nghìn ha, tăng 24,9%, lạc 202 nghìn ha, tăng 7,1%,...
Về chăn nuôi: Tính đến ngày 11/7/2004, dịch cúm gà đã tái phát ở 14 huyện thị thuộc 7 tỉnh, thành phố; số gia cầm bị bệnh phải tiêu huỷ gồm 22,5 nghìn con gà, 13 nghìn chim cút và một số lượng nhỏ ngan, vịt. Ngoài ra, còn có gần 12,8 nghìn con gà chết do mắc dịch. Nguyên nhân để tái phát dịch là do không xử lý triệt để các ổ dịch cũ; một số nơi chưa thực hiện nghiêm túc quy định về thú y và mua giống mới. Các địa phương tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với người sản xuất để sớm khôi phục lại đàn gia cầm. Tuy nhiên, việc khôi phục chăn nuôi gia cầm tiến triển chậm do tâm lý lo ngại dịch tái phát và giá thức ăn chăn nuôi tăng cao.
Về thuỷ sản: Tổng sản lượng thuỷ sản tháng 7 ước đạt 254 nghìn tấn, tính chung 7 tháng đạt gần 1,52 triệu tấn, bằng 57,2% kế hoạch năm và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2003.
Nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá; tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tháng 7 ước đạt 120 nghìn tấn, tính chung 7 tháng đạt 632 nghìn tấn, bằng 52,7% kế hoạch năm và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, thời điểm Mỹ công bố áp đặt thuế bán phá giá tôm Việt Nam vào thị trường Mỹ trùng với vụ tôm sú đang vào mùa thu hoạch đã làm cho giá tôm giảm xuống, gây bất lợi đối với người sản xuất.
Khai thác hải sản phát triển chậm mặc dù thời tiết thuận lợi; sản lượng tháng 7 chỉ đạt 134 nghìn tấn, tính chung 7 tháng đạt 884 nghìn tấn, bằng 61% kế hoạch năm và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2003. Nguyên nhân là do giá xăng dầu tăng làm cho chi phí sản xuất tăng cao; sản lượng khai thác trong tháng 7 tại một số địa phương đã giảm so với các tháng trước.
Về lâm nghiệp: trong tháng 7, các địa phương đã trồng mới được 19,8 nghìn ha rừng tập trung; tính chung 7 tháng đầu năm trồng mới được 127,9 nghìn ha rừng tập trung, đạt khoảng 64% kế hoạch năm và bằng 99,5% so với tiến độ cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, trong 7 tháng đầu năm đã khoanh nuôi tái sinh và trồng dặm được gần 420 nghìn ha rừng, bằng 101,3% so với cùng kỳ năm trước.
Từ đầu năm đến 20/7 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 568 vụ cháy rừng với tổng diện tích thiệt hại là 3.347 ha, bằng 60% cả năm 2003. Cháy rừng chủ yếu xảy ra tại các tỉnh Tây Nguyên, miền núi phía Bắc và Kiên Giang. Nhìn chung, số vụ cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng năm nay sẽ không lớn so với những năm trước do ngành kiểm lâm đã hoàn thiện được hệ thống cảnh báo nguy cơ cháy rừng và công tác phòng cháy, chữa cháy đã đi vào nề nếp. Đặc biệt, thông tin cảnh báo nguy cơ cháy rừng đã được đưa phổ biến hàng ngày trên hệ thống truyền hình cả nước.
2. Về dịch vụ:
Các lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển nhanh và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và hoạt động xã hội đều phát triển khá nên đã tạo điều kiện để thị trường trong nước liên tục phát triển nhanh.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 7 ước đạt 31,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng 6; tính chung 7 tháng đầu năm đạt khoảng 210 nghìn tỷ đồng, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước.
Công tác quản lý thị trường đã có nhiều cố gắng, song trình trạng sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn chưa bị đẩy lùi. Trong tháng 7, cả nước đã phát hiện và xử lý gần 4.800 vụ vi phạm về sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng quá hạn sử dụng với tổng số tiền phạt thu được trên 10 tỷ đồng. Tình trạng thực phẩm tươi sống lưu thông trên thị trường không được kiểm dịch vẫn chưa được giải quyết triệt để. Việc kiểm tra, xử lý hàng giả còn gặp nhiều khó khăn do thiếu các thiết bị kỹ thuật cần thiết và do chi phí kiểm định mẫu hàng hoá cao.
Nhìn chung, công tác quản lý giá thị trường đang gặp nhiều khó khăn. Mặc dù Chính phủ đã phối hợp với các Bộ, ngành thực hiện nhiều biện pháp khẩn cấp để ổn định giá như giảm mạnh thuế nhập khẩu thép, phôi thép, xăng dầu,... nhưng chỉ sau một thời gian ngắn tạm ổn định, giá cả một số mặt hàng nhạy cảm lại có xu hướng tăng lên.
Hoạt động du lịch tiếp tục phát triển mạnh nhờ môi trường chính trị, kinh tế và xã hội ổn định, nền kinh tế phát triển khá và những cố gắng của ngành du lịch và các địa phương. Bên cạnh đó, nhiều ngành kinh tế, xã hội khác đã có sự hỗ trợ tích cực với ngành du lịch như Tổng công ty Hàng không Việt Nam đã tăng số tuyến bay và số chuyến bay nên những điểm có tiềm năng du lịch lớn, đặc biệt là tăng số chuyến bay lên Điện Biên và mở thêm sân bay Cam Ranh; đã miễn thị thực nhập cảnh cho công dân một số nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc,... tạo thêm nhiều thuận lợi và cơ hội mới cho khách du lịch. Số chương trình du lịch mở ra ngày càng nhiều với nội dung ngày càng phong phú. Sau lễ hội Năm du lịch Điện Biên, đã tổ chức chương trình du lịch "Con đường di sản miền Trung", liên hoan Festival Huế, chương trình du lịch nghỉ dưỡng và tắm biển mùa hè, chương trình du lịch tham quan văn hoá, sinh thái,... Ngành du lịch cũng có một số cải tiến trong công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch đi đôi với nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch. Nhờ đó, số khách du lịch tiếp tục tăng nhanh. Ước trong tháng 7/2004 có thể đón trên 225 nghìn lượt khách quốc tế, nâng tổng số khách đến Việt Nam trong 7 tháng đầu năm lên 1,65 nghìn lượt người, tăng 34% so với cùng kỳ và đạt 58% kế hoạch năm. Số khách du lịch nội địa 7 tháng đầu năm đạt khoảng 8 triệu lượt người, tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách đã tăng nhanh trong những tháng gần đây và so với tốc độ tăng cùng kỳ năm trước do tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và nhu cầu đi lại của người dân và khách du lịch tăng nhanh. Tính chung trong 7 tháng đầu năm, vận tải hàng hoá tăng 5,1% về tấn và 7,6% về tấn km so với cùng kỳ năm trước, vận tải hành khách tăng 5,7% về lượt hành khách và 15,9% về lượt hành khách km.
Theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, sau một tháng triển khai thực hiện thí điểm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động vận tải hành khách liên tỉnh bằng ô tô tuyến Bến xe Giáp Bát (Hà Nội) - Bến xe Miền Đông (thành phố Hồ Chí Minh), hầu hết các xe dã dừng đỗ đúng các vị trí quy định. Các bữa ăn cho khách trên các chuyến xe chất lượng cao đều được đảm bảo. Hiện tượng đỗ xe đón khách dọc đường ít xảy ra do các xe khi xuất bến đều đã đủ khách. Đã xoá được tình trạng đưa khách vào nhà hàng ép ăn cơm giá cao. Hiện tượng bán khách và lèn khách cũng đã cơ bản chấm dứt. Tại Bến xe miền Đông, đã xoá được hiện tượng "cò mồi" khách. Đến nay đã có 17/20 tỉnh, thành phố nằm trên Quốc lộ 1 từ Hà Nội đi thành phố Hồ Chí Minh đã cắm xong biển Điểm dừng xe khách; nhiều địa phương như Bình Thuận, Phú Yên, Quảng Bình,... đã hoàn thành việc xoá bến xe cóc sớm hơn so với kế hoạch. Kết quả là sau một tháng chấn chỉnh hoạt động vận tải hành khách liên tỉnh bằng ô tô, số khách đi đã tăng gấp ba. một số khách trước đây thường xuyên đi bằng tàu hỏa nay đã chuyển sang đi ô tô chất lượng cao.
Vận tải hành khách bằng phương tiện công cộng tại các thành phố lớn đang có nhiều tiến bộ trong những tháng gần đây. Để đáp ứng nhu cầu đi lại của dân cư, các trung tâm quản lý và điều hành vận tải hành khách công cộng tại các thành phố lớn đã kịp thời điều chỉnh lộ trình, mở thêm tuyến, tăng chuyến, tăng giờ phục vụ hành khách. Do chất lượng dịch vụ vận tải có nhiều cải thiện, nhu cầu đi lại bằng phương tiện công cộng đang tăng lên nhanh.
Mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển và hoạt động ổn định. Trong tháng 7, đã phát triển mới 109 điểm phục vụ bưu chính viễn thông, nâng tổng số điểm phục vụ bưu chính viễn thông trong toàn quốc lên 13.652 điểm, trong đó có 6.728 điểm bưu điện - văn hoá xã; đã phát triển mới 144 nghìn thuê bao điện thoại; tính chung 7 tháng đầu năm tăng thêm 1,114 triệu thuê bao, nâng tổng số thuê bao có trên mạng đến cuối tháng 7 lên 8,58 triệu máy, đạt mật độ 10,6 máy điện thoại/100 dân. Trong tháng 7, đã phát triển hơn 102 nghìn thuê bao Internet, trong đó có 712 thuê bao Internet băng rộng; tính chung 7 tháng đầu năm tăng thêm 470 nghìn thuê bao Internet; nâng tổng số lên 1,268 triệu thuê bao Internet, trong đó có 15,5 nghìn thuê bao băng rộng. Đến cuối tháng 7/2004, cả nước đã có 5,1 triệu người sử dụng dịch vụ Internet, đạt mật độ 6,3 người sử dụng/100 dân.
3. Về đầu tư phát triển:
Huy động và thực hiện vốn đầu tư phát triển trong 7 tháng đầu năm đạt khá so với kế hoạch, tiến độ thực hiện nhiều công trình trọng điểm đang được đẩy nhanh.
Vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước tập trung ước thực hiện trong tháng 7 đạt xấp xỉ 3.854 tỷ đồng, luỹ kế 7 tháng đạt gần 23 nghìn tỷ đồng, bằng 61,5% kế hoạch năm (cùng kỳ năm 2003 đạt 65,8%); trong đó các Bộ, ngành Trung ương 7 tháng đạt 8,8 nghìn tỷ đồng, bằng 67,6% kế hoạch năm; các địa phương đạt khoảng 14 nghìn tỷ đồng, bằng 58,2% kế hoạch năm.
Một số Bộ, ngành trung ương thực hiện vốn đầu tư cao và khá so với kế hoạch năm là Bộ Giao thông Vận tải (76,5%), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (59%), Bộ Xây dựng (58,9%), Bộ Thuỷ sản (53,7%), Bộ Công nghiệp (52%), Bộ Văn hoá và Thông tin (50,8%). Riêng Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo sau 7 tháng vẫn chưa thực hiện được 50% kế hoạch năm (mới thực hiện được 48,1% và 47% kế hoạch năm). Các Bộ, ngành, địa phương đang tận dụng điều kiện thời tiết thuận lợi để đẩy mạnh tiến độ thi công, nhất là đối với các công trình trọng điểm và các công trình có thể hoàn thành trong năm.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển 7 tháng đầu năm thực hiện đạt thấp, khoảng ước đạt 9,7 nghìn tỷ đồng, bằng 32,3% kế hoạch năm. Đặc biệt, nguồn vốn tín dụng trong nước cho vay theo kế hoạch chỉ đạt 4,1 nghìn tỷ đồng, bằng 21,6% kế hoạch năm. Riêng nguồn vốn ODA cho vay lại thực hiện đạt khoảng 3 nghìn tỷ đồng, bằng 50% kế hoạch năm.
Về vốn ODA: Từ đầu năm đến 21/7/2004 đã hợp thức hoá bằng các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ được 1.716 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 1.558 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại đạt 158 triệu USD. Riêng trong tháng 7/2004, đã ký kết được 4 dự án, trong đó có 3 dự án lớn là dự án "Nâng cấp đô thị" (220 triệu USD, do Ngân hàng Thế giới tài trợ), dự án "Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo giai đoạn 3" (100 triệu USD, do Ngân hàng Thế giới tài trợ), dự án "Nâng cấp cơ sở vật chất cho bệnh viện Trung ương Huế" (26,46 triệu USD, do Nhật Bản tài trợ).
Giải ngân ODA trong 7 tháng đầu năm ước đạt khoảng 890 triệu USD, bằng khoảng 48% kế hoạch năm; trong đó vốn vay đạt khoảng 760 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 130 triệu USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: trong tháng 7 thực hiện được khoảng 200 triệu USD; tính chung 7 tháng đã đưa vào thực hiện được khoảng 1.650 triệu USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2003.
Trong tháng 7, vốn đầu tư đăng ký đạt 128,4 triệu USD (trong đó có 9 dự án mới với tổng số vốn đăng ký là 25,2 triệu USD; có 7 lượt dự án tăng vốn, với tổng số vốn tăng thêm là 103,2 triệu USD). Tính chung 7 tháng, vốn đầu tư đăng ký đạt 1.932 triệu USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm trước.
4. Về xuất nhập khẩu:
Xuất khẩu tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao; kim ngạch xuất khẩu tháng 7 ước đạt 2,16 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 1,21 tỷ USD.
Tính chung, kim ngạch xuất khẩu 7 tháng ước đạt 14,17 tỷ USD, bằng 64,9% kế hoạch năm và tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 7.744 triệu USD, bằng 66,2% kế hoạch năm và tăng 32,4% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm trung bình đạt 2.024 triệu USD/tháng.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu về kim ngạch cao so với cùng kỳ là: dây điện và cáp điện 28,9%, sản phẩm gỗ 86,7%, hàng điện tử 64,1%, máy vi tính và linh kiện 27,9%, xe đạp và phụ tùng xe đạp 69,4%, hạt điều 34,2%, hạt tiêu 28,9%, sản phẩm nhựa 28,3%, giầy dép 16%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có mức tăng trưởng về lượng cao so với cùng kỳ là: than đá tăng 51,4%, dầu thô 12,5%, cà phê 55%, chè các loại 76,9%.
Hai mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu tăng chậm so với cùng kỳ là hàng dệt may tăng 9,5% và hàng thủ công mỹ nghệ tăng 5,4%.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng hoặc kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ đều là hàng nông sản, cụ thể là về lượng, xuất khẩu gạo giảm 3%, lạc nhân giảm 46,4%, cao su giảm 32,7%; về kim ngạch, xuất khẩu hàng rau quả giảm 3,4%, thuỷ sản giảm 1,7%.
Nhìn chung trong 7 tháng đầu năm, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng trưởng khá do được lợi về giá xuất khẩu. Xuất khẩu dầu thô chỉ tăng 12,5% về lượng nhưng tăng tới 32% về kim ngạch. Một số mặt hàng nông sản tuy có khối lượng xuất khẩu giảm nhưng do giá tăng nên kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt hoặc cao hơn cùng kỳ năm trước, như khối lượng cao su xuất khẩu giảm 32,7% nhưng kim ngạch vẫn tăng do giá xuất khẩu tăng tới 43%. Riêng xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản gặp nhiều khó khăn do thiếu nguyên liệu và những hạn chế của thị trường Mỹ.
Về thị trường, mặc dù Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta, nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này trong 7 tháng đầu năm giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt 8,5%; nguyên nhân là do ảnh hưởng của hạn ngạch hàng dệt may và vụ kiện tôm. Để giảm mức độ tập trung vào thị trường Mỹ, nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU và Nhật Bản, nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu vào 2 thị trường lớn này tiếp tục tăng khá, khoảng gần 13% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 7 ước đạt 2,55 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 880 triệu USD. Tính chung 7 tháng đầu năm, nhập khẩu ước đạt 16,85 tỷ USD, bằng 63,6% kế hoạch năm và tăng 17,2% so cùng kỳ năm 2003; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 5,94 tỷ USD, bằng 62,5% kế hoạch năm và tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2003.
Các mặt hàng chủ yếu có kim ngạch hoặc khối lượng nhập khẩu tăng mạnh trong 7 tháng đầu năm là linh kiện xe máy tăng 30,9%, bông các loại tăng 42,6%, máy vi tính và linh kiện 80,6%, vải các loại 43,3%, hoá chất các loại 17,5%, chất dẻo nguyên liệu 14,7%.
Các mặt hàng chủ yếu có kim ngạch hoặc khối lượng nhập khẩu tăng chậm là xăng dầu tăng 7,8%, sợi các loại 0,6%, tân dược 4,2%, nguyên liệu dệt may da 9,9%.
Các mặt hàng chủ yếu có kim ngạch hoặc khối lượng nhập khẩu giảm so với cùng kỳ là ô tô nguyên chiếc giảm 4,5%, linh kiện và phụ tùng ô tô giảm 13,3%, thép các loại giảm 3,5% (riêng phôi thép tăng 3,7%), máy móc thiết bị và phụ tùng giảm 12,9%, phân bón các loại giảm 6,9%, giấy các loại giảm 8,2% và linh kiện điện tử giảm 14,4%.
Nhập siêu 7 tháng khoảng 2,68 tỷ USD, bằng 18,9% kim ngạch xuất khẩu và giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập siêu tháng 7 khoảng 390 triệu USD, tương đương với trung bình của 6 tháng đầu năm (382 triệu USD).
5. Một số kiến nghị của các Bộ, ngành, địa phương tham gia Hội nghị giao ban tháng 7
Tại cuộc họp giao ban, nhiều Bộ, ngành, địa phương đã kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành chức năng nghiên cứu hỗ trợ để giải quyết những khó khăn đặt ra trong quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư và xuất nhập khẩu năm 2004. Đối với những kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết của các Bộ ngành chức năng có đại diện tham gia họp giao ban, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có ý kiến đề nghị đại diện của các Bộ ngành về báo cáo Lãnh đạo nghiên cứu, xử lý. Riêng đối với các kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin tổng hợp như sau:
(1) Về cơ chế, chính sách:
- Các Bộ, ngành, địa phương đề nghị sớm có các giải pháp bình ổn giá các nguyên nhiên vật liệu thiết yếu đối với sản xuất, nhất là giá sắt thép, xăng dầu, phân bón... Một số địa phương đề nghị Chính phủ có chính sách làm căn cứ xử lý, đảm bảo tiến độ đầu tư xây dựng mỗi khi giá một số nguyên, vật liệu thiết yếu tăng mạnh.
Tổng công ty Điện lực Việt Nam đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các đơn vị sản xuất than và khí không tăng giá để đảm bảo bình ổn giá điện và cân đối tài chính của TCT Điện lực, đề nghị Thủ tướng Chính phủ sớm thông qua cơ chế hình thành giá bán điện của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối điện và sớm ban hành cơ chế tách hoạt động công ích ra khỏi sản xuất kinh doanh điện để đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Điện lực.
Tổng công ty Xi măng Việt Nam đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các đơn vị sản xuất điện, than và một số vật tư thiết yếu khác không tăng giá bán điện, than,... trong thời gian tới.
- Tỉnh Hà Tây, Hải Dương đề nghị có cơ chế hỗ trợ tiền điện và cung ứng điện phục vụ tiêu úng, chống hạn cho các địa phương thường xuyên bị lũ lụt và hạn hán nặng.
- Tỉnh Hải Dương đề nghị Thủ tướng Chính phủ có cơ chế hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp tập trung, có cơ chế quản lý giá trần cho thuê đất trong khu công nghiệp để đảm bảo suất đầu tư hợp lý; có quy định cụ thể về phạm vi kiểm tra, cơ quan được tiến hành kiểm tra và quan hệ giữa các cơ quan trong việc quản lý các doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh.
- Nhiều địa phương đề nghị sớm ban hành khung giá đất mới phù hợp với Luật Đất đai đã có hiệu lực thi hành để tạo thuận lợi cho công tác giải phóng mặt bằng.
(2) Về đầu tư xây dựng cơ bản:
- Nhiều Bộ, ngành, địa phương đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo bổ sung nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong các tháng cuối năm 2004 để thanh toán khối lượng xây lắp nợ đọng, bổ sung vốn đối ứng cho các dự án ODA và các dự án khắc phục hậu quả lũ lụt.
- Tỉnh Ninh Bình đề nghị tăng vốn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án được xác định hỗ trợ có mục tiêu như dự án khu du lịch Tràng An (theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 365/CP-KTTH ngày 22/3/2004), dự án phân lũ, chậm lũ thuộc 2 huyện Nho Quan và Gia Viễn, dự án Bệnh viện đa khoa khu vực tại Ninh Bình (700 giường).
- Tỉnh Hà Tây đề nghị cấp bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm của Chính phủ gồm dự án xây dựng khu tái định cư Hoà Phú, Bắc đường 18,... (Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây đã có công văn số 1609 CV/UN-TH ngày 12/4/2004 trình Chính phủ). Tỉnh Hà Tây và tỉnh Nam Định đề nghị cho phép kéo dài và có giải pháp hỗ trợ đối với các công trình thuộc các chương trình mục tiêu như Chương trình hỗ trợ xây dựng các công trình phân lũ, chậm lũ, Chương trình kiên cố hoá trường học, Chương trình kiến cố hoá kênh mương,...
- Việc đầu tư cơ sở hạ tầng của tỉnh Nam Định cần rất nhiều vốn, vượt quá khả năng của tỉnh, do đó tỉnh Nam Định đề nghị hỗ trợ đầu tư các công trình hạ tầng khu, cụm công nghiệp của tỉnh để tạo đà cho tỉnh phát triển, để tỉnh và thành phố Nam Định thực sự trở thành trung tâm khu vực phía Nam của đồng bằng sông Hồng theo yêu cầu của Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ.
- Tổng công ty Điện lực Việt Nam đề nghị ưu tiên cho vay từ nguồn vốn ODA để đầu tư các công trình điện, đặc biệt là nguồn vốn JBIC để thực hiện dự án phát triển nhiệt điện Ninh Bình, Mông Dương, Nhơn Trạch, Nghi Sơn, nguồn vốn Ngân hàng Thế giới để mở rộng tổ máy 2 nhà máy nhiệt điện Uông Bí, cho nhà máy thuỷ điện Bản Uôn,... Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo về dự án thuỷ điện Thượng Kon Tum; hỗ trợ vốn ngân sách để đầu tư nguồn và lưới điện phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa và điện khí hoá nông thôn.
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị nguồn vốn vay ODA của JBIC, Ngân hàng Thế giới (World Bank),... cần tập trung ưu tiên cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, các cơ sở y tế, giáo dục, phát triển lâm nghiệp, xóa đói giảm nghèo. Trong lĩnh vực điện lực, chỉ sử dụng để hỗ trợ xây dựng đường dây truyền tải. Các nhà máy điện nên dùng vốn tín dụng, đầu tư tư nhân, vốn FDI,...
- Từ ngày 1 tháng 7 năm 2004, Luật Xây dựng có hiệu lực thi hành, tuy nhiên một số Nghị định hướng dẫn còn đang chờ Chính phủ thông qua. Vì vậy, phần liên quan đến cơ chế phân cấp, phê duyệt, quản lý đầu tư đề nghị Chính phủ cho phép thực hiện tiếp tục theo Nghị định 07/CP về quản lý đầu tư và xây dựng cho đến khi có Nghị định mới.
II. VỀ THU CHI NGÂN SÁCH, TIỀN TỆ, TÍN DỤNG VÀ GIÁ CẢ
1. Về thu, chi ngân sách
(1) Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nhìn chung, thu ngân sách Nhà nước 7 tháng đầu năm đạt thấp so với dự toán năm và thấp so với tiến độ thu cùng kỳ năm trước.
Thu ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng 7 ước đạt 5.273 tỷ đồng, xấp xỉ bằng mức thu 15 ngày đầu tháng 6. Tính chung từ đầu năm đến 15 tháng 7, tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 80,3 nghìn tỷ đồng, bằng 53,8% dự toán năm, thấp hơn tiến độ thu cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2003 đạt 55,4% dự toán năm); trong đó thu nội địa đạt 46,3 nghìn tỷ đồng, bằng 55,8% dự toán năm (cùng kỳ đạt 53,9%); thu từ dầu thô đạt gần 16,7 nghìn tỷ đồng, bằng 64,6% dự toán năm (cùng kỳ đạt 61,5%); thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt gần 16,3 nghìn tỷ đồng, bằng 42,3% dự toán năm (cùng kỳ đạt 53,9%).
Đáng chú ý là tiến độ thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục xu hướng giảm mạnh so với cùng kỳ do Chính phủ đã giảm nhiều loại thuế suất trước việc giá nhập khẩu tăng cao, nhất là tăng giá nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu và máy móc, thiết bị.
Mặc dù từ cuối tháng 6 đến nay, giá dầu thô thế giới đã có xu hướng giảm nhẹ so với các tháng trước nhưng do có độ trễ giữa thời điểm giao hàng và thời điểm thanh toán nên giá dầu thô thanh toán bình quân trong 15 ngày đầu tháng 7 vẫn đạt 294 USD/tấn, tăng 106,3 USD/tấn so với dự toán và tăng gần 14 USD/tấn so với giá cùng kỳ tháng 6. Nhờ đó, tiến độ thu từ dầu thô tiếp tục tăng nhanh so với cùng kỳ. Luỹ kế từ đầu năm đến 15/7, giá dầu thô thanh toán bình quân đạt xấp xỉ 260 USD/tấn, tăng 72,3 USD/tấn so với giá dự toán.
Trong tổng thu nội địa, thu từ khu vực kinh tế Nhà nước đạt 16.950 tỷ đồng, bằng 50,3% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 6.623 tỷ đồng, bằng 54,3% dự toán năm; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 6.852 tỷ đồng, bằng 57,4%; thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đạt 2.132 tỷ đồng, bằng 65,5%; thu về nhà đất đạt 5.307 tỷ đồng, bằng 86,8%.
(2) Chi Ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng 7 đạt 8.013 tỷ đồng, luỹ kế từ đầu năm đến 15 tháng 8 đạt hơn 92,8 nghìn tỷ đồng, bằng 49,5% dự toán năm (cùng kỳ năm trước đạt 50,3%); trong đó chi đầu tư phát triển đạt 22 nghìn tỷ đồng, bằng 41,1% dự toán năm (cùng kỳ đạt 48,9%), riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 20,5 nghìn tỷ đồng, bằng 41,5% dự toán năm (cùng kỳ đạt 49,2%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội đạt 52,4 nghìn tỷ đồng, bằng 56,7% dự toán năm (cùng kỳ đạt 53,9%); chi trả nợ và viện trợ đạt 16,6 nghìn tỷ đồng, bằng 56,6% dự toán năm (cùng kỳ đạt 47,2%).
Bội chi ngân sách Nhà nước đến 15/7 đạt xấp xỉ 12,5 nghìn tỷ đồng, bằng 32,6% dự toán năm.
2. Về giá cả
Giá tiêu dùng tháng 7 tiếp tục tăng lên nhưng tốc độ tăng đã chậm lại so với các tháng đầu năm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 tăng 0,5% so với tháng 6, trong đó chỉ có giá nhóm hàng phương tiện đi lại và bưu điện tăng 3,1%, còn giá tất cả các nhóm hàng khác đều ổn định hoặc chỉ tăng, giảm trong biên độ 1%. Đáng chú ý là giá lương thực giảm 0,3% và giá thực phẩm chỉ tăng 0,7%, làm cho giá nhóm hàng lương thực thực phẩm chỉ tăng 0,4%, thấp hơn mức tăng chung của mặt bằng giá tiêu dùng.
Tính chung trong 7 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng tăng 7,7% so với tháng 12/2003, trong đó giá lương thực thực phẩm tăng 13,7%, giá dược phẩm y tế tăng 7,7%, giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 4,8%, giá phương tiện đi lại và bưu điện tăng 4%, giá nhóm hàng văn hoá thể thao tăng 2,7%, giá các nhóm hàng đồ uống và thuốc lá, may mặc và giày dép, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng khoảng 2,1-2,5%. Riêng giá nhóm hàng giáo dục giảm 2,7%.
Trong 7 tháng đầu năm, giá vàng giảm 0,4%; giá đô la tăng 0,1%.
Trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm, giá cả nguyên, nhiên, vật liệu có nhiều biến động theo xu hướng tăng lên đã tác động không nhỏ tới sản xuất và đầu tư, trong đó nổi bật là ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu và giá thép. Hiện nay, giá xăng dầu đã có dấu hiệu ổn định ở mức cao nhưng giá thép vẫn biến động phức tạp. Từ đầu tháng 7, do thuế nhập khẩu thép được nâng lên đồng thời giá phôi thép trên thị trường thế giới cũng tăng lên, các doanh nghiệp sản xuất thép đều đồng loạt tăng giá bán các loại thép, nhất là tăng giá thép cuộn. Theo phân tích bước đầu, động thái tăng giá thép lần này cũng có đặc điểm như tăng giá trong các tháng đầu năm, đó là tăng giá đón đầu và có yếu tố đầu cơ (theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp sản xuất thép đều có lãi lớn, trong đó riêng lợi nhuận của Tổng công ty Thép là 153 tỷ đồng). Do vậy, cần phải có những giải pháp triệt để hơn nhằm quản lý có hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh sắt thép, vừa đảm bảo ổn định cung cầu và giá cả thị trường, vừa đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
III. VỀ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
1. Giáo dục, đào tạo
Trong tháng 7, ngành giáo dục đã tập trung tổ chức tốt công tác tuyển sinh năm học 2004-2005. Về tuyển sinh đại học và cao đẳng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức được 3 đợt thi theo đúng quy chế đề ra, bảo đảm đúng chính sách, công bằng và kỷ cương trong tuyển sinh, giảm bớt căng thẳng và tốn kém cho thí sinh và gia đình, không gây ách tắc giao thông đô thị,... nên được dư luận đánh giá cao. Đợt 1 (khối A) được tổ chức trong 2 ngày 4-5/7/2004 tại 98 cơ sở thuộc 76 trường đại học và học viện; đợt 2 (khối B) được tổ chức trong 2 ngày 9-10/7/2004 tại 70 cơ sở thuộc 62 trường đại học và học viện; đợt 3 (thi cao đẳng) được tổ chức từ ngày 16/7. Theo thống kê sơ bộ, số thí sinh dự thi 2 đợt đầu so với số hồ sơ đăng ký dự thi đạt khoảng 78%; số thí sinh bị xử lý là 3.186 người (trong đó 2.637 thí sinh bị đình chỉ thi), giảm 20,1% so với cùng kỳ năm trước.
Hiện nay ngành giáo dục đang khẩn trương chuẩn bị sách giáo khoa và trang thiết bị phục vụ triển khai đại trà chương trình và sách giáo khoa mới trong năm học 2004-2005. Đến nay đã hoàn thành các khâu chuẩn bị để triển khai đại trà chương trình và sách giáo khoa mới lớp 3 và lớp 8; đã in và nhập kho 127 triệu bản sách, trong đó có 45 triệu bản sách lớp 3 và lớp 8 mới; đã phát hành 103 triệu bản sách, trong đó có 42 triệu bản sách lớp 3 và lớp 8 mới; đã hoàn thành tài liệu bồi dưỡng giáo viên lớp 3, lớp 8; đào tạo hơn 5000 giáo viên cốt cán dạy sách lớp 3 mới với hơn 4.350 giáo viên cốt cán dạy sách lớp 8 mới.
2. Khoa học công nghệ
Trong tháng 7, ngành khoa học và công nghệ đã thực hiện nhiều biện pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch khoa học và công nghệ năm 2004, tập trung vào thực hiện các đề án được Chính phủ giao cho các Bộ, ngành. Đến nay, ngành đã hoàn thành 2 đề án và đã được Chính phủ ban hành (đề án về Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia và đề án về Quy chế Khu công nghệ cao); đã trình Chính phủ 15 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, trong đó 5 văn bản đã được ban hành như Quyết định số 53/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu công nghệ cao, Nghị định số 127/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Quyết định 122/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Bên cạnh đó, ngành cũng đã tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu và đổi mới công nghệ theo Nghị định 119/CP; đã lựa chọn, phê duyệt được 36 đề tài trong tổng số hơn 100 hồ sơ đăng ký của các doanh nghiệp; đã hoàn thành phê duyệt hỗ trợ kinh phí cho 21 đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ của doanh nghiệp với tổng kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước là 17.450 triệu đồng.
Tính chung trong 7 tháng đầu năm, ngành khoa học và công nghệ đã thẩm định công nghệ cho 54 dự án đầu tư (33 dự án đầu tư nước ngoài và 21 dự án đầu tư trong nước), trong đó có những dự án có quy mô và vốn đầu tư lớn như dự án Nhà máy đạm Phú Mỹ, dự án Tổ hợp bôxít nhôm Lâm Đồng,... Đã thẩm định và phê duyệt 18 hợp đồng chuyển giao công nghệ, cấp giấy đăng ký cho 24 hợp đồng khác. Đã ban hành 19 Tiêu chuẩn Việt Nam đồng thời rà soát, huỷ bỏ được 2 Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) không còn phù hợp. Đã thẩm định hồ sơ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mã số, mã vạch cho 330 doanh nghiệp; chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng cho 121 doanh nghiệp; cấp 4.102 văn bằng bảo hộ (gồm 382 sáng chế, 32 giải pháp hữu ích, 328 kiểu dáng công nghiệp, 3.360 nhãn hiệu hàng hoá); kiểm tra Nhà nước về chất lượng đối với 5.874 lô hàng xuất nhập khẩu.
Đề án ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng đang được thực hiện với tiến độ nhanh hơn, dự kiến đến hết tháng 7 sẽ giải ngân được khoảng 80% vốn đầu tư cả năm 2004. Ngành cũng đã xác định được danh mục các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Nhà nước năm 2005, đã ra thông báo tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì các nhiệm vụ này trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Đối với Khu Công nghệ cao Hoà Lạc, đã tổ chức nghiệm thu, bàn giao và đưa vào sử dụng tuyến đường C dài 2.661 m từ đường cao tốc Láng - Hoà Lạc đến khu nghiên cứu và phát triển, đã bàn giao mặt bằng thi công đợt 1 cho nhà thầu, đã xây dựng xong báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án giải phóng mặt bằng khu vực 600 ha, hiện đang khẩn trương hoàn thành Dự án dò và xử lý bom mìn, vật nổ tại khu vực này.
3. Giải quyết việc làm
Trong tháng 7, các địa phương trên cả nước đều tích cực triển khai nhiều giải pháp nhằm tạo thêm việc làm mới cho người lao động; nhờ đó đã giải quyết việc làm cho khoảng 15 vạn lao động; trong đó, đã đưa được trên 6 nghìn người đi làm việc ở nước ngoài (Đài Loan 4150 người, Malaixia 638 người, Hàn Quốc 115 người, Nhật Bản 146 người, Lào 900 người và các thị trường khác khoảng 100 người).
Tính chung trong 7 tháng, đã giải quyết việc làm cho khoảng 75 vạn người, trong đó Quỹ Hỗ trợ Việc làm tạo việc làm mới cho khoảng 12 vạn người, doanh nghiệp mới thành lập theo Luật Doanh nghiệp tạo việc làm mới cho khoảng 18 vạn người, các khu công nghiệp, khu chế xuất tạo được việc làm mới cho gần 3 vạn người, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút khoảng trên 3 vạn người và xuất khẩu lao động ra nước ngoài đạt trên 3,5 vạn người,... Các địa phương tạo được nhiều việc làm là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Vĩnh Long, Khánh Hòa, Bắc Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang,...
4. Xóa đói giảm nghèo và chăm sóc người có công
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ đã tổ chức đoàn kiểm tra tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu Xoá đói giảm nghèo tại 55 tỉnh. Kết quả kiểm tra cho thấy 100% số tỉnh kiểm tra đều có Nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân về Xoá đói giảm nghèo, đều tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch triển khai Chương trình Xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 ở cấp tỉnh, huyện; đều đã thành lập và củng cố Ban chỉ đạo cấp tỉnh, huyện, xã nên Chương trình thực hiện đúng tiến độ và đạt kế hoạch. Thông qua triển khai Chương trình Xoá đói giảm nghèo, đã có những chuyển biến rất tích cực trong nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về công tác xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, huy động các nguồn lực phát triển sản xuất, học nghề và đào tạo nghề. Các tỉnh đều chú ý ưu tiên thực hiện Chương trình tại những vùng khó khăn nhất, có tỷ lệ đói nghèo cao, đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhân dịp ngày thương binh, liệt sĩ (27/7), trong tháng 7 năm nay, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các địa phương đã tổ chức đi thăm hỏi, động viên và tặng quà các bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương binh liệt sĩ. Đã đảm bảo chi trả trợ cấp thường xuyên đối với người có công và thực hiện trợ cấp 1 lần đối với người có công chết từ năm 1995 về trước.
5. Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Trong tháng 7, tại 36 địa phương có 8.431 ca mắc sốt xuất huyết; lũy kế từ đầu năm đến 20/7 là 32.897 ca, trong đó 53 ca tử vong, tăng 120% về số mắc và tăng 69% về số tử vong so cùng kỳ năm 2003. Bộ Y tế đã tăng cường các biện pháp phòng chống dịch sốt xuất huyết, đồng thời đã phối hợp với nhiều địa phương tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn y tế cơ sở phương pháp cứu chữa người bệnh; biện pháp giám sát, phát hiện kịp thời, bao vây dập tắt dịch. Nhiều tỉnh đã thành lập các đoàn công tác đi dập dịch ở các huyện, thị xã, thôn, ấp, vùng trọng điểm và thành lập đường dây nóng tư vấn cho nhân dân cách phòng chống dịch, phát hiện và khống chế dịch kịp thời.
Trong tháng 7 đã phát hiện 1.279 người nhiễm HIV, trong đó 263 người mắc AIDS, tăng 526 người nhiễm và 83 người mắc so với tháng 6; số tử vong do AIDS trong tháng 7 là 169 người. Tính chung từ đầu năm đến 20/7 cả nước có xấp xỉ là 83 nghìn người nhiễm HIV, trong đó 13 nghìn mắc AIDS; số tử vong do AIDS khoảng 7,4 nghìn người.
Công tác thanh tra, kiểm tra tình hình khám chữa bệnh và cung ứng thuốc tại các bệnh viện tiếp tục được tăng cường trong tháng 7. Đã xử lý nghiêm khắc các trường hợp sai phạm quy chế khám chữa bệnh tại nhiều địa phương, như tại tỉnh Gia Lai, đã đình chỉ công tác 15 ngày đối với 4 điều dưỡng viên khoa ngoại, bệnh viện Đa khoa tỉnh vì có hành vi bớt xén thuốc của bệnh nhân. Tại Hải Phòng, đã tạm đình chỉ công tác 7 cán bộ do vi phạm quy chế bán thuốc.
6. Tình hình thiên tai và cứu trợ xã hội
Trong tháng 7, bão, lũ quét và lốc đã xảy ra tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Điện Biên, Đắc Lắc, Bình Thuận, Bến Tre, Tây Ninh, Đồng Tháp, Bạc Liêu và Cà Mau, gây ra nhiều thiệt hại về người và tài sản cho Nhà nước và nhân dân. Tổng trị giá thiệt hại do thiên tai đến ngày 20/7 ước gần 11 tỷ đồng; tính chung 7 tháng thiệt hại khoảng 316 tỷ đồng.
Riêng tại Hà Giang, trong những ngày 20-22/7 đã xảy ra lũ quét tại huyện Yên Minh gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến ngày 22/7, lũ quét đã làm 44 người chết và mất tích, 13 người bị thương, 20 căn nhà sập hoàn toàn, hàng trăm trâu bò và hàng nghìn gia cầm bị cuốn trôi. Mưa lớn tại các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong những ngày qua đã gây ngập úng 107 nghìn ha lúa mới cấy, trong đó 18 nghìn ha có khả năng mất trắng.
Theo thống kê sơ bộ, đến ngày 20/7, tại 12 địa phương (Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Gia Lai, Đắc Lắc và Cà Mau) có gần 3 vạn hộ với hơn 15 vạn nhân khẩu thiếu đói do thiên tai, chiếm 1,33% số hộ nông nghiệp; trong đó, có khoảng 5,5 nghìn hộ thiếu đói gay gắt và 891 hộ chính sách bị thiếu đói. Riêng tại tỉnh Hà Giang, khoảng 5,3% số hộ nông nghiệp bị thiếu đói. Điểm đặc biệt năm nay là số hộ thiếu đói tập trung chủ yếu tại vùng núi phía Bắc.
Tính từ đầu năm đến ngày 20/7, tổng số lương thực hỗ trợ thiếu đói là 3.678 tấn; tổng số tiền hỗ trợ khoảng 7,6 tỷ đồng.
7. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Trong tháng 6/2004, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1.490 vụ tai nạn giao thông, làm 1.041 người chết và 1.354 người bị thương. Như vậy so với tháng 5, đã giảm được 32 vụ tai nạn giao thông, giảm 49 người chết và giảm 55 người bị thương. Tính chung trong 6 tháng đầu năm, cả nước đã xảy ra 9.223 vụ tai nạn giao thông, làm 6.190 người chết và 8.629 người bị thương.
Đáng chú ý là số người chết do tai nạn giao thông tháng 6 năm nay tăng 14,3% so với tháng 6 năm trước do số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng có chiều hướng tăng lên. Nguyên nhân chủ yếu là do người điều khiển phương tiện giao thông thường đi quá tốc độ quy định, gây ra tai nạn (trên 55% số vụ tai nạn giao thông xảy ra trên các tuyến Quốc lộ).
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm về cơ bản đã tiếp tục phát triển theo hướng tích cực. Sản xuất công nghiệp tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng khá; nông nghiệp và các lĩnh vực dịch vụ duy trì được sản xuất ổn định; xuất khẩu tăng trưởng mạnh, nhập siêu giảm nhẹ so với cùng kỳ; huy động và thực hiện vốn đầu tư phát triển tăng khá, nhiều công trình trọng điểm đang được đẩy nhanh tiến độ; chính sách tiền tệ từng bước được điều chỉnh phù hợp; giá cả thị trường có xu hướng tăng chậm dần; các hoạt động xã hội tiếp tục phát triển ổn định.
IV. KIẾN NGHỊ BỔ SUNG VÀ CỤ THỂ HOÁ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN TẬP TRUNG CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN TRONG NHỮNG THÁNG CÒN LẠI CỦA NĂM 2004
Mặc dù tình hình phát triển kinh tế xã hội trong tháng 7 đã có một số cải thiện đáng kể so với những tháng đầu năm, nhưng khó khăn, tồn đọng còn khá lớn; đặc biệt, môi trường phát triển trong những tháng cuối năm có thể còn diễn biến phức tạp trong khi nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề.
Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đồng thời giữ được tỷ lệ lạm phát dưới 10% và tiếp tục duy trì ổn định chính trị - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục tổ chức các Hội nghị giao ban hàng tháng với các Bộ, ngành và một số tỉnh, thành phố bàn về các vấn đề và giải pháp cần tập trung chỉ đạo thực hiện trong những tháng cuối năm.
Trong Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2004 tại cuộc họp tháng trước của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo chi tiết tình hình và những giải pháp lớn cần tập trung chỉ đạo thực hiện trong những tháng cuối năm. Trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế - xã hội 7 tháng qua và kết quả Hội nghị giao ban sản xuất - đầu tư tháng 7, bên cạnh những nhiệm vụ và giải pháp đã được Chính phủ thông qua tại cuộc họp tháng trước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện trong những tháng cuối năm một số nhiệm vụ sau đây:
Một là, tăng cường các biện pháp phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, nhất là tại các địa phương thường xảy ra lũ lụt nghiêm trọng ở phía Bắc, Tây nguyên và đồng bằng sông Cửu Long; rà soát ngay các phương án bảo vệ đê điều và các công trình ven sông; củng cố đê điều ở những nơi xung yếu. Tăng cường công tác dự báo thời tiết và nghiên cứu ảnh hưởng của các hiện tượng tự nhiên tới hoạt động kinh tế xã hội để có biện pháp chủ động đối phó.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, tập trung vào những nhóm hàng, mặt hàng đang có thị trường tiêu thụ và có khả năng tăng thêm. Tiếp tục rà soát lại toàn bộ quy trình sản xuất kinh doanh và quản lý những mặt hàng chính của nền kinh tế để tìm ra các biện pháp giảm mạnh chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm; đồng thời tăng cường đổi mới công nghệ, tiết kiệm chi phí trung gian và lao động để hạn chế tác động của tăng giá đầu vào, duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và toàn nền kinh tế.
Chủ động chuẩn bị các giải pháp đối phó trong trường hợp bị nước ngoài kiện bán phá giá các mặt hàng xuất khẩu.
Ba là, tiếp tục thực hiện giải pháp huy động các nguồn vốn đã đề ra trong các phiên họp gần đây của Chính phủ, trong đó đặc biệt chú trọng tới cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài và khai thác nguồn vốn trong dân.
Thực hiện các giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn của khu vực kinh tế Nhà nước, nhất là nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt cho giao thông, thuỷ lợi. Tạm ứng một phần số trái phiếu Chính phủ đã huy động nhưng chưa sử dụng để thanh toán cho các công trình giao thông, thuỷ lợi thuộc Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đồng thời ứng trước kế hoạch năm 2005 để bổ sung vốn đối ứng cho các dự án ODA của một số Bộ, ngành.
Quỹ Hỗ trợ phát triển khẩn trương thẩm định phương án cho vay và trả nợ của các dự án để có nhiều dự án có thể ký hợp đồng vay vốn.
Tăng cường khâu kiểm tra, thanh tra các dự án đầu tư; thực hiện nghiêm túc công tác giám sát và đánh giá đầu tư ở tất cả các ngành, các cấp; kịp thời phát hiện và xử lý các vấn đề tồn tại, phát sinh. Đồng thời phối hợp tốt với Đoàn giám sát của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về công tác đầu tư và xây dựng cơ bản. Trong 5 tháng còn lại, đề nghị các ngành, địa phương hoàn chỉnh công tác lập và phê duyệt quy hoạch. Thực hiện giám sát đầu tư theo yêu cầu của Quốc hội.
Bốn là, thực hiện nghiêm túc các giải pháp đã đề ra nhằm ổn định giá. Tăng cường công tác quản lý thị trường và giá cả; kiểm soát chặt chẽ việc định giá đối với các sản phẩm độc quyền và các sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là với mặt hàng thép; ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng biến động giá trên thị trường thế giới hoặc thay đổi chính sách của Chính phủ để tăng giá một cách bất hợp lý.
Xem xét để giảm thuế nhập khẩu thép và phôi thép; đưa thuế suất áp dụng đối với 2 mặt hàng này gần nhau hơn, đảm bảo có chính sách bảo hộ hợp lý; chú ý bảo hộ cho sản xuất phôi.
Đẩy nhanh tiến độ thu ngân sách; phấn đấu thu ngân sách cả năm vượt ít nhất 5% so với dự toán đầu năm, nhờ đó sẽ tập trung được nguồn tài chính vào tay Nhà nước để tăng đầu tư phát triển dài hạn, đồng thời kiềm chế được tốc độ tăng tiêu dùng xã hội, từ đó giảm được áp lực tăng giá tiêu dùng. Kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu ngân sách Nhà nước; thực hiện các biện pháp chốn bao cấp, bù lỗ, nhất là đối với khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Năm là, đẩy nhanh việc chuẩn bị cơ sở vật chất và khâu tổ chức cho Hội nghị ASEM 5 tổ chức tại Hà Nội vào tháng 10 năm 2004.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư