BÁO CÁO ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THÁNG 8 VÀ 8 THÁNG ĐẦU NĂM 2008
I. Tình hình ĐTNN 8 tháng đầu năm 2008:
1. Tình hình vốn thực hiện và sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong 8 tháng đầu năm 2008, ước các doanh nghiệp ĐTNN đã góp vốn đầu tư thực hiện ước đạt 8 tỷ USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, bên Việt Nam chiếm từ 10-12%.
Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong 8 tháng đầu năm 2008 ước đạt 30,4 tỷ USD, tăng 33,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 15,8 tỷ USD, tăng 28,0% so với cùng kỳ; nhập khẩu ước đạt 19,2 tỷ USD, tăng 41,3% so với cùng kỳ năm trước, nộp ngân sách ước đạt 1,4 tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ.
Trong 8 tháng đầu năm 2008, khối doanh nghiệp ĐTNN thu hút thêm khoảng 18.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn ĐTNN tính đến thời điểm này là 1,4 triệu lao động, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước.
2. Cấp mới: Trong tháng 8/2008, cả nước có 118 dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.827 triệu USD, đưa tổng số dự án cấp mới trong 8 tháng đầu năm 2008 lên 772 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 46,3 tỷ USD, bằng 79,2% về số dự án và tăng gấp 5 lần về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
2.1. Về lĩnh vực đầu tư: Trong 8 tháng đầu năm 2008, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ có 23,6 tỷ USD, chiếm 50,9% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng là 22,5 tỷ USD, chiếm 48,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư 0,5%.
2.2. Về đối tác đầu tư: Trong 8 tháng đầu năm 2008 Đài Loan tiếp tục đứng đầu trong số 38 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam có 112 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỷ USD, chiếm 18,6% tổng vốn đăng ký. Theo thứ tự là: (2) Nhật Bản (78 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỷ USD), chiếm 16,2% (trong đó bao gồm phần vốn góp của nhà đầu tư Nhật Bản là 2,4 tỷ USD trong dự án nhà máy lọc dầu Nghi Sơn chiếm 39,8% của tổng vốn đầu tư 6,2 tỷ USD); (3) Malaysia chiếm 11,3% (29 dự án, vốn đầu tư 5,07 tỷ USD), (4) Brunei chiếm 9,8% (14 dự án, vốn đầu tư 4,3 tỷ USD), (5) Canada chiếm 9,5% (4 dự án, vốn đầu tư 4,2 tỷ USD); (6) Singapore chiếm 9%; (56 dự án, vốn đầu tư 4,02 tỷ USD), (7) Thái Lan chiếm 8,9% (20 dự án, vốn đầu tư 3,9 tỷ USD), (8) B.V.Islands chiếm 9,8% (9) Hoa Kỳ chiếm 3,06% tổng vốn đầu tư đăng ký.
2.3. Về hình thức đầu tư: Các dự án ĐTNN trong 8 tháng đầu năm 2008 thực hiện chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài (585 dự án, vốn đăng ký 29,7 tỷ USD), chiếm 64,2% về vốn đăng ký. Số dự án theo hình thức liên doanh chiếm 32,8% về vốn đăng ký. Còn lại là các dự án theo hình thức khác.
2.4. Về cơ cấu vùng: trừ 2 dự án thăm dò, khai thác dầu khí (chiếm 21,9% tổng vốn đăng ký), trong 8 tháng đầu năm 2008 tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đứng đầu trong số 43 địa phương của cả nước, có 4 dự án, tổng vốn đăng ký 9,3 tỷ USD, chiếm 20,1% tổng vốn đăng ký. Tiếp theo thứ tự sau: (2) Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 17,1% tổng vốn đăng ký, (3) Hà Tĩnh chiếm 17%. (4) Thanh Hóa chiếm 13,3%; (5) Phú Yên chiếm 9,3%; (6) Kiên Giang chiếm 4,9%; (7) Đồng Nai chiếm 3,8%.
2.5. Quy mô dự án: đạt 60 triệu USD/dự án.
3. Tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất: Trong 8 tháng đầu năm 2008 có 210 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 833,6 triệu USD, bằng 81,7% về số lượt dự án tăng vốn và 55,5% tổng vốn tăng thêm so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư tăng thêm chủ yếu từ các nhà đầu tư Hàn Quốc đứng đầu, chiếm 23,6% tổng vốn đầu tư tăng thêm, như dự án Nhà máy đóng tàu biển Hyundai-Vinashin tăng trên 82,7 triệu USD.
Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong 8 tháng đầu năm 2008, cả nước đã thu hút được 47,15 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng gấp 4,5 lần so với cùng kỳ năm 2007.
II. Nhận xét-Kiến nghị:
2.1. Đánh giá về môi trường đầu tư nước ta hiện nay :
a) Mặt được:
- Môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục được cải thiện và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao bởi việc hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực. Điều này thể hiện qua kết quả thu hút vốn FDI 8 tháng đầu năm 2008 cao (47,15 tỷ USD), tăng gấp nhiều lần so với năm 2007, mặc dù môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức như lạm phát tăng cao, giá cả biến động dẫn tới chi phí tăng đột biến ảnh hưởng lớn tới hoạt động ĐTNN. Đến thời điểm này chúng ta có thể khẳng định rằng, Việt Nam vẫn là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2008, mặc dù kinh tế thế giới và Việt Nam đang đứng trước những biến động phức tạp. Tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ tổ chức tại Hà Nội vào ngày 2/6/2008, đại diện các nhà đầu tư Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản đều phát biểu cho rằng dù nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn nhưng Việt Nam sẽ vượt qua khó khăn và vẫn là nơi có sức hút lớn đối với các nhà đầu tư trong thời gian tới.
- Các địa phương trong cả nước tích cực, chủ động trong thu hút và quản lý FDI bằng nhiều biện pháp theo hướng giảm thiểu thủ tục hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhiều dự án quy mô lớn khai trương, động thổ triển khai ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư như dự án sản xuất gang thép Hưng nghiệp Formosa đầu tư 7,879 tỷ USD cấp phép và khởi công xây dựng trong tháng 7/2008, dự án xây dựng khu đô thị đại học Berjaya Leisure (Malaysia) do Công ty Berjaya Leisure đầu tư 3,5 tỷ USD tại TP. HCM...
Nguyên nhân của thành tựu :
- Chính phủ tiếp tục nỗ lực để tạo môi trường đầu tư-kinh doanh hấp dẫn hơn, cởi mở và minh bạch, thông thoáng hơn. Các Bộ, ngành và địa phương đang thực hiện các giải pháp chỉ đạo hữu hiệu của Thủ tướng Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp, như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai các đoàn công tác đến các địa phương thực hiện việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát cũng như các đoàn triển khai đề án thúc đẩy giải ngân vốn FDI. Công tác “hậu kiểm” được quan tâm thông qua việc kiểm tra việc đầu tư, quy hoạch sân golf, rà soát tình hình giải ngân, so sánh với tiến độ cam kết, đề xuất giải pháp thúc đẩy và đề nghị hỗ trợ từ Trung ương. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành liên quan cũng ban hành các văn bản hướng dẫn theo chức năng quản lý nhà nước (văn bản số 09/2008/TT-BXD của Bộ Xây dựng về điều chỉnh giá nguyên vật liệu và hợp đồng từ hình thức trọn gói sang hình thức hợp đồng theo đơn giá; cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản mới, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng và phát hiện những nội dung cơ chế, chính sách chưa phù hợp để bổ sung, chỉnh sửa kịp thời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 1436/QĐ-NHNN ngày 26/6/2008...)
- Đây là kết quả tổng hòa của mọi nỗ lực của các Bộ, ngành và địa phương trong hoạt động xúc tiến đầu tư, hỗ trợ các nhà đầu tư từ khi có ý đồ đầu tư đến khi hình thành dự án.
b) Mặt chưa được:
- Nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với các khó khăn trong thời gian gần đây như lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, thâm hụt ngân sách gia tăng và nguy cơ về mất ổn định tiền tệ… Trong 6 tháng đầu năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2008 tăng 20,34% theo số liệu của Tổng cục Thống kê (cùng kỳ năm trước tăng 7%). Tuy nhập siêu đã giảm trong vài tháng trở lại đây, nhưng nhập siêu hàng hóa 6 tháng đầu năm nay ước đạt 14,8 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất khẩu, tăng 184,6% so với cùng kỳ.
- Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) ngày 18/6/2008, lần đầu tiên công bố Bảng xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ có môi trường thuận lợi với thương mại quốc tế năm 2008, Hồng Kông và Singapore giành vị trí thứ nhất và nhì trong 118 nền kinh tế do có "môi trường thân thiện" với thương mại quốc tế. Báo cáo này được thực hiện trên cơ sở khảo sát đánh giá về các yếu tố có tác động tích cực đến với môi trường thương mại quốc tế như tiếp cận thị trường, quản lý cửa khẩu, cơ sở hạ tầng viễn thông, giao thông vận tải và môi trường kinh doanh, chính sách thuế quan và nhiều yếu tố phụ khác ở 118 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam ở hạng 91 do chỉ số "tiếp cận thị trường" chỉ đạt 112/118, còn chỉ số về hàng rào thuế quan đứng ở vị trí 114/118 (thấp nhất trong các nước ASEAN) tuy có một số chỉ số xếp hạng khả quan như hiệu quả trong dịch vụ bưu điện hạng 33, khả năng tiếp thu công nghệ (43), an ninh vật chất (45), chỉ số về an ninh (46), dịch vụ vận tải (48).
- Theo báo cáo điều tra doanh nghiệp thường niên mới đây của Tổ chức JETRO thì chi phí thuê văn phòng ở Hà Nội hiện đang đứng thứ 5 trong khu vực châu Á, sau 2 thành phố Mumbai và New Delhi của Ấn Độ, Hồng Kông và Singapore; chi phí vận chuyển đường biển đến và đi từ Đà Nẵng cao nhất khu vực, gấp rưỡi chi phí bình quân ở các nước châu Á; chi phí thuê nhà ở của người nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh hiện cũng đang ở mức rất cao so với khu vực, xấp xỉ tiền thuê nhà tại Singapore và gấp đôi tại Seoul. Chi phí đầu tư cao là thách thức lớn cho thu hút và giải ngân vốn FDI thời gian tới.
- Trong bối cảnh phân cấp toàn diện và triệt để công tác quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài về các địa phương, việc cung cấp thông tin đầu tư trực tiếp nước ngoài kịp thời của các địa phương lên Trung ương là một yêu cầu cấp bách, để Chính phủ có đủ thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành, phân tích và dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay, các thông tin này vừa thiếu, vừa không kịp thời khiến cho công tác chỉ đạo, điều hành cũng bị động, thiếu chuẩn xác. Do vậy, công tác dự báo về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với cơ quan quản lý nhà nước cực kỳ nan giải và khó khăn. Tại Quyết định 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, Tổng cục Thống kê là cơ quan chủ trì, đầu mối trong việc thu thập số liệu vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài với tần suất thu thập là 6 tháng và năm. Đây là nguồn số liệu bổ sung quan trọng và là kênh rà soát, đối chiếu số liệu hiệu quả với các thông tin quản lý Cục Đầu tư nước ngoài hiện đang thu thập. Tuy nhiên, với chức năng là cơ quan đầu mối quản lý và đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cả nước, Cục Đầu tư nước ngoài phải tổng hợp, phân tích và dự báo các chỉ tiêu cơ bản của khu vực có vốn ĐTNN như vốn thực hiện, nộp ngân sách, lao động, xuất nhập khẩu… hàng tháng phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hiện đang là khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan quản lý đầu tư các cấp, kể cả Cục Đầu tư nước ngoài, trong công tác nắm tình hình hoạt động, đảm bảo thông tin phục vụ công tác quản lý và điều hành, thúc đẩy giải ngân vốn FDI.
Nguyên nhân của các bất cập :
- Nền kinh tế nước ta đã "lưu thông" với kinh tế khu vực và thế giới, do đó, các biến động của giá dầu thô, giá cả nguyên vật liệu... đều có tác động trực tiếp tới kinh tế của ta.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực không theo kịp tốc độ phát triển, đòi hỏi các Bộ, ngành và địa phương phải có giải pháp thích hợp, nhất là trong bối cảnh nước ta đang phải đảm bảo thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước với tốc độ phát triển cao, bền vững và trước mắt đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giám sát đầu tư, cắt giảm các dự án đầu tư công chưa cần thiết...
- Cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu.
3. Để hỗ trợ các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) nhanh chóng đưa vốn thực hiện triển khai dự án, trong những tháng còn lại của năm 2008 cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:
1. Về môi trường pháp lý:
- Tiếp tục hướng dẫn các cam kết về mở cửa thị trường cho các nhà ĐTNN trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ theo đúng các cam kết của WTO. Công khai các văn bản pháp quy của các Bộ, ngành có liên quan về điều kiện đầu tư hoặc hành nghề của các doanh nghiệp nói chung để giúp các doanh nghiệp thực hiện đúng với các cam kết của Nhà nước ta.
- Ban hành văn bản hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng (tại Nghị định 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Nghị định 78 về BOT, BT).
- Điều chỉnh quy hoạch ngành cho phù hợp với các thỏa thuận và cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Đặc biệt chú trọng công tác dự báo nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch (quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, địa bàn...). Xoá bỏ quy định về việc yêu cầu các dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch sản phẩm.
2. Về thủ tục hành chính :
- Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế "liên thông-một cửa" ở các cơ quan cấp GCNĐT và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản lý ĐTNN trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối, thời gian giải quyết hồ sơ đối với nhà đầu tư, đầu mục hồ sơ cấp GCNĐT... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
- Thực hiện từng bước minh bạch hoá chính sách, thủ tục đầu tư; công khai hoá các bước của quá trình cấp GCNĐT lên mạng.
3. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN:
- Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tổng kết việc các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh thực hiện Chỉ thị số 15/2007/CT-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam theo nhiệm vụ được giao tại Văn bản số 3237/CP-QHQT ngày 20/5/2008 của Văn phòng Chính phủ.
- Rà soát/kiểm tra/điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
- Tập trung vào việc thực hiện các hoạt động giải ngân vốn ĐTNN đã được quy định tại Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhằm giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện: Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng công tác thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong năm 2006 và năm 2007 (tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng...). Hỗ trợ/giám sát các dự án đã/đang cấp GCNĐT triển khai đúng tiến độ đề ra.
- Ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài thay thế Thông tư số 01/LB ngày 31/3/1997 để làm căn cứ cho các cơ quan quản lý ĐTNN địa phương và doanh nghiệp thực hiện. Triển khai thực hiện Quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia của các doanh nghiệp ĐTNN.
- Phối hợp triển khai tốt việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin ĐTNN theo Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
4. Về xúc tiến đầu tư:
- Nghiêm túc triển khai đúng nội dung, tiến độ Chương trình XTĐT quốc gia 2008 ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó, Bộ Tài chính cần xác định và thông báo sớm cho các cơ quan chủ trì phần kinh phí chính thức dành cho Chương trình này.
- Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN.
- Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư- thương mại- du lịch.
- Khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch.
- Tiếp tục bảo trì, nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về ĐTNN (ngoài tiếng Anh bổ sung thêm tiếng Hàn và tiếng Nhật).
5. Một số vấn đề khác:
- Tiếp tục xây dựng và thực hiện chương trình Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản giai đoạn III hiệu quả; cũng như Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế- EDB (Singapore) phù hợp với tình hình mới.
- Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm M&D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam nửa năm/thường niên cũng như các hoạt động liên quan khác.
- Tiếp tục kiến nghị việc bổ sung vốn đối ứng của bên Việt Nam trong dự án JICA về "Tăng cường năng lực điều hành hoạt động XTĐT của Cục ĐTNN” để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án này.
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư