BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
_________________________
Số: 4652/BC-BKH
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
______________________________________
Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 2008
|
BÁO CÁO
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 6 VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2008,
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM.
|
Báo cáo tại phiên họp Chính phủ
ngày 1-2 tháng 7 năm 2008
|
Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 4051/VPCP-TH ngày 19/6/2008 về việc chuẩn bị báo cáo phiên họp Chính phủ tháng 6 năm 2008 và kết quả giao ban sản xuất, đầu tư tháng 6, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin báo cáo tình hình kinh tế -xã hội 6 tháng đầu năm 2008 và một số nhiệm vụ cần tập trung chỉ đạo thực hiện trong 6 tháng cuối năm.
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG THÁNG 6 VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2008.
A. Đánh giá tổng quát
1. Bối cảnh kinh tế
Từ đầu năm 2008, giá dầu thô và nhiều loại vật tư, lương thực trên thị trường thế giới tăng đột biến, giá dầu thô đã tăng trên 140 USD/thùng; giá lương thực tăng trên 1.000 USD/tấn. Kinh tế tăng trưởng chậm lại trên phạm vi toàn cầu, trước hết là do những khó khăn trong thị trường nhà đất của Mỹ và sự mất giá của đồng đô la làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ giảm sút. Tốc độ tăng GDP của Mỹ quý I năm 2008 là 0,6% và dự báo cả năm chỉ đạt 0,5%, là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2003 đến nay. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế Mỹ chưa có chiều hướng phục hồi. Nếu có cũng phải đến năm 2009.
Từ sự suy thoái của kinh tế Mỹ, suy thoái kinh tế và lạm phát đã lan rộng ra các nền kinh tế lớn khác trong năm 2008 như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ... và ảnh hưởng toàn cầu[1]. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Quí I năm 2008 của các nước đều giảm. Chỉ số lạm phát ở Trung Quốc tháng 5 năm 2008 tăng 7,7% so với cùng kỳ; Hàn Quốc tăng 7,5%; Thái Lan tăng 7,6%; Philippines tăng 9,6%, Indonesia tăng 10,38%... Dự báo chỉ số CPI của các nước năm 2008 sẽ tăng cao hơn nhiều các năm trước. Trong khu vực đồng tiền chung Châu âu dự báo lạm phát cả năm 2008 là 3,8%, mức cao nhất kể từ khi khối EU được thành lập; các nước trong khu vực ASEAN sẽ bị tác động nhiều của sự suy thoái kinh tế thế giới, dự báo bình quân cả năm 2008 tăng khoảng 6,1%, khu vực Trung Đông tăng khoảng 12,2%, trong đó Iran là 20,7%, Ai Cập: 8,8%, Gióc-Đan-Ni: 10,9%, Venezuela: 25,7%.
Trong nước: Từ năm 2007 một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế đã có những biểu hiện xấu và tiếp tục tác động sang năm 2008 như: chỉ số giá trong năm 2007 tăng tới 12,6%, là mức tăng cao nhất trong 11 năm qua; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng tới 39% và nhập siêu lên tới 29% tổng kim ngạch xuất khẩu; cân đối tiền tệ, các chỉ số về tổng phương tiện thanh toán, tổng mức huy động vốn và tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế đều tăng rất cao, cao hơn nhiều so với các năm trước; thiên tai, lũ lụt diễn ra liên tiếp từ cuối năm 2007 ở các tỉnh miền Trung, đến đầu năm 2008 là các đợt rét đậm, rét hại kéo dài các tỉnh miền Bắc; dịch bệnh về cây trồng và gia súc gây thiệt hại lớn đối với sản xuất và đời sống nhân dân; nhất là đối với nông nghiệp và đời sống nông dân vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc và các vùng khó khăn khác.
Các dự báo khi xây dựng kế hoạch năm 2008 biến động khá lớn so với tình hình thực tế: Giá dầu thô dự báo năm 2008 là 64 USD/thùng, nay đã tăng lên trên 140 USD/thùng và có khả năng còn tiếp tục tăng cao hơn; lương thực dự kiến khoảng 320 USD/tấn tăng, nay đã lên trên 1.000USD/tấn; tỷ giá giữa đồng Việt nam với USD dự kiến khoảng 16.000 đồng/USD, trên thị trường tự do đã có thời điểm lên đến mức 19.500 đồng/USD, hiện đang dao động trên dưới 18.000 đồng/USD; lãi suất tiết kiệm tiền động huy động khoảng 8%/năm, đã tăng lên trên 18%/năm; mức lãi suất cho vay tăng tới 21%, trong thực tế một số ngân hàng thương mại cho vay còn tăng cao hơn (mức dự kiến kế hoạch cho vay ra đầu năm là 10-12%).
2. Một số kết quả đạt được
Trước bối cảnh trong nước và ngoài nước có nhiều khó khăn nêu trên, Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương thực hiện tốt các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 9/1/2008 về các giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước; đồng thời, trước các khó khăn mới phát sinh, trong tháng 4 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững và Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2008 về điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách nhà nước năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát. Chính phủ đã có báo cáo Bộ Chính trị về tình hình kinh tế quý I năm 2008 và Bộ Chính trị đã có kết luận số 22 ngày 4 tháng 4 năm 2008. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã quyết liệt điều hành, coi nhiệm vụ chống lạm phát là nhiệm vụ hàng đầu và sự đồng thuận của các tổ chức chính trị, của quần chúng nhân dân, của cộng đồng doanh nghiệp..., đến nay đã đạt được các kết quả bước đầu, cụ thể là:
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trong 6 tháng đầu năm 2008 đạt được như sau:
Các chỉ tiêu chủ yếu
|
6 tháng
2007
|
6 tháng
2008
|
(1) Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
|
7,91
|
6,50
|
Trong đó: Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp (%)
|
2,90
|
3,04
|
Khu vực công nghiệp và xây dựng (%)
|
9,88
|
7,00
|
Khu vực dịch vụ (%)
|
8,40
|
7,60
|
(2) Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (%)
|
16,9
|
16,5
|
(3) Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp (%)
|
3,5
|
4,5
|
(4) Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)
|
22,4
|
29,7
|
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (%)
|
19,4
|
31,8
|
(5) Kim ngạch nhập khẩu (tỷ USD)
Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu (%)
|
27,2
30,4
|
44,5
60,3
|
(6) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội (nghìn tỷ đồng)
|
195,0
|
265,4
|
(7) Đầu tư xã hội so với GDP (%)
|
39,5
|
42,0
|
(8) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện (triệu USD)
|
3.560
|
4.900
|
(9) Vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép mới và tăng thêm (tr.USD)
|
5.218
|
31.600
|
(10) Thu Ngân sách Nhà nước (nghìn tỷ đồng)
|
130
|
195,8
|
So với dự toán (%)
|
46,1
|
60,6
|
Tăng so cùng kỳ (%)
|
13,7
|
40,8
|
(11) Chi Ngân sách nhà nước (nghìn tỷ đồng)
|
163,7
|
206,8
|
(12) Chỉ số giá tiêu dùng và dịch vụ (%)
|
5,2
|
18,44
|
(13) Tạo việc làm mới (vạn người)
|
78
|
78
|
Qua các chỉ tiêu cụ thể nêu trên, cho thấy rằng nhiệm vụ chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội, bước đầu đã thu được kết quả. Một số điểm đáng chú ý là:
Một là, sản xuất nông nghiệp vượt qua nhiều khó khăn, đạt được kết quả tốt, nhất là được mùa lúa vụ Đông xuân, có ý nghĩa cả về kinh tế, xã hội và ổn định giá lương thực. Mặc dù 6 tháng đầu năm sản xuất nông nghiệp có nhiều khó khăn, như rét đậm, rét hại kéo dài ở các tỉnh miền Bắc, diện tích gieo trồng thấp hơn cùng kỳ, nhưng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp 6 tháng đầu năm tăng 4,5% so với cùng kỳ (cùng kỳ 3,5%), trong đó: quí I tăng 4,1%, quí II tăng 4,8%. Riêng giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp tăng cao hơn cùng kỳ năm 2007 và đạt 2,39% (cùng kỳ tăng 1,89%). Giá trị gia tăng nông nghiệp tăng cao là do sản lượng thu hoạch lại tăng cao, vụ lúa Đông xuân năm nay được mùa lớn. Sản lượng lúa đạt trên 18 triệu tấn, tăng 1 triệu tấn (tăng 5,9%) so với vụ Đông xuân trước, trong đó: các tỉnh phía Nam tăng 664,3 nghìn tấn, các tỉnh phía Bắc tăng 339,3 nghìn tấn. Năng suất lúa đông xuân cả nước ước đạt 59,9 tạ/ha, tăng 2,9 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2007.
Hai là, kim ngạch xuất khẩu đạt cao, bước đầu thu hẹp nhập siêu. Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 6 ước khoảng 5,5 tỷ USD, vượt qua kỷ lục 5,15 tỷ USD của tháng 5 trước đó. Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 29.695 triệu USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 11.320 triệu USD, tăng 27,4% so với cùng kỳ; nếu kể cả dầu thô đạt 16.920 triệu USD, tăng 33,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu bình quân của 6 tháng đầu năm đạt gần 4.950 triệu USD/tháng (cùng kỳ năm trước là 3.742 triệu USD/tháng)[1].
Đến hết tháng 6 năm 2008, đã có 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD (tăng 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước là điện tử, máy tính và gạo), trong đó có 2 mặt hàng đạt kim ngạch trên 4 tỷ USD là dầu thô (5,6 tỷ USD), hàng dệt may (4 tỷ USD); giầy dép đạt kim ngạch gần 2,3 tỷ USD; thủy sản đạt kim ngạch 1,9 tỷ USD, gạo: 1,5 tỷ USD, sản phẩm gỗ: 1,4 tỷ USD, điện tử máy tính: 1,2 tỷ USD, cà phê: 1,2 tỷ USD. Một số mặt hàng xuất khẩu mới có nhiều tiềm năng liên tục đạt mức tăng trưởng cao như: sản phẩm nhựa tăng 38,2%, sản phẩm đá quý và kim loại tăng 48,1%; hạt điều tăng 43,2%; hạt tiêu tăng 30,3%; vali, túi xách, ô dù tăng 35,1%,....
Kim ngạch nhập siêu có xu hướng giảm, quí I năm 2008 nhập siêu bằng 62,7% kim ngạch xuất khẩu, quí II bằng 39,2% kim ngạch xuất khẩu, riêng tháng 6 bằng 23,6% kim ngạch xuất khẩu.
Ba là, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng cao cả số vốn thực hiện và vốn đăng ký cấp mới; thể hiện môi trường đầu tư tiếp tục hấp dẫn, các nhà đầu tư vẫn tin tưởng vào tương lai trung và dài hạn của Việt Nam. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 6 tháng ước đạt 4,9 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 20,5%).
Tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm trong 6 tháng đạt 31,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Trong đó vốn cấp mới đạt 30,94 tỷ USD, cao hơn 1,5 lần mức thu hút của cả năm 2007 và tăng gần 4 lần so với cùng kỳ năm trước. Lượng vốn đăng ký cấp mới trong 6 tháng đầu năm tăng cao do có nhiều dự án quy mô lớn được cấp phép[1]. Vốn các dự án đang hoạt động đăng ký tăng thêm đạt 661,2 triệu USD.
Vốn FDI 6 tháng đầu năm đăng ký mới chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 17,15 tỷ USD, tương đương 55,4% tổng số vốn cấp mới ; lĩnh vực này có số vốn đăng ký mới tăng cao do các dự án có số vốn lớn nhất đều thuộc ngành công nghiệp và xây dựng; ngành dịch vụ với 13,6 tỷ USD, chiếm 44%; số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp (0,5%).
Bốn là, thu ngân sách nhà nước 6 tháng tăng cao bảo đảm nhu cầu chi, nhất là bảo đảm cấp đủ kinh phí thực hiện các chính sách an sinh, xã hội. Thu NSNN 6 tháng đạt 195.850 tỷ đồng, bằng 60,6% dự toán, tăng 40,8% so với cùng kỳ năm 2007 và bằng 31,3% GDP; trong đó: thu nội địa (không kể dầu thô) ước đạt 107.300 tỷ đồng, bằng 56,7% dự toán (cùng kỳ năm 2005 đạt 53,8%, năm 2006 đạt 48,8%, năm 2007 đạt 46,1%), tăng 37,3% so với cùng kỳ năm 2007[1]; thu từ dầu thô đạt 42.210 tỷ đồng, bằng 64,3% dự toán, tăng 40,8% so với cùng kỳ. Giá dầu thanh toán tháng 6 bình quân đạt 125 USD/thùng, bình quân 6 tháng đầu năm đạt 105 USD/thùng, tăng 41 USD/thùng so với dự toán; sản lượng dầu thanh toán ước đạt 6,89 triệu tấn, bằng 44,5% dự kiến năm; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 43.740 tỷ đồng, bằng 67,8% dự toán năm, tăng 53,7% so với cùng kỳ.
Năm là, chỉ số lạm phát đã có xu hướng giảm, chỉ số giá tháng 6 chỉ tăng 2,14%, là mức thấp nhất nhất trong 6 tháng qua. Giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 6 chỉ tăng 3,29%, trong đó lương thực tăng 4,29%, thực phẩm tăng 3,05% thấp hơn rất nhiều mức trung bình của 5 tháng trước đó (mức trung bình của giá lương thực là 10,5%, thực phẩm là 3,6%)
Sáu là, lĩnh vực văn hoá, thông tin tiếp tục phát triển đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân.
Bảy là, giáo dục, đào tạo có chuyển biến tích cực, đã tổ chức tốt kỳ thi tốt nghiệp các cấp năm học 2007-2008 và đang tập trung chuẩn bị cho kỳ tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2008. Ở kỳ thi lần một, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt gần 76%, tăng 9,2% so với năm 2007; tỷ lệ bổ túc trung học phổ thông đạt hơn 42%, tăng 16%.
Tám là, chính trị, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.
3. Những khó khăn, hạn chế.
Bên cạnh một số kết quả tích cực của nền kinh tế như đã trình bày trên đây, trong 6 tháng đầu năm tình hình kinh tế-xã hội vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể như sau:
(1) Tăng trưởng kinh tế tăng chậm lại, tốc độ tăng trưởng GDP quý I đạt 7,38%, quý II chỉ đạt 5,85% và cả 6 tháng đầu năm mới đạt 6,5%, trong đó: công nghiệp và xây dựng đạt 7%; dịch vụ đạt 7,6%. Tốc độ tăng trưởng đã giảm và thấp hơn nhiều so với cùng kỳ nhiều năm gần đây[1] và chưa đạt mục tiêu của kế hoạch Quốc hội đã điều chỉnh xuống là 7%.
Giá cả đầu vào của các ngành sản xuất kinh doanh tăng cao gây ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trừ sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá, các lĩnh vực còn lại đều thấp hơn cùng kỳ, tốc độ tăng trưởng của ngành lâm nghiệp chỉ tăng 0,8%. Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2008 tăng 16,5%, gần bằng tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2007 (là 16,9%), nhưng tốc độ tăng giá trị gia tăng chỉ đạt 8,3% trong khi cùng kỳ năm 2007 tăng 9,96%. Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp giảm nhiều một phần do giá đầu vào tăng cao, ngoài ra do ngành xây dựng giảm mạnh (ngành xây dựng chiếm 7% GDP, nhưng 6 tháng đầu năm chỉ tăng 0,9% so với cùng kỳ, cùng kỳ đạt 9,5%).
Giá trị gia tăng của toàn ngành dịch vụ chỉ tăng 7,6% (cùng kỳ năm 2007 là 8,4%), trong đó 12/13 ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng thấp hơn cùng kỳ năm 2007 (chỉ trừ ngành vận tải, du lịch, bưu điện có tốc độ tăng cao hơn); đặc biệt kinh doanh bất động sản chỉ tăng 1,81%, trong khi tốc độ tăng của ngành này cùng kỳ năm trước là 4,65%.
(2) Thị trường tiền tệ còn diễn biến phức tạp, thị trường chứng khoán chưa ổn định; giá cả tiếp tục tăng ở mức cao. Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ đang tác động đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế; thặng dư cán cân thanh toán giảm dần. Thị trường chứng khoán chứa đựng đựng nhiều rủi ro và không ổn định. Huy động vốn thông qua trái phiếu kho bạc và trái phiếu Chính phủ đang gặp khó khăn. Chỉ số giá tháng 6 so với tháng 5/2008 tăng 2,14%; so với tháng 12 năm 2007 tăng 18,44%, trong đó: đáng chú ý là giá mặt hàng lương thực tăng 59,44%; thực phẩm tăng 21,83%; chỉ số giá bình quân 6 tháng đầu năm so với 6 tháng đầu năm 2007 tăng tới 20,34%, gây nhiều khó khăn cho sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân[1]. Chỉ số giá vàng và tỷ giá đô la có nhiều biến động, chỉ số giá vàng 6 tháng đầu năm tăng 16,27% so với tháng 12 năm 2007; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,02%.
(3) Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu vẫn ở mức cao. Mặc dù tỷ lệ nhập siêu có xu hướng giảm, nhưng tỷ lệ nhập siêu 6 tháng đầu năm vẫn ở mức cao hơn nhiều so với năm 2007. 6 tháng nhập siêu gần 14,8 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất khẩu (năm 2007 nhập siêu là 14,12 tỷ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu)[1]. Nhập siêu tập trung chủ yếu ở các thị trường như: Trung Quốc (5,8 tỷ USD); Singapore (3,4 tỷ USD); Đài Loan (3,1 tỷ USD); Hàn Quốc (2,3 tỷ USD); Thái Lan (1,3 tỷ USD)...
(4) Khối lượng thực hiện và giải ngân các dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đều chậm so với tiến độ đề ra. Vốn giải ngân từ nguồn NSNN chỉ đạt khoảng 27,7% kế hoạch; vốn trái phiếu Chính phủ thuộc kế hoạch năm 2008 mới thanh toán khoảng 13,4%. Nguyên nhân tỷ lệ giải ngân thấp là do sự biến động của giá cả nguyên vật liệu, hiện nay hầu hết các bộ, ngành và địa phương đang thực hiện việc điều chỉnh tổng mức đầu tư các dự án; việc triển khai các thông tư 03, 05, 09 của Bộ Xây dựng còn gây nhiều lúng túng cho các bộ, ngành và địa phương; công tác đấu thầu đang gặp nhiều khó khăn do không có doanh nghiệp tham gia đấu thầu; một số chủ đầu tư lại trì hoãn thời gian đấu thầu;...
Tình hình giải ngân các dự án sử dụng nguồn vốn ODA cũng gặp nhiều khó khăn, do giá cả tăng cao, tổng mức vốn đầu tư các dự án phải điều chỉnh tăng lên, nhưng mức vốn bố trí cho các dự án đã được cam kết cố định, hiện chưa có nguồn bổ sung để thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn này.
Tình hình giải ngân chậm đã tác động mạnh tới tăng trưởng ngành xây dựng trong 6 tháng đầu năm. Ngành xây dựng chiếm tỷ trọng khoảng 7% trong tổng sản phẩm quốc nội, nhưng 6 tháng đầu năm chỉ tăng trưởng được 0,9% (cùng kỳ tăng 9,5%), làm giảm tăng trưởng chung của khu vực công nghiệp và xây dựng và tăng trưởng chung của nền kinh tế.
(5) Các ngành sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu gặp nhiều rất nhiều khó khăn do giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao làm tăng chi phí; lãi suất cho vay ngân hàng tăng cao (trên 20%); vốn lưu động cho các doanh nghiệp giảm mạnh so với các năm trước; điều hành tỷ giá chưa phù hợp với cung - cầu thị trường, làm giảm tính cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu. Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng lên mức 16.461 đ/USD (ngày 11/6), nhưng trên thực tế các hoạt động mua bán ngoại tệ trong thời gian qua hết sức phức tạp. Thực tế các doanh nghiệp nhập khẩu không mua được ngoại tệ với tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước quy định tại các ngân hàng thương mại; tỷ giá tại thị trường tự do tăng cao hơn nhiều mức quy định đã gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh.
(6) Một số vấn đề xã hội gặp khó khăn
Việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch hóa gia đình bị giảm sút nghiêm trọng. Trong 6 tháng đầu năm 2008, số trẻ em sinh ra tăng trên 18,2 nghìn trẻ và tăng 7,2% so cùng kỳ. Riêng trong quí I/2008, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng 17,3%[1].
Về giải quyết việc làm: Do khó khăn chung trong toàn bộ nền kinh tế, nên các doanh nghiệp đều thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các doanh nghiệp thu hút nhiều nhân công, lao động; nhiều công trình xây dựng bị ngưng trệ;... đã dẫn đến tình trạng mất việc làm và không có thu nhập đối với nhiều công nhân. Số người được giải quyết việc làm trong 6 tháng đầu năm 2008 ước đạt 78 vạn lượt người, bằng 46% kế hoạch cả năm (cùng kỳ năm 2007 bằng 50% kế hoạch). Mặt khác, tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây, nhiều vụ tai nạn lao động nghiêm trọng đã xảy ra, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng, khai thác khoáng sản gây thiệt hại lớn về người và tài sản.
Đình công của công nhân xảy ra nhiều hơn. Từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 330 cuộc đình công, tập trung tại một số tỉnh, thành phố phía Nam như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Long An,... Lạm phát tăng cao đã ảnh hưởng nặng nề đến đời sống nhân dân nói chung và đời sống những người làm công ăn lương nói riêng; các yếu tố liên quan đến tiền lương đã gây nhiều căng thẳng giữa quan hệ người lao động và các chủ doanh nghiệp; nên các cuộc đình công đòi tăng lương đã tăng cao trong 6 tháng đầu năm. Chế độ tiền lương và chế độ đãi ngộ cho công chức Nhà nước thấp, đã không thu hút hoặc giữ chân được lao động có chất lượng cao làm việc trong khu vực hành chính nhà nước, các cơ sở dịch vụ công.
Công tác xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội gặp nhiều khó khăn. Thiệt hại từ thiên tai và dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi và giá cả hầu hết các mặt hàng tăng cao trong 6 tháng đầu năm, đặc biệt là mặt hàng lương thực thực phẩm đã tác động không nhỏ tới sinh hoạt và đời sống của nhân dân, nhất là các hộ đói, nghèo. Biểu hiện rõ nhất là tình hình đứt bữa trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Tính đến hết tháng 6, tổng số lượt hộ và nhân khẩu đứt bữa đã lên đến 718.989 hộ và 3.025.417 nhân khẩu, gấp hơn 1,5 lần so với cùng kỳ năm 2007.
Tỷ lệ thí sinh trung học phổ thông trượt tốt nghiệp còn cao: trong số gần 1,2 triệu thí sinh dự thi tốt nghiệp, gần 340.000 em trượt tốt nghiệp thi đợt 1, trong đó: trung học phổ thông gần 250.000 em, bổ túc gần 90.000 em; đặc biệt một số địa phương tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt thấp, như: Phú Yên, Gia Lai, Bạc Liêu, Sóc Trăng có tỷ lệ tốt nghiệp bổ túc rất thấp dưới 10% tổng số thí sinh dự thi tốt nghiệp.
B. VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 10/2008/NQ-CP
Căn cứ Nghị quyết của Chính phủ các bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai thực hiện các công việc được giao. Cụ thể như sau:
1. Về việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Cụ thể: thu hút mạnh tiền từ lưu thông về thông qua việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả VND và USD (từ tháng 2 tăng 1%)[1]; tăng khối lượng bán tín phiếu thông qua nghiệp vụ thị trường mở; phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước; thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng các mức lãi suất cơ bản từ 8% lên 12% (tháng 2/2008)[1], và lên tiếp 14% (tháng 6/2008)[1]; điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối theo hướng mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua-bán USD của các tổ chức tín dụng từ +0,75 lên +1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng; điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND và USD từ mức 16.139 VND/USD (ngày 10/6/2008) lên mức 16.461 VND/USD (ngày 11/6/2008); đến ngày 26/6 đã điều chỉnh nới biên độ tỷ giá mua-bán USD của các tổ chức tín dụng lên +2%;... Đồng thời, trước những biến động tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời tuyên truyền sâu rộng đến người dân về chủ trương điều hành tỷ giá và ngoại hối của NHNN; kiểm tra giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại hối; Để đảm bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng theo mục tiêu đã đề ra không vượt quá 30%, NHNN đã chỉ đạo các Tổ chức tín dụng không được sử dụng thêm các phí cho vay, phải áp dụng lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố, đồng thời chỉ đạo các Tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao, như: đầu tư kinh doanh chứng khoán; bất động sản,...
Tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn. 6 tháng đầu năm huy động vốn toàn ngành ngân hàng chỉ tăng 7,04% so với cuối năm 2007, thấp hơn nhiều so với mức tăng 23,81% của cùng kỳ năm trước. Các tổ chức tín dụng đã liên tục đẩy lãi suất huy động lên cao để huy động đủ vốn đáp ứng nhu cầu về thanh khoản. Hiện mức lãi suất huy động phổ biến của khối Ngân hàng Thương mại nhà nước là 17-17,5%/năm, khối Ngân hàng thương mại cổ phần là 17,5-18%/năm. So với tháng 12/2007 tiền gửi bằng tiền đồng tăng cao hơn tiền gửi bằng ngoại tệ (8,36% và 2,52%), trong đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế giảm 4,28%, còn tiền gửi của dân cư tăng 20,59%. Nhiều Ngân hàng thương mại cổ phần huy động vốn không tăng so với tháng 12 năm 2007 và tháng 5,6 năm 2008 giảm so với tháng 4/2008. Huy động vốn thông qua tiền gửi của toàn ngành ngân hàng tăng thấp nhưng dư nợ tín dụng 6 tháng tăng 19,99% so với cuối năm 2007 và tăng 54,9% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là dư nợ bằng ngoại tệ. Dư nợ tín dụng vẫn ở mức cao, tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước đã giảm thấp hơn (57,02%).
Qua 6 tháng thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tổng phương tiện thanh toán (M2) trong nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2008 chỉ tăng 4,48% so với cuối năm 2007, thấp hơn cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước 24,62%) và tăng 24,06% so với cùng kỳ năm trước. Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tháng 6 giảm 7,13% so với tháng 12/2007 và giảm 17,46% so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình hiện nay nổi lên là các ngân hàng thương mại mặc dù đã nâng mức lãi suất huy động ở mức cao, nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc huy động tiền đồng; các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thiếu vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu do với lãi suất cao (21%) các doanh nghiệp không đủ khả năng kinh doanh với mức lợi nhuận cao hơn lãi suất đi vay, nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế; sự chênh lệch giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá trên thị trường tự do, nên các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn trong việc mua ngoại tệ để thực hiện các hợp đồng đã ký kết; khả năng thanh khoản của các ngân hàng còn gặp khó khăn, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần có qui mô nhỏ, có độ rủi ro cao cần phải theo dõi chặt chẽ để có biện pháp xử lý sớm.
2. Về việc kiểm soát và nâng cao hiệu quả chi tiêu công.
(2) Về sắp xếp bố trí lại kế hoạch đầu tư phát triển năm 2008
Thực hiện Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có công văn số 3119/BKH-TH ngày 02 tháng 5 năm 2008 gửi các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước về việc rà soát lại các công trình, dự án, danh mục dự án cần phải loại bỏ, hoặc dãn tiến độ.
Theo Quyết định 390/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chậm nhất ngày 20/5/2008 các bộ, ngành, địa phương gửi báo cáo đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tính đến ngày 26 tháng 6 năm 2008 mới có 36 bộ, ngành; 63 địa phương và 31 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã gửi báo cáo đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư[1].
Kết quả rà soát các dự án sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước của các đơn vị nêu trên như sau:
- Tổng số công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng, giảm 7,9% so với kế hoạch đã giao, trong đó:
Số dự án đình hoãn và ngừng triển khai thực hiện là: 1.089 dự án, với tổng số vốn kế hoạch năm 2008 là 2.140 tỷ đồng.
Số dự án giãn tiến độ thực hiện là 647 dự án với tổng số vốn là 3.484,5 tỷ đồng.
Trong tổng số dự án đình hoãn và giãn tiến độ đến thời điểm báo cáo thì hầu hết là các dự án nhóm B và nhóm C, không có dự án nhóm A.
- Đối với các bộ, ngành ở Trung ương, tổng số dự án đình, hoãn, dãn tiến độ là 81 dự án, với tổng số vốn là 261,8 tỷ đồng, giảm 2% so với kế hoạch giao. Có 12 trên 36 đơn vị có báo cáo rà soát nhưng không điều chỉnh, trong đó có một số bộ sử dụng khá lớn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước như Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế....
- Đối với các địa phương, trong 63 tỉnh thành phố có báo cáo, giảm được 1.655 dự án với tổng số vốn điều chỉnh giảm là 5.363,5 tỷ đồng, giảm 9,2% so với kế hoạch giao. Trong đó có 2 tỉnh không điều chỉnh là Sơn La và Ninh Bình; 26 tỉnh chỉ điều chỉnh giảm dưới 5% so với tổng số vốn thuộc ngân sách nhà nước (xin xem phụ lục kèm theo).
- Đối với các tập đoàn và tổng công ty nhà nước lớn, có 31 đơn vị báo cáo, trong đó chỉ có một số đơn vị có điều chỉnh giảm số lượng dự án và vốn đầu tư là: Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Thuốc lá và Tổng công ty Lương thực miền Nam; Tổng công ty Hóa chất Việt Nam.... Tổng số dự án điều chỉnh giảm là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng.
Đối với Trái phiếu Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp các bộ ngành, địa phương tổng hợp và trình Thủ tướng Chính phủ phương án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ với tổng mức vốn giảm 25% so với kế hoạch được Quốc hội thông qua; số vốn điều chỉnh đã được thông báo tới các bộ, ngành và địa phương.
Đồng thời với việc triển khai thực hiện Quyết định 390/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong việc xây dựng cơ chế chính sách đối với đầu tư phát triển, Bộ kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện để ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 78/2007/NĐ-CP về đầu tư theo các hình thức BTO, BT, BOT, đồng thời chuẩn bị phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để nghiên cứu chuyển một số dự án trong danh mục đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước sang đầu tư theo các hình thức này.
Thực hiện công điện số 863/CĐ-TTg ngày 6 tháng 6 năm 2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức 11 đoàn công tác để kiểm tra tình hình thực hiện Quyết định số 390/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó: 4 đoàn công tác tại Trung ương (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, các ngân hàng thương mại, các tập đoàn và tổng công ty nhà nước) và 7 đoàn công tác tại 7 vùng kinh tế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ có báo cáo chi tiết khi các đoàn công tác thực hiện xong công tác kiểm tra.
3. Về phát triển sản xuất kinh doanh và bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa.
Việc khắc phục hậu quả thiên tai và dịch bệnh đã được thực hiện tích cực để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã thực hiện tốt các chính sách khôi phục sản xuất lúa Đông xuân năm 2007-2008 và chăn nuôi trâu, bò bị thiệt hại do ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại năm 2008; bảo vệ nghiêm ngặt đàn giống bằng biện pháp an toàn sinh học, nghiên cứu sử dụng vắc xin, đảm bảo cung cấp giống an toàn cho sản xuất; nghiên cứu trình Chính phủ ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí phòng chống dịch bệnh cúm gia cầm, lở mồm long móng và tai xanh ở lợn theo hướng điều chỉnh kinh phí hỗ trợ cho phù hợp hơn với thị trường và khả năng thực tế ngân sách của địa phương.
Các bộ ngành, địa phương tích cực tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính đối với việc phát triển sản xuất kinh doanh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành thông tư hướng dẫn cơ chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan giải quyết điều kiện kinh doanh, đăng ký thuế và đăng ký cấp dấu đối với doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Bộ Tài Chính đã điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc, clinker và nhiên liệu bay để giảm bớt khó khăn cho ngành chăn nuôi, sản xuất xi măng và hàng không.
Bộ Công Thương trong thời gian qua đã phối hợp với các bộ chuyên ngành rà soát, thống nhất lại về số liệu cung - cầu các ngành hàng trọng yếu. Phối hợp với một số Hiệp hội ngành hàng để đánh giá thực trạng sản xuất, kinh doanh, phân phối, đồng thời yêu cầu các Hiệp hội chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường sản xuất, đảm bảo nguồn hàng, không để biến động giá bất thường, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, găm hàng, gây sốt giá.
Bộ Tài chính đang phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ liên quan nghiên cứu, ban hành Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định 170 về Pháp lệnh giá, theo đó sẽ có cơ chế rõ ràng về quy định giá tối đa, đăng ký, kê khai và công khai về giá, đồng thời có chế tài xử lý các trường hợp vi phạm.
Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định về việc thành lập Tổ Điều hành thị trường và Quyết định ban hành Quy chế hoạt động của Điều hành thị trường trong nước.
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, các hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì tốt, các mặt hàng trọng yếu trên thị trường về cơ bản được bình ổn giá, đặc biệt là kịp thời hạ nhiệt giá gạo và xi măng. Về cơ bản đã đảm bảo cung - cầu các mặt hàng trên thị trường.
Tuy nhiên, hiện nay một số doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất thép đang có yêu cầu tái xuất thép, cần phải có chỉ đạo để đảm bảo nhu cầu thép trong những tháng cuối năm. Trong quá trình thực hiện còn một số tồn tại là công tác quản lý thông tin chưa tốt, gây tác động tâm lý bất lợi đến người tiêu dùng (như đợt tăng giá gạo bất thường vừa qua). Công tác dự báo thị trường còn chưa tốt, dẫn đến các biện pháp đưa ra chưa thực sự hiệu quả, chủ động và kịp thời. Giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp còn chậm đã gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
4. Về nhóm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu.
Bộ Công Thương, Bộ Tài chính đã và đang rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là thủ tục hải quan, thuế... Triển khai nghiên cứu việc xây dựng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với cam kết quốc tế để giảm nhập siêu.
Về công tác xúc tiến thương mại, tiếp tục triển khai các chương trình đã được phê duyệt theo Quyết định 2492/QĐ-BCT ngày 28/12/2007. Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ triển khai một số chương trình xúc tiến thương mại doanh nghiệp, với mục tiêu kêu gọi và thu hút các tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
Bộ Công Thương đang xây dựng và chuẩn bị trình Đề án rà soát các ngành hàng xuất khẩu và nhập khẩu từ nay đến năm 2010.
Việc điều hành xuất khẩu, đã thực hiện các chính sách để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó xuất khẩu gạo tiếp tục được thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhằm đảm bảo an ninh lương thực, bình ổn giá. Căn cứ vào khả năng cân đối thực tế và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, có thể cho phép xuất khẩu gạo cả năm từ 4 đến 4,5 triệu tấn.
Về nhập khẩu: đã thực hiện đồng bộ nhiều chính sách để giảm nhập khẩu, trong đó có việc điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng[1].
Do tác động trực tiếp của một số chính sách hạn chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu ô tô, linh kiện ô tô, vàng...; kiểm soát chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu, nên nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần, đặc biệt là nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Đối với hoạt động xuất khẩu, các chính sách đề ra đến nay chưa có tác động tích cực, do các hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng công nghiệp gặp phải những khó khăn như giá nguyên liệu đầu vào tăng cao; giá cước vận chuyển tăng; lãi suất vay vốn ngân hàng cao... Tỷ giá VND/USD biến động không ổn định đã ảnh hưởng bất lợi cho xuất khẩu. Hiện nay, VND giảm giá so với USD, có thể tác động tích cực đến xuất khẩu, nhưng do nhóm hàng công nghiệp của Việt Nam (dệt may, da giày, linh kiện điện tử...) chủ yếu phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, nên khó có thể tác động tích cực đến nhóm hàng này.
5. Về thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Các Bộ chuyên ngành phối hợp với hiệp hội ngành hàng tiến hành kiểm tra các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng trọng yếu như xi măng, sắt thép, phân bón,... bảo đảm giảm chi phí ở các khâu sản xuất, sản xuất hết công suất để tăng nguồn cung cho thị trường. Các doanh nghiệp đang phấn đấu tiết kiệm năng lượng, vật tư và các chi phí quản lý hành chính trong sản xuất kinh doanh; tìm mọi biện pháp tăng năng suất và chất lượng để giảm giá thành, bù thiệt hại về giá cả đầu vào tăng; nâng cao việc sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và tăng cường tỷ lệ nội địa hóa.
6. Về tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá
Bộ Công Thương đã phối hợp với Ban 127 tiến hành kiểm tra hoạt động buôn bán tiểu ngạch tại một số cửa khẩu; Tiến hành kiểm tra hệ thống phân phối của một số mặt hàng nhạy cảm như xi măng, sắt thép, xăng dầu, phân bón, than. Đồng thời, theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đang nghiên cứu, xây dựng đề án hoàn thiện hệ thống phân phối, trước hết đối với các mặt hàng xăng dầu, phân bón, lương thực, xi măng, sắt thép, thuốc chữa bệnh.
Qua việc triển khai các giải pháp trên, đã ngăn chặn tối đa hiện tượng xuất nhập lậu tại các cửa khẩu như đã xảy ra những năm trước đây. Phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm về kê khai, niêm yết giá, đảm bảo dần đưa hoạt động của các đại lý phân phối vào nền nếp.
7. Về các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Trong thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương thực hiện các giải pháp, chính sách để kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đói và hỗ trợ sản xuất, sinh hoạt và đời sống cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân, cụ thể: xuất cấp gạo dự trữ quốc gia không thu tiền cho các hộ đói (thống kê từ nhiều nguồn khác nhau, đến nay tổng số lương thực đã trợ cấp cho các hộ thiếu đói là hơn 26,6 nghìn tấn lương thực, và số tiền mặt khoảng 10 tỷ đồng); Hỗ trợ 2 triệu đồng đối với mỗi con trâu, bò, bê, nghé bị chết do đợt rét đậm, rét hại từ đầu năm. Cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp sáng) cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới. Hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới tàu đánh bắt hải sản có công suất máy từ 90CV trở lên hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản. Hỗ trợ ngư dân để thay máy tàu sang loại máy mới tiêu hao ít nhiên liệu hơn đối với tàu đánh bắt hải sản có công suất từ 40CV trở lên hoặc tàu dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác hải sản. Hỗ trợ về kinh phí bảo hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản có công suất máy từ 40CV trở lên, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác hải sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao động trên các tàu cá, tàu dịch vụ. Hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản; Điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000 đồng/người/năm lên 130.000 đồng/người/năm. Hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; Cấp sách giáo khoa không thu tiền cho học sinh thuộc diện chính sách, giảm giá bán sách giáo khoa cho con em các gia đình nghèo để đảm bảo giá bán sách giáo khoa năm học 2008-2009 không cao hơn năm học trước, bảo đảm vào năm học mới tất cả các học sinh thuộc diện chính sách, khó khăn đều có sách giáo khoa để học tập. Kể từ 01 tháng 01 năm 2008, mức học bổng chính sách được điều chỉnh theo tỷ lệ tương ứng với các quyết định điều chỉnh mức lương tối thiểu chung của Nhà nước, bảo đảm mức học bổng chính sách bằng 80% mức lương tối thiểu; hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm đối với đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, có đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2008-2010 (đối với đất sản xuất, định mức cho mỗi hộ tối thiểu là 0,25 ha đất ruộng lúa nước 1 vụ hoặc 0,15 đất ruộng lúa nước 2 vụ hoặc 0,5 ha đất đồi, gò hoặc đất nuôi trồng thuỷ sản, mức hỗ trợ cho mỗi hộ để có đất sản xuất không quá 20 triệu đồng/hộ; những hộ không có nhu cầu về đất sản xuất hoặc những địa phương không còn đất thì hỗ trợ bằng tiền để các hộ này có điều kiện tự tạo việc làm, chuyển đổi ngành nghề khác. Những hộ có nhu cầu vốn để mua sắm nông cụ, máy móc hoặc cần vốn để làm thêm các ngành nghề khác, tăng thu nhập, được hỗ trợ tối đa 3 triệu đồng/hộ và được vay vốn theo hình thức tín chấp không quá 10 triệu đồng/hộ trong 3 năm với lãi suất 0%. Ngoài ra, những lao động có nhu cầu học nghề để đi làm công nhân, đi xuất khẩu lao động được hỗ trợ tối đa 3 triệu đồng/lao động); các chủ chăn nuôi gia súc, gia cầm bị tiêu huỷ do dịch bệnh hoặc trong vùng có dịch được hỗ trợ với mức tương đương 70% giá trị gia súc, gia cầm thương phẩm của người sản xuất bán trên thị trường;... Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định bố trí thêm 7.000 tỷ đồng cho Ngân hàng chính sách xã hội. Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các Tổ chức tín dụng ưu tiên vốn cho đầu tư sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp nông thôn; thực hiện có hiệu quả chính sách cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, học sinh, sinh viên,... Đặc biệt, khoanh nợ đối với các hộ nông dân chăn nuôi trâu bò bị thiệt hại do rét đậm, rét hại; cho vay thu mua lúa gạo; cho vay thu mua chế biến cá tra, cá ba sa,... với lãi suất ưu đãi đã kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất cho người dân và doanh nghiệp.
Đến ngày 26/6/2008 Ngân sách Trung ương đã cấp 7.357,6 tỷ đồng để thực hiện các chính sách ổn định an sinh xã hội sử dụng nguồn vốn NSNN. Uỷ ban nhân dân các tỉnh được sử dụng một phần kinh phí tiết kiệm 10% chi thường xuyên theo Quyết định số 390/QĐ-TTg về việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ kiềm chế lạm phát để hỗ trợ việc mua giống lúa cho nông dân (phần tăng giá) phục vụ sản xuất vụ Hè thu, vụ Mùa năm 2008.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN TẬP TRUNG THỰC HIỆN TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM
1. Yêu cầu đặt ra trong 6 tháng cuối năm
(1) Tốc độ tăng trưởng GDP đã được Quốc hội điều chỉnh là 7%, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2008 mới đạt 6,5%. Để đạt được tốc độ tăng trưởng đề ra, tốc độ tăng trưởng 6 tháng cuối năm sẽ phải đạt 7,5%. Trong bối cảnh phải thực hiện các chính sách kiềm chế lạm phát, đây sẽ là một thách thức lớn, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao từ các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp; các giải pháp kiềm chế lạm phát phải được thực hiện đồng bộ, đúng liều lượng và thời gian phù hợp. Điều đáng lưu ý là để đạt được kế hoạch đã được điều chỉnh thì ngành công nghiệp và xây dựng phải phấn đấu tăng trưởng 6 tháng cuối năm trên 9% (6 tháng đầu năm mới tăng 7%). Ngành dịch vụ 6 tháng cuối năm phải tăng 8,6% (6 tháng đầu năm mới tăng 7,6%).
(2) Chỉ số lạm phát 6 tháng đầu năm đã ở mức 18,44%; nếu trong 6 tháng cuối năm, mức lạm phát bình quân khoảng 1%/tháng thì mức lạm phát cả năm khoảng 25%; nếu mức bình quân trên 1%/tháng thì lạm phát cả năm 2008 trên 25%. Nếu chỉ số lạm phát ở mức quá cao sẽ gây khó khăn cho đời sống nhân dân, cũng như ổn định nền kinh tế trong thời gian tới. Nhiệm vụ kiềm chế lạm phát từ nay đến cuối năm sẽ còn hết sức nặng nề.
(3) Về giảm nhập siêu:
Để tiếp tục kiềm chế nhập siêu cả năm 2008 ở mức khoảng 30-31% kim ngạch xuất khẩu, thì xuất khẩu cả năm phải đạt khoảng 61,2 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2007 và trong 6 tháng cuối năm phải phấn đấu xuất khẩu được 31,3 tỷ USD; nhập khẩu cả năm 2008 phấn đấu dưới 80 tỷ USD; nhập siêu khoảng 19 tỷ USD. Đây là một phương án tích cực, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cao của các ngành, các cấp. Trong tình hình đầu tư nước ngoài tăng cao, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất cho các công trình trọng điểm quốc gia cũng ở mức cao; hầu hết các sản phẩm nhập khẩu đều tăng giá, đặc biệt là các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ; do việc cắt giảm thuế quan và sức mua trong nước tiếp tục tăng cao sẽ làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu. Nếu các biện pháp kiềm chế nhập khẩu và các chính sách tỷ giá, thị trường không thực hiện tốt, nhập siêu sẽ còn tăng cao hơn mức dự báo nói trên (21-22 tỷ USD).
(4) Các cân đối tiền tệ cần đảm bảo phát triển ổn định, phấn đấu tổng phương tiện thanh toán năm 2008 tăng thấp hơn kế hoạch đề ra (có thể dưới 20%) so với năm 2007 dưới 22%. Tổng tiền gửi của tổ chức kinh tế và tư nhân vào các tổ chức tín dụng tăng 18-20%. Tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế tăng dưới 30%.
2. Một số giải pháp tập trung thực hiện trong các tháng cuối năm
Nhiệm vụ đề ra cho những tháng còn lại của năm 2008 sẽ phải tiếp tục tập trung thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững; đây là nhiệm vụ rất nặng nề, nhất là trong tình hình kinh tế thế giới vẫn đang trong chiều hướng suy giảm, giá dầu thô, lương thực và nhiều vật tư chủ yếu khác trên thị trường thế giới tiếp tục biến động không lường, dịch bệnh, thiên tai liên tục xảy ra... Ở trong nước, các cân đối vĩ mô không ổn định, giá cả liên tục tăng cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn...
Để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng bền vững đi đôi với việc ổn định đời sống nhân dân, các bộ, ngành và địa phương cần nghiêm túc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2008; Nghị quyết số 20/2008/QH12 về một số vấn đề kinh tế-xã hội năm 2008 trong tình hình mới của Quốc hội; Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 9/1/2008 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2008; Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững; Quyết định số 390/2008-QĐ- TTg ngày 17/4/2008 về việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế chế lạm phát và các chính sách giảm bớt những khó khăn cho đời sống của nhân dân, nhất là những người nghèo bị ảnh hưởng của thiên tai và ảnh hưởng của việc tăng giá cả gây ra ; Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc hạn chế nhập siêu (văn bản số 955/TTg-KTTH ngày 24/6/2008); các biện pháp kiềm chế lạm phát và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô những tháng cuối năm 2008 (văn bản số 970/TTg-KTTH ngày 25/6/2008);... trong đó, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định tiền tệ, đẩy mạnh phát triển sản xuất, giảm nhập siêu và bảo đảm an sinh xã hội. Cụ thể là:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng linh hoạt trong điều hành để vừa góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô vừa thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, thị trường mở, tái cấp vốn để vừa kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của cả năm 2008, vừa đảm bảo khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Kịp thời điều chỉnh các loại lãi suất của Ngân hàng Nhà nước phù hợp với diễn biến của thị trường và theo hướng thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, điều hành tỷ giá linh hoạt theo đúng cung cầu của thị trường để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu; đồng thời chống tình trạng đầu cơ và lũng loạn thị trường ngoại tệ trong hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như trên thị trường tự do. Kịp thời giải quyết các khó khăn về ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vật tư hàng hóa thiết yếu phục vụ sản suất và xuất khẩu.
Thứ ba, thực hiện chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Phấn đấu tiết kiệm chi tiêu ngân sách nhà nước, không phát hành thêm trái phiếu Chính phủ để thực hiện các nhiệm vụ chưa cấp thiết. Tiết kiệm các nguồn thu và chi để giảm mức bội chi ngân sách nhà nước trong năm 2008 và các năm tiếp theo; phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách xuống khoảng 4% GDP. Kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất và kinh doanh chính của doanh nghiệp. Đồng thời khuyến khích và kêu gọi người dân và các doanh nghiệp tiết kiệm chi tiêu, tiết kiệm sử dụng điện, nước, xăng dầu,... dưới nhiều hình thức.
Thứ tư, các bộ, ngành liên quan tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến cung - cầu các mặt hàng trọng yếu, đảm bảo đủ nguồn cung cho sản xuất và tiêu dùng, thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp nhằm ổn định giá, điều phối hợp lý giữa các vùng, miền không để thiếu hàng cục bộ.
Thứ năm, thực hiện tốt chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập siêu, trong đó tập trung:
Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng phát triển, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước như hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm cao su, thực phẩm chế biến...
Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng mới đạt kim ngạch trên 100 triệu USD và có tăng độ tăng trưởng nhanh như nhóm hàng cơ khí (sản phẩm chế tạo từ gang thép, máy biến thế điện, động cơ điện), sản phẩm từ cao su, sắn các loại, thuỷ tinh và sản phẩm thuỷ tinh...
Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó tập trung kêu gọi và thu hút các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ và sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu và các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao.
Triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu, phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời, với chi phí thấp.
Xây dựng và triển khai các chính sách khuyến khích xuất khẩu phù hợp với quy định của WTO như bảo hiểm xuất khẩu, mở rộng danh mục mặt hàng xuất khẩu hưởng chính sách tín dụng xuất khẩu của nhà nước.
Thực hiện các chính sách thuế và áp dụng hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu. Áp dụng việc cấp và ngừng cấp giấy phép tự động; quy định thời hạn nộp thuế và cửa khẩu thông quan theo đối tượng hàng hóa; kiểm tra xuất xứ, chất lượng hàng hóa trước khi thông quan;...
Kiểm soát chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu, theo đó phân chia nguồn hàng nhập khẩu theo 3 nhóm: nhóm hàng cần thiết nhập khẩu; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu và nhóm hàng hạn chế nhập khẩu. Đối với từng nhóm sẽ có các điều kiện để tiếp cận nguồn ngoại tệ khác nhau.
Nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo xu hướng giá cả và thị trường thế giới. Định hướng nhập khẩu sát yêu cầu sản xuất cả về số lượng và thời điểm nhập khẩu. Việc lựa chọn đúng thời điểm nhập khẩu vừa làm giảm áp lực nhập khẩu vừa có thể giảm được đơn giá nhập khẩu, từ đó tăng hiệu quả kinh tế cho chính doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Thứ sáu, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh; nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tập trung tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. Kịp thời xử lý các vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp. Tiếp tục rà soát xóa bỏ các quy định không phù hợp gây cản trở cho các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Khuyến khích việc hình thành, phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là các doanh nghiệp hoạt động ở khu vực nông nghiệp nông thôn, tạo động lực và cơ sở để duy trì sự phát triển cao của nền kinh tế. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành các chính sách cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tạo các điều kiện cần thiết phát triển đa dạng và khai thác thế mạnh của các ngành dịch vụ, là lĩnh vực còn nhiều tiềm năng phát triển.
Thực hiện các giải pháp đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tăng cường các biện pháp để phòng chống dịch bệnh trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ bảy, giải quyết hiệu quả một số vấn đề xã hội bức xúc, và đẩy mạnh hoạt động xoá đói giảm nghèo: Tăng cường các biện pháp hỗ trợ an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân thông qua việc đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm. Các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và có hiệu quả các chính sách đã ban hành về hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ cận nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp,... Tiếp tục thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo và các đối tượng chính sách và hỗ trợ lãi suất để đầu tư thay máy tiết kiệm nhiên liệu, bảo hiểm phương tiện và con người.
Thứ tám, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền: thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình kinh tế vĩ mô của đất nước và công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các bộ, ngành và địa phương tới người dân, các doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế để có những nhìn nhận đúng đắn về tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam, tránh gây ra các dư luận và tin đồn thất thiệt, gây tâm lý hoang mang cho nhân dân và xã hội./.
|